Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Giải quyết các vấn đề xã hội trong quá trình tăng trưởng kinh tế ở Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 100 trang )


4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DDI
Đẩu tư trực tiếp trong nước
ĐBSH
Đồng bằng sông Hồng
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
GNP
Tổng sản phẩm quốc dân
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
ILO
Tổ chức Lao động Quốc tế
WB
Ngân hàng thế giới


5
DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
1.
Bảng 2.1
Tăng trưởng kinh tế Vĩnh Phúc từ 2001 –
2011


33
2.
Biểu đồ 2.1
GDP/người tỉnh Vĩnh Phúc so với cả nước và
vùng ĐBSH
35
3.
Bảng 2.2
Một số chỉ tiêu so sánh tỉnh Vĩnh Phúc so với
các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ năm
2008
36
4.
Bảng 2.3
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2001-
2010
37
5.
Biểu đồ 2.2
So sánh cơ cấu kinh tế Vĩnh Phúc với một số
tỉnh năm 2008

6.
Bảng 2.4
Thu ngân sách tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn
2001- 2010
39
7.
Bảng 2.5
Cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông, lâm

nghiệp, thuỷ sản giai đoạn 2000 – 2010
42
8.
Biểu đồ 2.3
Quy mô và tốc độ tăng trưởng GO ngành
công nghiệp giai đoạn 2001-2010
45
9.
Biểu đồ 2.4
Quy mô và tốc độ tăng trưởng GDP ngành
dịch vụ, 2001-2010
47
10.
Bảng 2.6
Kết quả xóa đói giảm nghèo ở Vĩnh Phúc
giai đoạn 2001 - 2005
50
11.
Bảng 2.7
Số hộ nghèo của Vĩnh Phúc từ 2006 đến 2009
52
12.
Bảng 2.8
Số lao động được giải quyết việc làm hàng
năm từ 2004 - 2011
56
13.
Bảng 2.9
Một số chỉ số sức khoẻ của Vĩnh Phúc đã đạt
được qua một số năm

59
14.
Bảng 2.10
Hoạt động khám chữa bệnh tại các tuyến
trong 3 năm 2007-2009
63
15.
Bảng 2.12
Một số chỉ báo phát triển mẫu giáo năm 2010
66
16.
Bảng 2.13
Một số chỉ báo về hiện trạng giáo dục tiểu
học năm 2010
68
17.
Bảng 2.14
Một số chỉ báo về hiện trạng giáo dục trung
học cơ sở năm 2010
69
18.
Bảng 2.15
Một số chỉ báo về hiện trạng giáo dục trung
học phổ thông năm 2010
71


6
MỤC LỤC (Chỉnh lại)
MỞ ĐẦU……………………………………………………… 1

Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC
GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI TRONG QUÁ TRÌNH TĂNG
TRƢỞNG KINH
TẾ……………………………………………………… 8
1.1. Tăng trưởng kinh tế bền vững và ý nghĩa của nó………………….…….8
1.1.1. Khái niệm……………………………………………………… 8
1.1.2. Ý nghĩa của việc tăng trưởng kinh tế bền vững đối với việc giải
quyết các vấn đề xã hội………………………………………… 11
1.2. Một số vấn đề xã hội chủ yếu nảy sinh trong quá trình tăng trưởng kinh tế
và ý nghĩa của nó đối với tăng trưởng bền vững ……………………………12
1.2.1 Khái lược về các vấn đề xã hội chủ yếu……………………… 12
1.2.1.1Vấn đề đói nghèo………………………………………… …12
1.2.1.2 Vấn đề công bằng trong phân phối thu nhập……………… 14
1.2.1.3 Vấn đề việc làm……………………………………………….15
1.2.1.4 Vấn đề phát triển giáo dục, y tế……………………………….16
1.2.2.Tầm quan trọng của việc giải quyết các vấn đề xã hội……… 17
1.2.3. Nội dung của việc giải quyết các vấn đề xã hội trên……… …19
1.3. Kinh nghiệm giải quyết các vấn đề xã hội trong quá trình tăng trưởng
kinhtế ở một số tỉnh khác……………………………………………… 24
1.3.1. Kinh nghiệm của Đà Nẵng………………………………… 24
1.3.2.Kinh nghiệm của Bình Dương……………………………….…27
1.3.3. Bài học kinhnghiệm……………………………………………30
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI
TRONG QUÁ TRÌNH TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ Ở VĨNH PHÚC TỪ
1997 ĐẾN NAY…………………………………………………………… 32

7
2.1. Khái quát về quá trình tăng trưởng kinh tế ở Vĩnh Phúc từ 1997 đến
nay……………………………………………………………………… 32
2.1.1. Giai đoạn từ 1997 – 2000………………………………………32

2.1.2.Giai đoạn từ 2001 đến nay…………………………………… 33
2.2. Thực trạng các vấn đề xã hội và việc giải quyết chúng ở Vĩnh Phúc từ
1997 đếnnay……………………………… …………………….…… ….49
2.2.1Xóa đói giảm nghèo………………………………………….….49
2.2.2 Thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập……………… 53
2.2.3Giải quyết việc làm………………………………………… …55
2.2.4 Phát triển y tế, giáo dục……………………………………… 58
2.3. Đánh giá chung về thành tựu và hạn chế trong việc giải quyết các vấn đề
xã hội ở Vĩnh Phúc trong thời gian qua………… ……………….……… 73
2.3.1.Thành tựu đạt được…………………………………………… 73
2.3.2. Hạn chế……………………………………………………… 74
Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢI QUYẾT TỐT HƠN CÁC
VẤN ĐỀ XÃ HỘI, THÚC ĐẨY TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ BỀN VỮNG
Ở VĨNH PHÚC TRONG THỜI GIAN TỚI…………………………… 77
3.1. Quan điểm, phương hướng giải quyết các vấn đề xã hội vì mục tiêu tăng
trưởng kinh tế bền vững ở tỉnh Vĩnh Phúc……………………………….….77
3.1.1. Phương hướng, mục tiêu kinh tế – xã hội của
tỉnh Vĩnh Phúc…………………… ………………………………….77
3.1.2. Quan điểm về việc giải quyết các vấn đề xã hội trong quá trình
tăng trưởng kinh tế của tỉnh VĩnhPhúc………… ……………… ….79
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm giải quyết các vấn đề xã hội ở tỉnh Vĩnh
Phúc trong thời gian tới………………………………………………….…80
3.2.1. Hoàn thiện thể chế và chính sách………………………………80
3.2.2. Thực hiện các chính sách khuyến khích tăng trưởng kinh tế

