Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở tỉnh Thái Nguyên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.58 MB, 113 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ






NGÔ SỸ TIỆP






CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH THÁI NGUYÊN
TRONG QUÁ TRÌNHCÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ






Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số: 60.31.01





Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS: Phan Thanh Phố



Hà Nội - 2007


MỤC LỤC



MỤC LỤC


Tr
Mục lục
Lời cam đoan
2

4
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu, sơ đồ trong luận văn
5

6
Lời mở đầu
7
Chương 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công

nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Thái Nguyên

11
1.1. Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp, nhân tố ảnh hưởng và sự cần thiết
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở nước ta
1.2. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở nước ta và các
địa phương trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn
1.3. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp một số tỉnh
trung du và đồng bằng ở Việt Nam
Chương 2
Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp
thời gian qua ở tỉnh thái nguyên
1
1



2
7


3
1

4
0
2.1. Khái quát những đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Thái Nguyên
Thuận lợi và khó khăn
2.2. Hiện trạng cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp thời gian qua ở Thái Nguyên

2.3. Đánh giá chung thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công
nghiệp thời gian qua ở tỉnh Thái Nguyên
40


51

60








Chương 3
Phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành công nghiệp tỉnh thái nguyên trong thời gian tới
3.1. Phương hướng đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp
tỉnh Thái Nguyên
3.2. Các giải pháp cơ bản đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công
nghiệp ở tỉnh Thái Nguyên
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


















70




70


87

99

101

106















Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc
lập của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Phan
Thanh Phố.
Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn
gốc và được trích dẫn rõ ràng.
Đề tài không trùng lặp với bất cứ công trình khoa
học nào đã công bố

Tác giả luận văn


Ngô Sỹ Tiệp











DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
TRONG LUẬN VĂN




XHCN
Xã hội chủ nghĩa
CNH, HĐH
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CDCCKTNCN
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp
KTTT
Kinh tế thị trường
UBND
Uỷ ban nhân dân
QLNN
Quản lý nhà nước
NSNN
Ngân sách nhà nước
LLLĐ
Lực lượng lao động
DN
Doanh nghiệp

TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
KCN
Khu công nghiệp
HTX
Hợp tác xã
GTSXCN
Giá trị sản xuất công nghiệp











Danh mục bảng, biểu và đồ thị

TÊN BIỂU BẢNG VÀ LƯỢC ĐỒ
Trang
Bảng 2.1: Tăng trưởng GDP chung của tỉnh và từng ngành giai đoạn 2001- 2005
44
Bảng 2.2: Cơ cấu GDP của công nghiệp dịch vụ và nông nghiệp giai đoạn 2001 - 2005
44
Bảng 2.3: Tình hình xuất nhập khẩu giai đoạn 2001 - 2005
45
Bảng 2.4: Giá trị và tốc độ tăng trưởng thời kỳ 2001 - 2006

51
Bảng 2.5: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp qua các năm từ 2001 - 2005
60
Bảng 2.6: Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp thời kỳ 2001 - 2005
62
Bảng 2.7: Giá trị sản xuất công nghiệp và cơ cấu của nó thời kỳ 2001 - 2005. (Phân theo
thành phần kinh tế - theo giá cố định 1994)
65
Lược đồ 1: LLLĐ chia theo giới tính 2001 - 2005
46
Lược đồ 2: Cơ cấu lao động chia theo khu vực thành thị, nông thôn
47
Lược đồ 3: Cơ cấu LLLĐ chia theo trình độ CMKT 2001- 2005
48
Lược đồ 4: Cơ cấu lao động có việc làm chia theo khu vực kinh tế
49
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu GDP/ người, tốc độ tăng trưởng, kinh tế đối ngoại và mức thu
ngân sách từ nay đến 2010 và tầm nhìn 2020
72
Bảng 3.2: Cơ cấu kinh tế tỉnh thái Nguyên qua 2 thời điểm 2010 và 2020
72
Bảng 3.3: Một số chỉ tiêu về phát triển xã hội qua 2 thời điểm 2010 và 2020
73
Bảng 3.4: Một số sản phẩm chính của nhóm ngành công nghiệp chế biến nông - lâm sản -
thực phẩm đến 2010, 2015 và 2020
81
Bảng 3.5: Nhu cầu vốn cho phát triển công nghiệp thời kỳ 2006 - 2010 của Thái Nguyên
88




MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia nói chung, của một tỉnh nói riêng đòi
hỏi phải có một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó cần xác định rõ và giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa các ngành, các vùng kinh tế và các thành phần kinh tế, các
yếu tố, bộ phận, lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là một trong những nội dung cơ bản của
công nghiệp hoá, hiện đại hoá bao hàm trong nó có cả sự xây dựng cơ cấu kinh tế
ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thái Nguyên, một tỉnh thuộc trung tâm kinh tế, văn hoá và khoa học - công
nghệ khu vực Đông Bắc của đất nước, có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị và
xã hội đối với quốc gia. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, đồng bào
các dân tộc trong tỉnh đã phát huy tinh thần yêu nước, vượt qua khó khăn, năng
động sáng tạo, phấn đấu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Là một tỉnh có nhiều tiềm năng cho sự phát triển ngành công nghiệp, song
trong thời gian qua, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp Thái Nguyên
còn chậm, chất lượng chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của một
tỉnh có truyền thống là một trung tâm công nghiệp của đất nước.
Làm thế nào để chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp với tốc độ
nhanh và chất lượng cao trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh Thái
Nguyên trong thời gian tới. Lời giải cho vấn đề đặt ra, cần có sự nghiên cứu, phân
tích kỹ trên cả 2 mặt lý luận và thực tiễn.
Để góp phần tìm ra những giải pháp trên tác giả chọn đề tài: “Chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp ở tỉnh Thái Nguyên trong quá trình công



nghiệp hoá, hiện đại hoá” nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ Kinh tế, chuyên ngành
Kinh tế chính trị, mã số 60.31.01.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã có nhiều công trình, nhiều đề tài, nhiều
tác giả nghiên cứu ở những khía cạnh và mức độ khác nhau như:
- Ngô Đình Giao (chủ biên), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
- Phạm Khiêm ích - Nguyễn Đình Phan, Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
Việt Nam và các nước khu vực, NXB Thống kê, Hà Nội, 1994.
- Trần Văn Nhưng, Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ, năm 2001.
- Gần đây cũng đã có một số luận văn thạc sĩ viết về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, hoặc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trên địa bàn một số
tỉnh như: Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tây, Bắc Ninh, Hải Dương, Đồng Nai
Nhìn chung các đề tài đã nghiên cứu và công bố, phản ánh nhiều mặt của
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước hoặc trên một địa bàn, một địa phương
nhất định. Song cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành công nghiệp ở Tỉnh Thái Nguyên, nhất là nghiên cứu nó như một đề
tài độc lập, mang tính hệ thống như đề tài mà tác giả chọn để nghiên cứu và thực
hiện trong luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích của luận văn:
Trên cơ cở vận dụng lý luận và phân tích thực trạng về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành công nghiệp, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở Thái Nguyên thời gian tới.
* Nhiệm vụ của luận văn:


- Trình bày có hệ thống một số vấn đề lý luận liên quan đến việc chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Phân tích, đánh giá thực trạng cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp tỉnh Thái
Nguyên thời gian qua.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành công nghiệp Thái Nguyên theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn lấy việc phân tích lý luận, thực trạng, phương hướng và giải pháp
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa làm đối tượng nghiên cứu.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Lấy địa bàn tỉnh Thái Nguyên làm không gian để nghiên cứu.
- Thời gian nghiên cứu khảo sát thực trạng từ 1996 - 2005 và lấy giai đoạn
2006 - 2010 và tầm nhìn đến 2020 để đề xuất phương hướng và giải pháp đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm
phương pháp luận chung, đặc biệt là phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Ngoài
ra luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: lôgíc và lịch sử, phân tích và
tổng hợp, điều tra xã hội học, chuyên gia, thống kê định lượng so sánh, mô hình
Bằng cách đó tạo thành tổ hợp phương pháp cho phép tiếp cận nhanh và hiệu quả
đối tượng và mục tiêu nghiên cứu mà luận văn đặt ra.
6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn
* Những đóng góp :


- Làm rõ thêm khái niệm, những nhân tố, sự cần thiết, nội dung chuyển dịch
cơ cấu ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

- Phân tích đưa ra những đánh giá có căn cứ khoa học về thực trạng chuyển
dịch cơ cấu ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh
Thái Nguyên trong thời gian qua.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản, có tính khả thi nhằm đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Thái Nguyên thời gian tới.
* Ý nghĩa :
Kết quả của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định
chiến lược phát triển ngành công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở Thái Nguyên. Nó cũng có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu giảng dạy ở các
Trường đại học và Cao đẳng có liên quan.
7. Tên và kết cấu của luận văn
* Luận văn có tên đề: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp
ở tỉnh Thái Nguyên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá”
* Kết cấu: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
về nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cở sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công
nghiệp trong quá trình CNH, HĐH.
Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá
trình CNH, HĐH thời gian qua ở TỉnhThái Nguyên.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH ở Tỉnh Thái Nguyên thời
gian tới.


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA


1.1. CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH CÔNG NGHIỆP, NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ SỰ
CẦN THIẾT CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH CÔNG NGHIỆP TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA
1.1.1. Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trong quá trình CNH, HĐH
 Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình phát triển tất yếu khách quan
của thời đại ngày nay, là con đường đưa mỗi quốc gia thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với các nước khác trên thế giới và khu vực. Trên thực tế không
phải đến bây giờ, các quốc gia trên thế giới mới tiến hành công nghiệp hóa mà việc
thực hiện công nghiệp hóa đã được khởi đầu từ cuộc cách mạng công nghiệp diễn
ra ở Anh cuối thế kỷ XVIII và sau đó kéo theo một loạt nước khác ở Tây Âu ( Như:
Hà Lan, Pháp, Đức, Italia ).
Mặc dù công nghiệp hóa được tiến hành sớm như vậy nhưng phải mãi đến
cuối thế kỷ XIX thuật ngữ “công nghiệp hóa” mới xuất hiện với ý nghĩa là biến một
lĩnh vực sản xuất bằng phương pháp thủ công sang hoạt động theo tính chất của
công nghiệp cơ khí. Cho đến nửa sau thế kỷ XX, khái niệm công nghiệp hóa mới
được hiểu như một giai đoạn lịch sử phát triển kinh tế, mà nội dung của nó bao hàm
cuộc cách mạng công nghiệp, từ đó đến nay, cùng với hàng loạt các cuộc cách
mạng công nghiệp: từ kỹ thuật cơ khí giản đơn với máy hơi nước làm động lực tới
cơ khí phức tạp với động cơ đốt trong, rồi điện năng và các dạng năng lượng mới
làm động lực, tiếp theo đó là tự động hóa, điện tử hóa thì quan niệm về công
nghiệp hóa dần được mở rộng trên nhiều khía cạnh và lĩnh vực nghiên cứu khác
nhau.