8
gắn chặt với việc giải quyết các vấn đề xã hội……………………… 82
3.2.3. Thực hiện xã hội hóa việc giải quyết các vấn đề xã hội…… …83
3.2.4. Tạo ra nhiều việc làm tăng thu nhập cho người lao động……84
3.2.5. Quan tâm đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng vừa thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế vừa tạo điều kiện giải quyết các vấn đề xã hội…………….88
KẾT LUẬN……………………………… …………………………… 90
DANHMỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………….…………………… 92

9
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay tăng trưởng kinh tế cao là một trong những mục tiêu kinh tế
vĩ mô quan trọng của tất cả các quốc gia trên thế giới. Với hầu hết các nước,
chỉ tăng trưởng kinh tế cao mới tạo ra được nhiều của cải vật chất và tinh thần
thỏa mãn nhu cầu nhân dân, do đó nó cũng là tiền đề cho sự giàu có của một
quốc gia. Đối với các nước đang phát triển thì tăng trưởng kinh tế lại càng có
ý nghĩa cấp thiết hơn vì đó là nhân tố quyết định để đưa đất nước thoát khỏi
nghèo đói, lạc hậu, là điều kiện để phát triển kinh tế, tham gia hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực và là cơ sở để giải quyết hàng loạt các vấn đề kinh tế -
xã hội.
Tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với mọi quốc gia nhưng
không phải vì thế mà người ta lựa chọn tăng trưởng bằng mọi giá. Tăng
trưởng mà làm cho tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, làm ô nhiễm môi trường,
tạo ra sự phân hóa giàu nghèo, gia tăng lạm phát, thất nghiệp, bất bình đẳng
xã hội… thì tăng trưởng như vậy sẽ không bền vững. Vì vậy, việc kết hợp
đúng đắn giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội là rất quan
trọng, và cần thiết đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia và mỗi địa
phương.
Kinh nghiệm lịch sử thế giới đã chỉ ra rằng, một đất nước cũng như một
địa phương muốn tăng trưởng kinh tế bền vững, có chất lượng thì phải giải
quyết tốt được các vấn đề xã hội như tạo ra nhiều việc làm, đảm bảo công
bằng xã hội, phát triển y tế và giáo dục…và ngược lại giải quyết tốt các vấn
đề xã hội sẽ góp phần cho tăng trưởng kinh tế bền vững hơn. Bởi vậy có thể
nói tăng trưởng kinh tế và giải quyết đồng thời các vấn đề xã hội có mối quan

hệ với nhau và đây là mối quan hệ qua lại, tác động biện chứng lẫn nhau.

10
Ở Việt Nam, tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội luôn
được Đảng và Nhà nước quan tâm thể hiện ở mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
X xác định “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và
từng chính sách phát triển” [5, tr.216] . Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung phát triển năm 2011), được
thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (01 – 2011)
khẳng định thêm: kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn
hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và
từng chính sách.
Vĩnh Phúc là một tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Từ năm
1997 (tái lập tỉnh Vĩnh Phúc) đến nay, kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc luôn phát triển
nhanh chóng. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1998 – 2000 rất
cao, đạt 18,12%. Giai đoạn 2001 – 2005 tăng trưởng GDP đạt 15,02%. Tốc độ
tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2006 – 2010 đạt là 18,0%/năm. Nhìn
chung, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Vĩnh Phúc luôn đạt mức cao trong số
các tỉnh Đồng bằng sông Hồng và Vùng Kinh tế trọng điểm phía Bắc, tăng
gấp 2 lần so với tốc độ trung bình của cả nước. Có được những thành tựu này
là do tỉnh đã phát huy tốt lợi thế của mình và có chính sách thu hút có hiệu
quả nguồn vốn đầu tư FDI vào tỉnh. Tuy đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao nhưng ở Vĩnh Phúc các vấn đề xã hội như xóa đói giảm nghèo, việc làm,
vấn đề phân phối công bằng, y tế, giáo dục vẫn còn là những vấn đề nhức
nhối như: chênh lệch giữa nhóm người có thu nhập cao nhất và thấp nhất
đang có xu hướng doãng ra (năm 2008 chỉ tiêu này là khoảng 7 lần, cao hơn
nhiều so với mức 5,02 lần của năm 2006), công tác giảm nghèo chưa thực sự
bền vững, tình trạng ô nhiễm môi trường do rác thải công nghiệp, dân sinh và
tệ nạn xã hội ngày càng có xu hướng tăng. Làm thế nào để giải quyết tốt các