* Ví dụ: Quan niệm của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu (cũ)
cho rằng: "Công nghiệp hóa là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí, có
khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là sự phát triển công nghiệp nặng với ngành
trung tâm là chế tạo máy" [11, tr.49].

Năm 1963 UNIDO (Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc) đã
đưa ra định nghĩa:
Công nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ phận
năng lực quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều
ngành với công nghiệp hiện đại để chế tạo ra các phương tiện sản xuất, hàng tiêu
dùng, có khả năng đảm bảo một nhịp tăng trưởng cao trong toàn nền kinh tế và đảm
bảo sự tiến bộ kinh tế và xã hội [25, tr.6].
Tóm lại: Tuy có rất nhiều quan niệm khác nhau về công nghiệp hóa nhưng chủ
yếu là hai quan niệm sau:
Một là: Theo nghĩa hẹp, công nghiệp hóa là quá trình phát triển công
nghiệp trong một thời kỳ nhất định, trong đó nền sản xuất xã hội được tổ chức theo
lối công nghiệp dựa trên cơ sở thay thế lao động thủ công bằng máy móc và máy
móc chiếm ưu thế.
Hai là: Theo nghĩa rộng, công nghiệp hóa là quá trình công nghiệp liên tục,
cải tổ thường xuyên cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hiện đại, ngày càng đa
dạng.
Có nhiều quan niệm khác nhau về công nghiệp hóa như vậy là bởi trên thực
tế, công nghiệp hóa là quá trình phức tạp, lâu dài mà việc phân biệt các mốc giới,
định tính, định lượng và về thời gian không phải là điều dễ dàng. Mặt khác, sự biểu
hiện về mô hình của nó gắn với mỗi quốc gia dân tộc do những điều kiện, hoàn
cảnh khác nhau cũng không thể thuần nhất. Dù như vậy, cũng cần hiểu một cách
khái quát nhất: Công nghiệp hóa là quá trình phát triển kinh tế diễn ra lâu dài, bắt
đầu từ khi xuất hiện công nghiệp và đến khi nền kinh tế với công nghiệp phát triển


cao cũng chưa phải là điểm kết thúc mà lại có thể là mở đầu cho một cuộc cách
mạng công nghiệp mới.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp nghèo nàn lạc
hậu, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh lại phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, Đảng ta đã sớm nhận thức được vị

trí vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngay từ Đại hội III Đảng ta đã xác
định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, cách mạng kỹ
thuật giữ vị trí then chốt. Tiếp sau đó Đại hội IV, V, tư tưởng này lại được tiếp tục
khẳng định. Tuy nhiên trong thời gian này tư tưởng công nghiệp hóa chủ yếu tập
trung phát triển công nghiệp nặng mặc dù có được điều chỉnh qua các kỳ Đại hội
IV, V: Công nghiệp hóa chính là “quá trình thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực
hiện sự phân công mới về lao động xã hội và là quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa
để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng” [12, tr.182]. Đường lối đưa ra để
tiến hành công nghiệp hóa lúc đó được xác định: Ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Khách quan mà đánh giá, quan niệm và cách tiến hành đó là phù hợp với điều
kiện hiện tại của nước ta và thế giới trong bối cảnh đất nước có chiến tranh và tồn
tại sự độc lập giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Trên thực tế,
chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở công nghiệp quan trọng then chốt cho nền
kinh tế quốc dân. Nhưng về cơ bản nước ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu,
tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân còn rất thấp.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) bên cạnh việc tiếp tục
khẳng định vị trí nền tảng của công nghiệp trong thời kỳ quá độ, đã có sự chuyển
hướng chiến lược về công nghiệp hóa từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng sang
lấy nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng
tâm. Từ đó đến nay, việc nhận thức về đường lối công nghiệp hóa được đưa ra từng
bước phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước. Công nghiệp hóa có thể hiểu một
cách cơ bản:


Là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xã hội theo hướng phát triển
mạnh công nghiệp, tạo ra sự vượt trội của công nghiệp trong cơ cấu kinh tế và cơ
cấu lao động, áp dụng rộng rãi với hiệu quả cao những tiến bộ khoa học, công nghệ
mới hiện đại, làm nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển nhanh, vững chắc của
toàn bộ nền kinh tế - xã hội [45, tr.63].