11
vấn đề xã hội trong quá trình tăng trưởng kinh tế thời gian tới, trong điều kiện
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với xu thế toàn cầu hóa
kinh tế diễn ra mạnh mẽ, với những thuận lợi và khó khăn mới để Vĩnh Phúc
tăng trưởng bền vững và trở thành một tỉnh giàu có và phồn vinh nhất miền
Bắc như lời chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn thì đó vẫn là vấn đề lớn, có ý
nghĩa đối với sự phát triển của tỉnh cần tiếp tục nghiên cứu và tìm hiểu.
Chính vì những lý do trên nên tác giả chọn đề tài “Giải quyết các vấn
đề xã hội trong quá trình tăng trưởng kinh tế ở Vĩnh Phúc” làm đề tài
nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề giải quyết các vấn đề xã hội như xóa
đói giảm nghèo, thất nghiệp, công bằng xã hội…trong quá trình tăng trưởng
kinh tế đã và đang thu hút không ít sự quan tâm của các học giả với nhiều bài
viết trên các báo, tạp chí, nhiều luận án, luận văn, các đề tài khoa học và các
công trình dưới dạng tài liệu tham khảo như:
Lê Văn Sang, Kim Ngọc “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở
Nhật Bản giai đoạn thần kỳ và Việt Nam thời kỳ đổi mới”, NXB, CTQG, 1999.
Lê Bộ Lĩnh “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước
châu Á và Việt Nam”, NXB, CTQG, 1998.
Đinh Xuân Lý “Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách
xã hội trong 25 năm đổi mới (1986 – 2011)”, NXB, ĐHQG Hà Nội, 2011.
“Tăng trưởng và chính sách xã hội ở Việt Nam trong quá trình chuyển
đổi từ 1991 đến nay – kinh nghiệm của các nước Asean”, của tác giả Lê Đăng
Doanh và Nguyễn Minh Trí (Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương);
NXB, Hà Nội, 2001.
Phạm Xuân Nam, “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ”, tạp chí cộng sản. 2007.


12
Nguyễn Quốc Phẩm. “Kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ và công bằng xã hội” , Tạp chí cộng sản, 2006.
Vũ Viết Mỹ, Tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong
sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá’, Tạp chí cộng sản, 2006.
Đề tài KX.07.03: “Về động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” do
GS. Lê Hữu Tầng chủ nhiệm.
Luận án tiến sĩ Nguyễn Tấn Hùng: “Phương pháp phân tích mâu thuẫn
và sự vận dụng nó nghiên cứu mâu thuẫn trong quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế với công bằng xã hội ở nước ta”.
Luận án tiến sĩ Nguyễn Duy Thục: “Mô hình tăng trưởng kinh tế địa
phương và áp dụng cho Bình Định”.
Trong thời gian gần đây cũng có nhiều cuốn sách, bài viết của các học
giả khác nhau bàn về vấn đề này.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu đó mới chỉ đề cập đến mối
quan hệ của tăng trưởng kinh tế với một vấn đề xã hội cụ thể như công bằng
xã hội ở phạm vi quốc gia như cuốn “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
ở Nhật Bản giai đoạn thần kỳ và Việt Nam thời kỳ đổi mới”, NXB, CTQG, 1999
của tác giả Lê Văn Sang và Kim Ngọc và cuốn “Tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội ở một số nước châu Á và Việt Nam”, NXB, CTQG, 1998 của tác
giả Lê Bộ Lĩnh, hay một số bài báo như “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ”, tạp chí cộng
sản. 2007 của Phạm Xuân Nam, “Kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ và công bằng xã hội” , Tạp chí cộng sản, 2006 của Nguyễn Quốc
Phẩm. Còn cuốn “Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách xã
hội trong 25 năm đổi mới (1986 – 2011)” của tác giả Đinh Xuân Lý lại chủ
yếu bàn về cơ sở hình thành, nội dung của những chủ trương, chính sách xã

13
hội của Đảng trong thời kỳ đổi mới, cũng như đánh giá và rút ra một số kinh

nghiệm của Đảng đối với việc thực hiện các chính sách xã hội.
Riêng đối với tỉnh Vĩnh Phúc, hiện nay chưa có công trình nghiên cứu
nào nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về việc giải quyết các vấn đề
xã hội trong quá trình tăng trưởng trong tỉnh. Chính vì vậy, tác giả đã lựa
chọn vấn đề này để nghiên cứu với mong muốn làm rõ thực trạng giải quyết
các vấn đề xã hội ở tỉnh và đưa ra các giải pháp để giải quyết tốt hơn các vấn
đề xã hội trong quá trình tăng trưởng ở Vĩnh Phúc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở chỉ ra một số khía cạnh còn tồn tại trong việc giải quyết
các vấn đề xã hội ở Vĩnh Phúc, luận văn sẽ đề xuất các quan điểm, giải
pháp nhằm xử lý tốt hơn các vấn đề xã hội trong quá trình tăng trưởng ở
Vĩnh Phúc trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu trên đề tài có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, cũng như kinh nghiệm của
các địa phương khác về việc giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá
trình tăng trưởng kinh tế.
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết các vấn đề xã hội trong quá
trình tăng trưởng kinh tế ở Vĩnh Phúc từ 1997 đến nay.
- Trên cơ sở lý luận, thực tiễn và bài học kinh nghiệm của một số địa
phương khác đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm giải quyết tốt hơn các vấn
đề xã hội nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững ở Vĩnh phúc trong
những năm tiếp theo.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