Quan niệm này không những phản ánh được nội dung của quá trình công
nghiệp hóa mà nêu bật được mục tiêu công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa chính là
quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế
quốc dân, bao hàm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động chứ không riêng chỉ
phát triển ở lĩnh vực công nghiệp.
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ
đã tiến lên một nấc thang mới, loài người đang bước vào kinh tế tri thức. Vì vậy,
công nghiệp hóa đòi hỏi phải gắn với quá trình hiện đại hóa, kể cả những nước có
nền kinh tế lạc hậu như nước ta. Không thể tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu
"cổ điển" như ở phương Tây thế kỷ XVIII mà công nghiệp hóa phải gắn với việc
tận dụng những thành quả khoa học - kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến của thế
giới. Công nghệ truyền thống gắn với ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ tiên
tiến của thời đại, là giải pháp quyết định đưa nước ta thoát khỏi đói nghèo lạc hậu
và nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế - công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa.
Hay nói cách khác, để có quan niệm đúng đắn, đầy đủ về công nghiệp hóa phải đặt
nó trong mối quan hệ với hiện đại hóa. Tất nhiên công nghiệp hóa và hiện đại hóa
là hai khái niệm khác nhau nhưng lại đan xen, tích hợp, lồng ghép và bổ sung cho
nhau. Nếu như công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
phát triển mạnh công nghiệp thì hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ chỗ
theo những quy trình công nghệ thủ công là chính sang chỗ sử dụng một cách phổ biến
những quy trình công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên


sự phát triển của tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tạo ra năng suất lao động, hiệu quả và
trình độ văn minh kinh tế xã hội cao [62, tr.63].
Sự gắn kết giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và đang trở thành xu thế tất
yếu của các nước đang phát triển. Nó trở thành khái niệm "kép" trong nhận thức về
mục tiêu phát triển kinh tế của nhiều quốc gia.
Trên tinh thần đó, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VII

đã xác định nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
là:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các
hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao
động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển
của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội
cao [33, tr.65].
Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng ta đã phản ánh được
phạm vi rộng lớn, xác định được vai trò quan trọng của công nghiệp và khoa học -
công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó thực chất là quá trình
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải biến nước ta thành nước
công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật
chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, thực hiện mục tiêu: dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII của Đảng ta đánh giá một cách khách quan, khoa học những tiền đề được
tạo ra sau 10 năm đổi mới đã chỉ rõ: nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội và đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa với mục tiêu:


Xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh
tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản
xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp [34, tr.80].
 Khái niệm cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp.
Cơ cấu kinh tế, một phạm trù kinh tế có tầm quan trọng to lớn trong quá trình
xây dựng và thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia

qua các thời kỳ. Xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ cho phép tạo nên sự
cân đối, hài hoà của nền kinh tế, từ đó sử dụng một cách hiệu quả các nguồn lực, tài
nguyên, của cải vật chất, tinh thần và sức lao động. Điều đó có ý nghĩa quan trọng
trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, từ đó tạo nên sự tiến bộ xã hội.
Thuật ngữ “cơ cấu” có nguồn gốc ban đầu từ chữ La tinh “Strucke”, nó phản
ánh cách xắp xếp các bộ phận của một chỉnh thể. Sau đó, các khái niệm này được
sử dụng mở rộng hơn cho các ngành khoa học khác.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam “cơ cấu kinh tế”: là tổng thể các ngành, lĩnh
vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành.
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống C.Mác tiếp cận
cơ cấu nền kinh tế như là: Toàn bộ các quan hệ giữa những người làm nhiệm vụ
sản xuất với nhau và giữa họ với tự nhiên - tức là những điều kiện trong đó họ tiến
hành sản xuất, toàn bộ những quan hệ đó hợp thành xã hội, xét về mặt cơ cấu của
nó. Như vậy theo C.Mác, cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất, trình độ, quá trình phát triển nhất định của lực lượng
sản xuất vật chất của xã hội đó, từ những quan điểm trên của C.Mác ta nhận thấy
rằng:
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ về số lượng và chất lượng tương đối
ổn định giữa các bộ phận cấu thành của nền kinh tế với những điều kiện kinh tế - xã
hội nhất định trong khoảng thời gian nhất định.


C.Mác khẳng định, khi phân tích cơ cấu kinh tế phải xem xét trên cả hai mặt, số
lượng( quy mô, tỷ trọng, tốc độ) và chất lượng( vị trí, sự tương tác, trình độ công
nghệ ). Đó là biểu hiện của mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, lĩnh vực kinh tế. Do
đó, cơ cấu là: “ một sự phân chia về chất lượng và một tỷ lệ về số lượng của quá
trình sản xuất xã hội” [63; tr103]. Từ nhận định trên ta nhận thấy rằng, cơ cấu kinh
tế có cấu trúc bao gồm: Những yếu tố gắn với lực lượng sản xuất (các quan hệ giữa
họ với tự nhiên, kỹ thuật) và các nội dung của quan hệ sản xuất (các quan hệ kinh
tế giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội) hợp thành.