14
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề xã hội nảy sinh và
việc giải quyết chúng trong quá trình tăng trưởng kinh tế ở Vĩnh Phúc.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề xã hội có nội dung rất rộng, luận văn chỉ giới hạn khảo cứu,
phân tích một số vấn đề xã hội chủ yếu nảy sinh, gắn bó trực tiếp với quá
trình tăng trưởng kinh tế ở Vĩnh Phúc từ 1997 đến nay như là: Vấn đề việc
làm, xóa đói giảm nghèo, vấn đề phân phối công bằng, vấn đề y tế và giáo
dục.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài xem chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử Mác – Lênin
như cơ sở lý luận để khảo cứu việc giải quyết các vấn đề xã hội trong quá
trình tăng trưởng kinh tế. Cùng với nó, đề tài chú trọng sử dụng các phương
pháp phân tích, tổng hợp, khái quát thực tiễn, điều tra xã hội học…. Các
phương pháp này giúp đề tài chỉ ra những vấn đề có tính nguyên tắc, những
giải pháp có tính định hướng để giải quyết tốt các vấn đề xã hội trong quá
trình tăng trưởng kinh tế.
6. Đóng góp mới của đề tài
Góp phần làm rõ thực trạng giải quyết các vấn đề xã hội trong quá trình
tăng trưởng kinh tế ở Vĩnh Phúc thời gian qua.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính phương pháp luận nhằm giải
quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững ở Vĩnh
Phúc trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, tài liệu tham khảo, và danh mục
tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được trình bày theo 3 chương.
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về việc giải quyết các
vấn đề xã hội trong quá trình tăng trưởng kinh tế.

15
Chƣơng 2: Thực trạng giải quyết các vấn đề xã hội trong quá trình tăng
trưởng kinh tế ở Vĩnh Phúc từ 1997 đến nay.
Chƣơng 3: Một số giải pháp nhằm giải quyết tốt hơn nữa các vấn đề xã

hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững ở Vĩnh Phúc trong thời gian tới.
























16
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI TRONG QUÁ TRÌNH
TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ

1.1. Tăng trƣởng kinh tế bền vững và ý nghĩa của nó
1.1.3. Khái niệm
Tăng trưởng kinh tế là một trong những mục tiêu kinh tế vĩ mô quan
trọng của một quốc gia trong quá trình phát triển nền kinh tế, nhất là ở giai
đoạn đầu của quá trình phát triển.
Cùng với thời gian, quan niệm về tăng trưởng kinh tế ngày càng được
hoàn thiện hơn. Ngày nay, tăng trưởng kinh tế được hiểu một cách phổ quát
nhất theo quan điểm của kinh tế học là sự tăng thêm về quy mô sản lượng của
nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Nếu tổng sản
phẩm hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia tăng lên thì nó được coi là tăng
trưởng kinh tế.
Để đo lường tăng trưởng kinh tế người ta thường sử dụng các thước đo
chủ yếu như mức tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc
dân (GNP), GDP bình quân đầu người và một vài chỉ tiêu kinh tế tổng hợp
khác.
Tăng trưởng kinh tế có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của
bất cứ quốc gia nào, nhưng sẽ là sai lầm nếu theo đuổi tăng trưởng bằng mọi
giá. Thực tế cho thấy, không phải sự tăng trưởng nào cũng mang lại hiệu quả
kinh tế - xã hội như mong muốn, đôi khi quá trình tăng trưởng mang tính hai
mặt. Chẳng hạn tăng trưởng kinh tế ngắn hạn quá mức có thể dẫn đến tình
trạng nền kinh tế “quá nóng” gây ra lạm phát, hoặc tăng trưởng cao làm cho
dân cư giàu lên nhưng đồng thời cũng có thể làm cho sự phân hóa giàu nghèo
trong xã hội tăng lên. Vì vậy, vấn đề đặt ra là đòi hỏi mỗi quốc gia trong từng

17
thời kỳ phải tìm ra những biện pháp tích cực để đạt được sự tăng trưởng hợp
lý, bền vững, tức là tăng trưởng kinh tế được gắn với chất lượng của nó.
Theo P.A Samuelson thì tăng trưởng bền vững là quá trình tăng trưởng
ổn định, kéo dài liên tục trong một thời gian dài (dài hạn), khoảng 20-30
năm. Khái niệm này đề cập chủ yếu tới khả năng kéo dài tăng trưởng trong

một thời gian dài, mang tính định tính, chưa đi sâu vào định lượng cụ thể
trong cấu trúc tăng trưởng, phạm vi các nước được coi là tăng trưởng bền
vững có khả năng không chính xác.
Quan điểm thứ hai về tăng trưởng được đưa ra do sự tổng hợp quan
điểm chung gần đây “Tăng trưởng bền vững là tăng trưởng có chất lượng, gắn
chặt với các vấn đề phát triển xă hội”.Quan điểm này chủ yếu đề cập rộng tới
chất lượng tăng trưởng kinh tế, vấn đề tạo tính đồng thuận của tăng trưởng
với các vấn đề xă hội, con người hướng dần tới phát triển bền vững.
Quan điểm thứ ba cho rằng tăng trưởng bền vững là tăng trưởng đạt
được trong dài hạn, xuất phát từ đảm bảo được chất lượng tăng trưởng (xét cả
về cấu trúc nội tại và cấu trúc đầu ra), ảnh hưởng đồng thuận với các mục tiêu
phát triển xă hội trong từng giai đoạn phát triển.
Như vậy, có thể thấy điểm chung của các quan điểm đều cho rằng: tăng
trưởng kinh tế bền vững là tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối cao, ổn định
trong thời gian tương đối dài (thường là từ 20 – 30 năm) và giải quyết tốt các
vấn đề xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái. Theo đó, tăng trưởng
không chỉ hiểu đơn thuần là tăng thu nhập bình quân đầu người, tăng GDP,
mà phải gắn với phát triển bền vững, chú trọng tới cả 3 nhân tố: kinh tế, xã
hội và môi trường. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong dài hạn, tăng thu
nhập cần phải gắn với tăng chất lượng cuộc sống hay tăng phúc lợi xã hội và
xóa đói giảm nghèo. Tăng trưởng không nhất thiết phải đạt tốc độ quá cao mà
chỉ cần cao ở mức hợp lý nhưng bền vững.