Nếu cơ cấu kinh tế bao gồm hai mặt lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì khi
phân tích cơ cấu kinh tế không thể không xem xét mối quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Một cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý là một cơ
cấu kinh tế được hình thành và phát triển trong đó, các yếu tố của quan hệ sản xuất
luôn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên,
không nên hiểu cơ cấu kinh tế là con số cộng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, mà phải hiểu nó là sự tác động qua lại giữa các yếu tố được xem xét về số
lượng và chất lượng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được hình thành và
phát triển qua các giai đoạn của nền sản xuất xã hội. Do vậy, dưới góc độ ngành,
vùng và thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế bao gồm: cơ cấu ngành kinh tế (công
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ); cơ cấu vùng kinh tế theo lãnh thổ; và cơ cấu
thành phần kinh tế.
Trong luận văn này, tác tiếp cận khái niệm cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp
cũng bao gồm 3 nội dung nói trên của cơ cấu kinh tế, nhưng đi sâu nghiên cứu trực
tiếp trong ngành công nghiệp và các nhóm ngành của ngành công nghiệp ở Thái
nguyên. Theo cách tiếp cận nói trên, tác giả hiểu:
Cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp là một bộ phận của cơ cấu kinh tế trong nền
kinh tế quốc dân; là tổng thể các mối quan hệ về số lượng và chất lượng tương đối
ổn định giữa các bộ phận: ngành và nội bộ ngành, vùng và thành phần kinh tế


trong ngành công nghiệp; tương ứng với những điều kiện kinh tế - xã hội xác định
và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định.




1.1.2. Khái niệm và nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành công nghiệp ở nước ta
 Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp.

Khi nghiên cứu khái niệm cơ cấu kinh tế, chúng ta xem xét nó ở trạng thái
tĩnh hay trạng thái tĩnh hay trạng thái tương đối ổn định, nhưng khi tiếp cận khái
niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế là nghiên cứu nó ở trạng thái động có tác dụng
làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Như vậy, cùng với việc tổ chức lao động một cách khoa học, kỹ thuật - công
nghệ ngày càng phát triển tất yếu làm cho cơ cấu kinh tế của một xã hội cũng thay
đổi, phát triển đi từ thấp đến cao, từ chưa hợp lý đến hợp lý, hiện đại và hiệu quả
cao theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Với cách đặt vấn đề như vậy, chúng
ta có thể hiểu:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp là quá trình thay đổi cấu trúc, tỷ
trọng, tốc độ và chất lượng các mối quan hệ kinh tế giữa các nhóm ngành, các khu,
cụm điểm công nghiệp và các thành phần kinh tế trong ngành công nghiệp nhằm
đạt tới một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn, tạo thế và lực mới cho
tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, trong giai đoạn của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
 Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp.
Quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chịu sự chi phối của nhiều nhân tố
đa dạng và phức tạp, đó là những nhân tố khách quan và chủ quan sau đây:


Một là: Nhân tố về địa lý, tự nhiên (khí hậu, đất đai, tài nguyên…)
Các Mác viết : “ Bất cứ nền sản xuất xã hội nào cũng là việc con người chiếm hữu
lấy những đối tượng của tự nhiên, trong phạm vi một hình thái xã hội nhất định”
[27, tr 282]. Do sản xuất là “ sự chiếm hữu tự nhiên ” nên quá trình chiếm hữu đó
cũng luôn luôn chịu ảnh hưởng của chính những điều kiện tự nhiên. Do đó, ảnh hưởng
của địa lý, tự nhiên tới sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một tất yếu, một
nhân tố không thể thiếu được của một nước, mỗi ngành và mỗi địa phương khi chyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hóa.
Vị trí địa lý của một quốc gia góp phần tạo ra sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu

kinh tế của một nước, đối với những nước có vị trí địa lý sát biển, đồng thời thuận lợi nằm
trên các tuyến giao thông quan trọng về đường biển, đường hàng không, nhất là nằm
trong một khu vực phát triển năng động về kinh tế sẽ cho phép nước đó phát triển mạnh
nghành công nghiệp khai thác các nguồn lợi tự nhiên trong đại dương, công nghiệp đóng
tàu, công nghiệp đánh bắt và chế biến thuỷ hải sản. Như vậy Việt Nam là quốc gia có
tiềm năng lớn về biển cả, lại nằm trong khu vực ASEAN với nền kinh tế phát triển năng
động sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam cơ hội đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, đây là yếu tố quan trọng tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và cơ cấu nghành công nghiệp trong thời gian tới.
Tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, lâm sản, hải sản, đất đai, khí hậu) là một
trong các yếu tố nguồn lực cơ bản của quá trình sản xuất, là điều kiện cần thiết cho sản
xuất công nghiệp, một quốc gia có nguồn tài nguyên phong phú dồi dào nếu biết khai
thác và sử dụng có hiệu quả sẽ cho phép phát triển các nghành công nghiệp khai thác
khoáng sản và chế biến để thỏa mãn nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Trên thực tế, trong
giai đoạn phát triển ở mỗi nước, người ta thường tập trung khai thác các tài nguyên có trữ
lượng lớn, có giá trị kinh tế cao, nhu cầu thị trường lớn. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên
thiên nhiên không phải là vô tận, do đó việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nghành công
nghiệp phải làm sao, để sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên đó.
Hai là: Nhân tố về kinh tế văn hoá xã hội


Lôgic và lịch sử chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá đều
cho rằng: Khi nền sản xuất xã hội còn ở tình trạng lạc hậu ( lực lượng sản xuất thấp kém,
trình độ văn hoá và khoa học kỹ thuật của người lao động chưa cao) thì cơ cấu kinh tế của
xã hội ấy phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện địa lý tự nhiên. Khi đó những nghành
kinh tế dựa vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên như nông - lâm - ngư nhiệp, khai
khoáng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu ngành của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế
ngày càng phát triển, trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật của con người được nâng cao thì
sự phụ thuộc đó ngày càng giảm dần, tỷ trọng của nghành công nghiệp và dịch vụ trong
GDP ngày một lớn trong cơ cấu nghành kinh tế quốc dân.