18
Nếu tăng trưởng kinh tế chỉ là sự tăng lên về quy mô sản lượng của nền
kinh tế trong một thời kỳ nhất định (nghĩa là chỉ về mặt số lượng của tăng
trưởng) thì tăng trưởng kinh tế bền vững đã được gắn với chất lượng tăng
trưởng. Từ khái niệm (tăng trưởng kinh tế bền vững là tăng trưởng kinh tế đạt
mức tương đối cao, ổn định trong thời gian tương đối dài (thường là từ 20 –
30 năm) và giải quyết tốt các vấn đề xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh

thái), có thể thấy nội hàm của tăng trưởng kinh tế bền vững gồm 3 nội dung
cơ bản sau.
- Tăng trưởng cao, ổn định, trong một thời gian dài
Đây là nội dung đầu tiên và quan trọng quyết định đến tăng trưởng kinh
tế bền vững, nếu tăng trưởng nhanh, nóng trong một thời gian ngắn hay tăng
trưởng chỉ chú trọng đến số lượng, dựa nhiều vào gia tăng các yếu tố đầu vào,
đặc biệt là tài nguyên thiên nhiên thì tăng trưởng như vậy sẽ không thể duy trì
trong một thời gian dài và ổn định. Tăng trưởng kinh tế muốn ổn định và duy
trì được trong một thời gian dài thì cần dựa vào việc phát triển các nguồn lực,
sử dụng hiệu quả các nguồn lực dựa vào tiến bộ khoa học công nghệ, bảo đảm
ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, coi trọng tăng
trưởng theo chiều sâu, chất lượng, năng suất, hiệu quả, kinh tế tri thức.
- Giải quyết tốt các vấn đề xã hội
Một nền kinh tế sẽ không có được sự tăng trưởng bền vững nếu không
giải quyết được các vấn đề xã hội. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội có nghĩa là
thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội như xóa đói giảm nghèo, tạo ra
nhiều việc làm giảm thất nghiệp cho người lao động đến mức thất nghiệp tự
nhiên, đảm bảo công bằng xã hội trong phân phối, phát triển giáo dục, y tế và
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, thực hiện tốt các chính sách ưu đãi với
nhóm người yếu thế trong xã hội cũng như phòng chống, hạn chế được các tệ
nạn xã hội.

19
- Bảo vệ, giữ gìn môi trường sinh thái
Bên cạnh việc duy trì được tăng trưởng kinh tế trong một thời gian dài,
ổn định và giải quyết tốt các vấn đề xã hội thì tăng trưởng bền vững còn có
một nội dung nữa đó là bảo vệ, giữ gìn môi trường sinh thái. Bảo vệ, phát
triển môi trường sinh thái có nghĩa là bảo vệ khả năng tái sinh của hệ sinh
thái, nhịp độ gia tăng sử dụng tài nguyên có khả năng tái sinh phải thấp hơn
tốc độ tái sinh đó, việc sử dụng tài nguyên không có khả năng tái sinh phải

tùy thuộc khả năng sáng chế tài nguyên thay thế. Sau cùng, mức độ ô nhiễm
phải thấp hơn khả năng tái tạo của môi trường – môi sinh. Bảo vệ tốt môi
trường sẽ tạo đà cho sự phát triển kinh tế - xã hội được thuận lợi.
Ba mặt trên đây của tăng trưởng kinh tế bền vững có mối quan hệ mật
thiết với nhau, nếu thiếu 1 trong 3 nội dung thì sẽ không có tăng trưởng kinh
tế bền vững. Trong 3 nội dung trên thì tăng trưởng kinh tế tương đối cao và
ổn định trong thời gian dài (thường là từ 20 – 30 năm) là yếu tố điều kiện, cơ
bản còn giải quyết tốt các vấn đề xã hội và giữ gìn được môi trường sinh thái
là điều kiện quyết định làm nên tăng trưởng bền vững.
1.1.2. Ý nghĩa của việc tăng trưởng kinh tế bền vững đối với việc giải
quyết các vấn đề xã hội
Tăng trưởng kinh tế nhanh và dài hạn là cơ sở, tiền đề quyết định giải
quyết các vấn đề xã hội. Tăng trưởng cao đồng nghĩa với việc tạo ra nhiều
việc làm, giảm thất nghiệp cho người dân. Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng
trưởng cao thì một trong những nguyên nhân quan trọng là đã sử dụng tốt hơn
lực lượng lao động. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ thất nghiệp
đã được biết đến ở quy luật Okum1 (hay quy luật 2,5% - 1). Quy luật này xác
định, nếu GNP thực tế tăng 2,5% trong vòng một năm so với GNP tiềm năng
của năm đó thì tỷ lệ thất nghiệp giảm đi 1%. Tăng trưởng kinh tế cũng tạo thu
nhập cho người dân từ đó sẽ giảm bớt đói nghèo, tạo điều kiện cho sức mua

20
của người dân tăng lên, người dân cũng có điều kiện tiếp cận những dịch vụ
tốt về giáo dục, y tế…
Tăng trưởng kinh tế làm cho tích lũy xã hội được nâng cao, ngân sách
nhà nước được mở rộng, tạo điều kiện cho nhà nước thực hiện các chính sách
xã hội về giáo dục, y tế, văn hóa, nâng cao phúc lợi xã hội, quan tâm nhiều
hơn đến các đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội.
Tăng trưởng kinh tế cao cũng đồng nghĩa với việc khối lượng sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ được tạo ra ngày càng nhiều với mẫu mã đa dạng, chất

lượng ngày càng cao, làm cho đời sống của nhân dân về vật chất và tinh thần
được cải thiện, là tiền đề giảm bớt tình trạng đói nghèo.
1.2. Một số vấn đề xã hội chủ yếu nảy sinh trong quá trình tăng trƣởng
kinh tế và ý nghĩa của nó đối với tăng trƣởng bền vững
1.2.1 Khái lược về các vấn đề xã hội chủ yếu
Vấn đề xã hội là những vấn đề nảy sinh trong lĩnh vực xã hội và có ảnh
hưởng đến đời sống con người. Đây là một khái niệm rộng bao gồm nhiều
lĩnh vực như việc làm, thu nhập, bất bình đẳng xã hội, khuyến khích làm giàu,
xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, cung ứng dịch vụ công, an
sinh xã hội, cứu trợ xã hội, chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình…
Trong phạm vi của luận văn này, tác giả chưa có đủ điều kiện để làm sáng tỏ
tất cả các vấn đề xã hội mà chỉ tập trung đi sâu vào nghiên cứu một số vấn đề
xã hội chủ yếu như: xóa đói giảm nghèo, công bằng xã hội trong phân phối
thu nhập, việc làm, giáo dục và y tế hay chăm sóc sức khỏe cho người dân.
1.2.1.1 Vấn đề đói nghèo
Đói nghèo là một vấn đề mang tính chất toàn cầu và đang thu hút nỗ
lực chung của cả cộng đồng quốc tế nhằm từng bước xóa bỏ đói nghèo và
nâng cao phúc lợi của người dân. Tuy nhiên, rất khó để có thể đưa ra một khái
niệm chung, thống nhất về thế nào là đói nghèo. Rất nhiều công trình nghiên

21
cứu vấn đề này đã cố gắng đưa ra các khái niệm khác nhau về đói nghèo,
nhưng tựu chung đều coi nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều
kiện thoả mãn một phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có
mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương
diện.
Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội, được tổ chức tại
Copenhaghen, Đan Mạch (1995) đã đưa ra một định nghĩa về đói nghèo như
sau: Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn 1USD/người/ngày,
là số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại.

Hội nghị chống nghèo đói khu vực châu Á – Thái Bình Dương do
ESCAP tổ chức tại Băngcốc, Thái Lan (9/1998), cho rằng nghèo đói là tình
trạng một bộ phận dân không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu của
con người đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã
hội và phong tục, tập quán của địa phương.
Một quan niệm khác về nghèo đói: nghèo là tình trạng một bộ phận dân
cư có mức sống không thỏa mãn được nhu cầu tối thiểu về ăn, mặc, ở, y tế,
giáo dục, đi lại, giao tiếp. Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức
sống nhỏ hơn mức sống tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì
cuộc sống.
Để đánh giá đúng mức độ nghèo, người ta chia nghèo thành 2 loại:
nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng
và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã
được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập
quán của địa phương.
Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức sống trung bình của địa phương, ở một thời kỳ nhất định.

22
Như vậy, những quan điểm trên về đói nghèo phản ánh 3 khía cạnh chủ
yếu của người nghèo là: không được hưởng thụ những nhu cầu cơ bản ở mức
sống tối thiểu dành cho con người, có mức sống thấp hơn cộng đồng, thiếu cơ
hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
1.2.1.2 Vấn đề công bằng trong phân phối thu nhập
Công bằng xã hội là khái niệm mang tính chuẩn tắc phụ thuộc vào quan
niệm khác nhau của mỗi giai cấp, mỗi quốc gia. Công bằng xã hội là sự bình
đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân, bình đẳng trong chế độ phân
phối thu nhập, cơ hội phát triển và điều kiện thực hiện cơ hội.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học phương Tây, khái niệm công

bằng xã hội được tiếp cận dưới hai góc độ.
Công bằng xã hội theo chiều ngang: nghĩa là đối xử như nhau, đối với
những cá nhân có hoàn cảnh như nhau và đóng góp như nhau.
Công bằng xã hội theo chiều dọc: nghĩa là đối xử khác nhau đối với
những người có điều kiện khác nhau như khác biệt bẩm sinh hay có những
điều kiện, hoàn cảnh khác nhau.
Nếu như công bằng ngang có thể được thực hiện bởi cơ chế thị trường,
thì công bằng dọc cần có sự điều tiết của nhà nước. Chính phủ thực thi chính
sách phân phối theo công bằng dọc nhằm giảm chênh lệch về phúc lợi giữa
các cá nhân. Điều này được thể hiện rõ nhất trong chính sách thuế và trợ cấp,
đặc biệt là thuế lũy tiến (hoặc trợ cấp lũy thoái), trong đó người có thu nhập
càng cao thì thuế suất phải chịu càng cao (hoặc tương ứng là trợ cấp càng
thấp, thậm chí âm) và ngược lại.
Nguyên nhân của bất bình đẳng trong phân phối thu nhập thì có nhiều
nhưng chủ yếu tập trung ở hai nhóm nguyên nhân là bất bình đẳng trong phân
phối thu nhập từ tài sản và từ lao động.

23
Như vậy, có thể thấy công bằng xã hội là một khái niệm rất rộng bao
gồm cả yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Những thước đo chủ yếu đối
với công bằng xã hội bao gồm: hệ số GINI, đường cong Lorenz, chỉ số Theil
L, so sánh phân phối thu nhập giữa các nhóm dân cư, mức độ thỏa mãn nhu
cầu cơ bản của con người; hay tiêu chuẩn “40” của WB…
1.2.1.3 Vấn đề việc làm
Việc làm là một trong những mối quan tâm hàng đầu của con người
trong cuộc sống vì có việc làm con người mới có thu nhập đảm bảo cho cuộc
sống của mình.
Theo quan điểm của tổ chức Lao động quốc tế (ILO), người có việc
làm là người làm việc trong các lĩnh vực, ngành nghề đem lại một lợi ích nào
đó cho xã hội không bị pháp luật ngăn cấm đem lại thu nhập để nuôi sống bản