Dân số, sức lao động, đây được xem là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế nói
chung và nghành công nghiệp nói riêng. Dân số và tốc độ tăng dân số của một nước có
ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng kinh tế cũng như chyển dịch cơ cấu kinh tế của một
nước. Nếu có nguồn lực lao động dồi dào thì sẽ có nguồn nhân lực phục vụ cho sản xuất
nhiều hơn, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tuy nhiên nếu tốc độ tăng dân số quá
cao sẽ làm tăng trưởng kinh tế chậm lại. Việc cải thiện chất lượng lao động hay nguồn
nhân lực ( Như: kỹ năng kiến thức mà người lao động tích luỹ được trong quá trình lao
động, học hỏi, giáo dục) là cơ sở quan trọng để phát triển các nghành công nghiệp kỹ
thuật cao, sẽ có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế. Quy mô dân số và thu nhập của
dân cư tăng sẽ tạo ra một thị trường tiêu thụ rộng lớn, đó là cơ sở để phát triển các ngành
công nghiệp chế biến, sản xuất hàng tiêu dùng cho xã hội, làm cho tỷ trọng của ngành
công nghiệp cũng tăng lên. Việt Nam có nguồn lao động dồi dào, có tay nghề tinh xảo,
người Việt Nam lại cần cù thông minh sẽ nhanh chóng tiếp thu tiến bộ khoa học công
nghệ có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu lao động cho nghành công nghiệp.
Vốn đầu tư cũng là một yếu tố nguồn lực trong quá trình sản xuất, là nhân tố
quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, nhà nước sử dụng vốn ngân sách và huy động
vốn toàn xã hội, trong nước và ngoài nước để đầu tư phát triển sản xuất, sẽ tạo ra sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nghành công nghiệp
nói riêng một cách nhanh chóng. Vốn là chìa khoá cho mọi sự phát triển kinh tế của một


quốc gia, nếu không có vốn để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị hiện đại, đổi mới công
nghệ thì sẽ không có tăng trưởng kinh tế. Hiện nay Việt Nam đang trong giai đoạn tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nên rất cần một số lượng vốn lớn, nguồn vốn này
được huy động từ trong và ngoài nước. Nguồn vốn huy động trong nước( nội lực) là
nguồn vốn có tính chất quyết định để đầu tư vào sản xuất, đó chính là từ sự tiết kiệm của
dân cư và nền kinh tế của đất nước, tỷ lệ tiết kiệm và khối lượng tiết kiệm càng lớn thì sẽ
có vốn lớn để đầu tư phát triển kinh tế, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chyển dịch cơ
cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế nghành công nghiệp. Nguồn vốn nước ngoài (ngoại lực) là
nguồn vốn quan trọng, bao gồm: vốn viện trợ phát triển chính thức ODA, vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài FDI, vốn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ NGO, vốn đầu tư gián
tiếp của nước ngoài. Các nguồn vốn này có tính chất quan trọng góp phần bù đắp những
thiếu hụt của vốn trong nước để đầu tư thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời qua đó có
thể tiếp nhận chuyển giao công nghệ, mô hình quản lý tiên tiến, tiếp cận thị trường tiêu
thụ, thực hiện chyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy
nhiên, để nền kinh tế phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng thì nhà nước
phải có chiến lược đầu tư hợp lý, phải biết phân bổ và sử dụng vốn đầu tư khoa học và
hiệu quả.
Tiềm lực khoa học kỹ thuật - công nghệ, trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ đang phát triển như vũ bão, diễn ra khắp nơi trên thế giới và phát
triển trên nhiều lĩnh vực khác nhau, nó có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh
tế của mỗi nước, đồng thời ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân, cũng như của từng địa phương, từng ngành. Đối với cơ cấu
kinh tế nghành công nghiệp, sự phát triển mạnh mẽ về khoa học công nghệ sẽ làm phân
công lao động xã hội ngày càng trở nên sâu sắc và làm phân chia cơ cấu nội bộ nghành
công nghiệp thành nhiều nghành nhỏ hơn, với chuyên môn hoá sâu, đồng thời xuất hiện
nhiều nghành mới với quy mô sản xuất có hàm lượng kỹ thuật, công nghệ cao, cơ giới
hoá, tự động hoá đồng bộ, sử dụng nhiều lao động trí tuệ trong các nghành kinh tế như:


điện tử, tin học, viễn thông, sinh học, chế tạo vật liệu mới, trong khi đó những nghành
công nghiệp truyền thống sử dụng nhiều lao động bị giảm bớt.
Ba là: Nhân tố về môi trường thể chế vĩ mô
Nhịp độ và chất lượng chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ chịu ảnh hưởng của
điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội mà còn chịu ảnh hưởng của môi trường thể chế vĩ mô
của nhà nước trong từng thời kỳ. Thực tế lịch sử cho thấy chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần
có sự ổn định về chính trị - xã hội, ví dụ như :
Tình hình môi trường chính trị: Kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga
trước đây bị gián đoạn, bởi 3 năm nội chiến (1918 - 1920). Trong kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất (1961 - 1965) công nghiệp hoá tiến hành ở miền Bắc nước ta thực hiện đến năm

1964, Mỹ phong toả vịnh Bắc bộ ném bom và ngư lôi ở Hải Phòng và Quảng Ninh gây
chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, công nghiệp hoá lúc này bị gián đoạn do chiến tranh hay
chuyển sang làm công nghiệp hoá theo quan điểm phục vụ chiến tranh là chủ yếu.
Mặc dù cơ cấu kinh tế mang tính khách quan và tính lịch sử xã hội nhưng các tính
chất này lại chịu sự tác động, chi phối của Nhà nước. Khi tác động gián tiếp, nhà nước
bằng cách định hướng chiến lược phát triển kinh tế, khuyến khích mọi lực lượng sản xuất
xã hội nhằm đạt được mục tiêu đề ra, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như nội
bộ cơ cấu kinh tế nghành công nghiệp, bằng lực lượng kinh tế của mình Nhà Nước có thể
sẽ tập trung vốn để đầu tư vào việc phát triển những ngành công nghiệp mũi nhọn, trọng
điểm, có lợi thế cạnh tranh cao, đồng thời Nhà Nước hướng dẫn cho mọi thành phần kinh
tế, các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất theo mục tiêu kinh tế xã hội đề ra. Bên
cạnh đó, Nhà nước điều hành nền kinh tế thông qua các hệ thống luật pháp, các chính
sách kinh tế và các công cụ điều tiết khác như: đối với những ngành sản xuất hoặc những
sản phẩm cần hạn chế phát triển thì nhà nước sẽ đánh thuế cao, ngược lại những ngành
sản xuất hoặc sản phẩm cần phát triển thì Nhà nước sẽ miễn giảm thuế hoặc đánh thuế
thấp để khuyến khích nhà sản xuất, từ đó sẽ đẩy mạnh sản xuất của ngành đó. Đối với
những ngành sản xuất không có lãi hoặc không ai muốn đầu tư sản xuất nhưng sản phẩm
của nó lại rất cần cho xã hội thì Nhà nước tự đầu tư và tự tổ chức sản xuất. Ngoài ra, với


sự ổn định về chính trị của đất nước, với đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa
dạng hoá các mối quan hệ quốc tế sẽ tạo ra các lợi thế quan trọng trong việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, là điều kiện để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài an tâm đầu tư vào đất
nước đó.
Như vậy môi trường chính trị - xã hội không ổn định, định hướng chiến lược kinh
tế và môi trường thể chế chính sách của Nhà nước luôn có sự thay đổi sẽ khó có thể
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tình hình thể chế kinh tế thị trường, thị trường và nhu cầu tiêu dùng trên thị
trường của xã hội. Sau 20 năm chuyển đổi nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường
định hướng XHCN cho thấy, thị trường có vai trò là khâu trung gian giữa nhà sản xuất và

người tiêu dùng, là nơi mà nhà kinh doanh và người tiêu dùng gặp nhau nhằm xác định ba
vấn đề cơ bản: sản xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất bao nhiêu? Đây
chính là căn cứ để xác định nhu cầu tiêu dùng của xã hội mà các doanh nghiệp xây
dựng kế hoạch sản xuất hàng hoá để đáp ứng nhu cầu cả xã hội, do đó thị trường là
yếu tố giữ vai trò quan trọng đến sự phát triển kinh tế và ảnh hưởng đến sự hình
thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp của một nước. Nhân tố thị
trường có tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp qua các
vấn đề sau: Tạo ra quá trình mở rộng và khai thác những tiềm năng cho sự phát triển của
ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; Thúc đẩy sự phân công lao động xã hội, đa
dạng hoá ngành nghề, khuyến khích mở rộng đầu tư trong nước và nước ngoài tạo ra sự
tăng trưởng nhanh cho ngành công nghiệp. Do tác động của sự cạnh tranh và nhu cầu
đòi hỏi ngày càng cao trên thị trường nên tạo ra sự kích thích việc ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật, đổi mới công nghệ trong ngành công nghiệp và trong nội bộ của ngành
công nghiệp. Kích thích được lợi ích kinh tế và tạo ra động lực mới cho sự phát triển của
ngành công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đang có những loại thị trường sau: Thị trường
hàng hoá dịch vụ, thị trường khoa học - công nghệ - thông tin, thị trường vốn, thị trường
bất động sản, thị trường sức lao động, thị trường chứng khoán. Nhà nước quản lý thị