than và gia đình.
Luật Lao động năm 2012 điều 9 định nghĩa “Việc làm là hoạt động lao
động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm”
Việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội,
phụ thuộc vào các điều kiện hiện có của nền sản xuất. Một người lao động có
việc làm khi người ấy chiếm được 1 vị trí nhất định trong hệ thống sản xuất
của xã hội. Thông qua việc làm để người ấy thực hiện quá trình lao động tạo
ra sản phẩm và thu nhập của người ấy.
Quan niệm về việc làm cũng thay đổi theo các giai đoạn phát triển kinh
tế xã hội. Trước đây, người ta cho rằng chỉ có việc làm trong các xí nghiệp
quốc doanh và trong biên chế nhà nước thì mới có việc làm ổn định, còn lại
thì không được coi là có việc làm. Ngày nay, quan điểm này không tồn tại
nhiều trong số những người đi tìm việc làm. Những người này sẵn sàng tìm
bất cứ công việc gì, ở đâu, thuộc thành phần kinh tế nào cũng được miễn là

24
hoạt động lao động của họ được nhà nước khuyến khích không ngăn cấm và
đem lại thu nhập mong muốn cho họ là được.
Phân loại việc làm:
Nếu xét ở góc độ xã hội, trong một nền kinh tế:
+ Việc làm đầy đủ có nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp thấp, nhỏ hơn hoặc
bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
+ Thiếu việc làm là tỷ lệ thất nghiệp cao hơn mức thất nhiệp tự nhiên.
Còn khi xét ở góc độ cá nhân người lao động thì:
+ Việc làm đầy đủ là những việc làm, làm đủ thời gian quy định và có
thu nhập lớn hơn tiền lương tối thiểu hiện hành.
+ Thiếu việc làm là những việc làm không sử dụng hết quỹ thời gian
lao động và mang lại thu nhập dưới mức lương tối thiểu hiện hành.
Khi nói về việc làm thì khái niệm thất nghiệp cũng thường được người
ta nhắc tới. Thất nghiệp theo cách hiểu chung nhất thì đó là tình trạng người

lao động có khả năng lao động, mong muốn được làm việc mà không tìm
được việc làm.
1.2.1.4 Vấn đề phát triển giáo dục, y tế
Có thể nói giáo dục và y tế được các quốc gia trên thế giới coi là chính
sách hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Giáo dục theo cách hiểu rộng là một quá trình bao gồm tất cả các hoạt
động hướng vào sự phát triển và rèn luyện năng lực (tri thức, kỹ năng, kỹ xảo)
và phẩm chất (niềm tin, đạo đức, thái độ…) ở con người để có thể phát triển
nhân cách đầy đủ và trở nên có giá trị tích cực đối với xã hội. Theo cách hiểu
hẹp hơn, giáo dục là một quá trình được tổ chức một cách có mục đích, có kế
hoạch nhằm truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội của loài người.
Đào tạo là quá trình phát triển có hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
và thái độ, tư cách… đòi hỏi ở mỗi cá nhân để thực hiện nhiệm vụ chuyên

25
môn nhất định. Như vậy, đào tạo được hiểu là một dạng đặc thù của giáo dục,
trong đó nó hướng về giáo dục chuyên môn nghề nghiệp, và nó cũng tuân
theo những quy luật chung của giáo dục.
Đối tượng của giáo dục chính là con người, là vốn quý nhất, là nguồn
nội lực cốt lõi của sự tồn tại và phát triển của đất nước, cho nên phát triển
giáo dục đào tạo là mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia, là một trong
những chính sách xã hội cơ bản trong hệ thống các chính sách kinh tế - xã hội
của đất nước.
Y tế là lĩnh vực việc chăm sóc sức khỏe cho người dân, nâng cao thể
lực cũng như kéo dài tuổi thọ, và chất lượng dân số cho mọi người trong xã
hội. Y tế công cộng là khoa học và nghệ thuật phòng bệnh, kéo dài tuổi thọ và
tăng cường sức khỏe thông qua những cố gắng có tổ chức của xã hội. Y tế
công cộng có nhiều lĩnh vực nhỏ nhưng có thể chia ra các phần: dịch tễ
học, sinh thống kê và dịch vụ y tế. Những vấn đề liên quan đến môi trường,
xã hội, nhân chủng học và sức khỏe nghề nghiệp cũng là lĩnh vực quan trọng

trong y tế công cộng.
1.2.2. Tầm quan trọng của việc giải quyết các vấn đề xã hội
Để có được tăng trưởng kinh tế bền vững thì cần có sự đóng góp của rất
nhiều yếu tố, nhưng trong các yếu tố đó thì giải quyết tốt các vấn đề xã hội có
một vai trò rất to lớn.
Giải quyết tốt các vấn đề xã hội là khi xóa được đói, giảm được nghèo,
tạo ra nhiều việc làm, đảm bảo công bằng trong phân phối thu nhập, phát triển
giáo dục, y tế… thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng nhanh và bền
vững. Ngược lại, nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết như thất
nghiệp và thiếu việc làm gia tăng, phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn, giáo
dục, y tế không được phát triển… sẽ tạo nên sự bất ổn định về mặt xã hội, nên