trường bằng các công cụ quản lý gián tiếp, đó là những thể chế, luật pháp, chính sách kinh
tế nhằm tạo điều kiện cho thị trường hoạt động, thông qua đó thị trường tác động lên các
doanh nghiệp, từ đó các doanh nghiệp có xu hướng chuyển dịch cơ cấu để sản xuất ra các
hàng hoá phù hợp với nhu cầu của thị trường, như vậy xét đến cùng thì thị trường tác
động đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp chính bởi xuất phát từ nhu cầu tiêu
dùng cả xã hội, hoặc Nhà nước trực tiếp tác động lên thị trường bằng chương trình kích
cầu thông qua đầu tư hoặc tiêu dùng ( Ví dụ: Nhà nước đầu tư hệ thống cầu đường là kích
thích ngành sản xuất sắt, thép, xi măng, vật liệu xây dựng phát triển). Khi nhu cầu tiêu
dùng của xã hội tăng lên sẽ làm cho sản xuất công ngiệp phát triển, để đáp ứng sản phẩm
tiêu dùng cho xã hội, tạo ra thu nhập bình quân đầu người tăng, đồng thời kéo theo sự

dịch chuyển lao động từ nông thôn vào thành thị, cơ cấu sản xuất công nghiệp sẽ tăng lên,
tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu trong ngành công nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của xã hội ngày càng cao và phong phú hơn.
Bốn là: Nhóm nhân tố tác động của tình hình thế giới.
Xu hướng chính trị xã hội của khu vực và thế giới ảnh hưởng tới sự hình thành và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp. Sự biến động về chính trị xã hội của một
nước hay một số nước trên thế giới sẽ tác động mạnh đến các hoạt động ngoại thương,
thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ của các nước trên thế giới và khu vực. Nên
buộc các nước phải điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế, nhất là cơ cấu ngành công
nghiệp, để đảm bảo cho nền kinh tế nước mình phát triển ổn định. Ví dụ: Cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ nổ ra vào năm 1997 ở Châu Á, bắt đầu từ Thái Lan sau đó lan ra
hầu hết các nền kinh tế trong khu vực đã để lại những hậu quả nghiêm trọng cho các nước
này, hoặc những thay đổi trong hệ thống chính trị ở các nước khu vực ASEAN sẽ là
những nguy cơ tiềm tàng cho quá trình khôi phục và tăng trưởng kinh tế của toàn bộ khu
vực do sự tác động lây lan của nó, từ khủng hoảng chính trị xã hội sẽ chuyển thành khủng
hoảng kinh tế và ngược lại.
Xu thế toàn cầu hoá kinh tế và quốc tế hoá lực lượng sản xuất, ngày nay toàn cầu
hoá kinh tế đã trở thành xu thế khách quan của thế giới hiện đại, nó tác động đến mọi lĩnh


vực trong đời sống kinh tế xã hội của các nước trên thế giới. Nó bắt nguồn từ sự phát triển
vượt bậc của lực lượng sản xuất trên quy mô quốc tế dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, làm cho tính xã hội hoá của hoạt động sản
xuất tăng lên và sự phân công lao động trở nên sâu sắc hơn, các mối quan hệ giữa các
vùng tác động qua lại tuỳ thuộc lẫn nhau trong nền kinh tế giữa các quốc gia và khu vực
ngày càng sâu rộng và mật thiết với nhau. Toàn cầu hoá là một quá trình phức tạp đầy
mâu thuẫn, nó chứa đựng những mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực, cả thời cơ và thách thức
đối với các quốc gia trên thế giới, nhất là đối với các nước đang phát triển phải chịu nhiều
thách thức gay gắt hơn hết. Cơ hội của toàn cầu hoá chính là tạo ra sự phát triển kinh tế
thông qua việc thu hút đầu tư, chuyển giao khoa học công nghệ, tự do hoá thương mại,

nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là chuyển
dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp theo hướng chuyên môn hoá sâu, kết hợp khai thác
nguồn lực trong nước với mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Xu hướng toàn cầu
hoá kinh tế đã hình thành mạng lưới sản xuất quốc tế, kết hợp với ứng dụng các công
nghệ mới và sự bành trướng ngày càng tăng của các công ty xuyên quốc gia đã làm cho
biên giới các quốc gia trở nên chật chội, nó phải vượt qua khỏi biên giới lãnh thổ để mở
rộng sản xuất kinh doanh trên phạm vi toàn thế giới, thể hiện qua việc di chuyển nguồn
vốn đầu tư, hay là sự phân công lao động quốc tế dựa trên sự chuyên môn hoá sâu diễn ra
trong nội bộ của từng ngành công nghiệp, làm cho quá trình sản xuất ra một sản phẩm
hoàn chỉnh được chia thành nhiều công đoạn, được thực hiện bởi những công ty khác
nhau ở những nước khác nhau trên thế giới, đã hình thành nên việc quốc tế hoá lực lượng
sản xuất ra không chỉ phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nội bộ của một quốc gia mà còn
vươn ra nước ngoài để tìm kiếm thị trường tiêu thụ quốc tế rộng lớn hơn, tạo ra việc sản
xuất và cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu, đồng thời để tồn tại và phát triển trong môi
trường tự do hoá thương mại của thế giới, các quốc gia tiếp tục tiếp thu, ứng dụng khoa
học kỹ thuật hiện đại vào trong sản xuất thông qua việc chuyển giao công nghệ, mua phát
minh sáng chế, thu hút chuyên gia giỏi để sản xuất ra sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao,
chiếm lĩnh được thị trường.

×