26
kinh tế không sử dụng được một cách hiệu quả lực lượng lao động, từ đó sẽ
trở thành những lực cản đối với tăng trưởng kinh tế bền vững.
Khi giáo dục, y tế được phát triển thì chất lượng nguồn nhân lực sẽ
được cải thiện cả về thể lực và trí lực, kỹ năng sản xuất của mọi người được
nâng cao, từ đây sẽ thúc đẩy việc gia tăng vốn nhân lực của xã hội, mà như
chúng ta đã biết, nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quan trọng hàng đầu
của tăng trưởng kinh tế. Do đó, nền kinh tế sẽ có điều kiện tăng trưởng bền
vững trong dài hạn.
Trong ngắn hạn, sự gia tăng chênh lệch và bất bình đẳng trong thu nhập
có thể là cần thiết để khởi động quá trình tăng trưởng. Tuy nhiên, nếu xét
trong dài hạn, thì gia tăng khoảng cách về thu nhập lại có thể làm giảm tốc độ
tăng trưởng kinh tế và đe dọa tính chất bền vững của nó. Không những thế nó
có thể dẫn đến phân hóa giàu nghèo, căng thẳng và bất ổn về xã hội. Và điều
này chính là thực tế đã xảy ra ở một số nước Nam Mỹ như Argentina, Peru,
Venezuela.
Không thể nói rằng một nền kinh tế có tỷ lệ thất nghiệp cao, tỷ lệ đói
nghèo cao lại là 1 nền kinh tế tăng trưởng bền vững được. Thất nghiệp và đói

nghèo là cặp bài trùng, là nguy cơ của các cuộc xung đột xã hội, phân cực xã
hội và trong dài hạn sẽ làm cho nền kinh tế không thể tăng trưởng nhanh được
chứ không cần nói đến tăng trưởng bền vững.
Hơn nữa, khi giải quyết tốt các vấn đề xã hội, quốc gia sẽ có được sự
ổn định về chính trị, từ đó tạo ra môi trường đầu tư an toàn để các nhà đầu tư
trong và ngoài nước có thể yên tâm tiến hành sản xuất kinh doanh.
Như vậy, có thể thấy rằng việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội như xóa
đói, giảm nghèo, tạo ra nhiều việc làm, phát triển giáo dục, y tế, đảm bảo
công bằng xã hội trong phân phối thu nhập có vai trò rất lớn (cùng với tăng

27
trưởng kinh tế trong thời gian dài và bảo vệ môi trường sinh thái) trong việc
duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững của một nền kinh tế.
1.2.3. Nội dung của việc giải quyết các vấn đề xã hội trên
Giải quyết các vấn đề xã hội là một công việc phức tạp và cần sử dụng
tổng hợp, đồng thời các biện pháp. Giải quyết các vấn đề xã hội phải dựa trên
cơ sở kết quả, thành tựu tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế, của địa phương.
+ Đối với vấn đề đói nghèo thì nội dung giải quyết là xóa đói giảm nghèo
Xuất phát từ những nội dung cơ bản của đói nghèo, Ngân hàng thế giới
(WB) đã đề xuất một chiến lược xóa đói giảm nghèo nhằm vào những nội
dung sau.
- Mở rộng cơ hội cho người nghèo. Người nghèo rất cần được trao đổi
những cơ hội vật chất như việc làm, tín dụng, đường sá, điện nước, thị trường
tiêu thụ, trường học, dịch vụ vệ sinh và y tế - vì đó là những cơ hội để tăng
cường sức khỏe học vấn và những kỹ năng cần thiết cho cuộc sống của họ.
Đồng thời cần có những cơ chế để tạo thêm cơ hội mới và đền bù cho những
người bị thua thiệt. Trong xã hội có sự bất bình đẳng cao thì tăng cường sự
bình đẳng là yếu tố đặc biệt quan trọng để có được tiến bộ nhanh chóng trong
việc giảm đói nghèo.
- Tăng cường quyền lực cho người nghèo. Việc mở rộng cơ hội cho người

nghèo phụ thuộc rất lớn vào vào các thể chế nhà nước và xã hội, vì thế những
thể chế này phải rất nhạy bén và có trách nhiệm với người nghèo. Muốn vậy,
người nghèo phải có tiếng nói và quyền tham gia vào các quyết định liên quan
đến họ, nhất là ở cấp địa phương.
- Tăng cường an sinh xã hội. An sinh xã hội là các chương trình giúp giảm
bớt nguy cơ người nghèo bị tổn thương trước những cú sốc kinh tế, thiên tai,
ốm đau, bệnh tật và bị ngược đãi.

28
Ở Việt Nam nội dung của xóa đói giảm nghèo được chính phủ xác định ở
những nội dung sau.
Một là, xóa đói, giảm nghèo phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế nhanh,
hiệu quả và bền vững, tạo nguồn lực trợ giúp cho người nghèo.
Hai là, xóa đói, giảm nghèo là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và toàn thể
nhân dân, mà trước hết là của chính người nghèo.
Ba là, phải triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án xóa đói, giảm
nghèo bằng các nguồn lực trong và ngoài nước.
Bốn là, việc hỗ trợ cho vay vốn phải gắn với đào tạo, hướng dẫn và phải
căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của từng đối tượng, từng vùng.
Năm là, phải luôn quan tâm đến vấn đề tái nghèo trong dân.
+ Đối với vấn đề thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập. Để thực
hiện công bằng trong phân phối thu nhập thì chúng ta phải hạn chế, xóa bỏ
được tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và cách tốt nhất là hạn
chế và xóa bỏ những nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng trong thu nhập (bất
bình đẳng trong phân phối tài sản và bất bình đẳng trong phân phối thu nhập).
Thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo, chuyển giao trực tiếp
hoặc trợ cấp lương thực, giáo dục, y tế, dạy nghề… hay tăng cường việc cung
cấp công cộng các hàng hóa và dịch vụ công cộng hướng tới người nghèo
cũng sẽ làm giảm sự bất bình đẳng trong thu nhập.
Ngoài ra tạo cơ hội cho tất cả mọi người được tiếp cận với các nguồn lực

xã hội, phát huy hết khả năng của bản thân cũng là việc cần thực hiện để đảm
bảo công bằng trong thu nhập.
Theo tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng
sản Việt Nam “Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho
phát triển; các nguồn lực được phân bố theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả

×