Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Xóa đói, giảm nghèo ở Vĩnh Phúc Luận văn ThS. Kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 112 trang )


đại học quốc gia hà nội
Trung tâm đào tạo, bồi d-ỡng giảng viên
lý luận chính trị




Nguyễn thị ph-ơng thảo





X
X
ó
ó
a
a


đ
đ
ó
ó
i
i


g


g
i
i


m
m


n
n
g
g
h
h
è
è
o
o






v
v
ĩ
ĩ
n

n
h
h


p
p
h
h
ú
ú
c
c



Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã ngành : 60 31 01




luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị




Ng-ời h-ớng dẫn khoa học:
pgs.ts.vũ văn phúc







Hà nội 2009



MỤC LỤC



TRAN
G
MỞ ĐẦU

1
Chương 1:
Cơ sở lý luận và thực tiễn về nghèo đói,
xóa đói giảm nghèo
7
1.1.
Một số vấn đề lý luận chung về nghèo đói và xoá đói
giảm nghèo.
7
1.2.
Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của một số tỉnh và bài
học rút ra cho Vĩnh Phúc.
32

Chương 2:
Thực trạng nghèo đói và xoá đói, giảm nghèo ở vĩnh phúc
36
2.1.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội tác động đến nghèo
đói và công tác XĐGN ở Vĩnh Phúc
36
2.2.
Phân tích tình hình nghèo đói và công tác XĐGN ở Vĩnh
Phúc
46
2.3.
Đánh giá chung về công tác xoá đói giảm nghèo ở Vĩnh
Phúc
64
Chương 3:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ TIẾP
TỤC THỰC HIỆN XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở VĨNH PHÚC
71
3.1.
Mục tiêu và phương hướng cơ bản
71
3.2.
Giải pháp cơ bản để tiếp tục thực hiện XĐGN ở Vĩnh
Phúc
75
KẾT LUẬN
93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
95







DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT






Bộ LĐTB& XH : Bộ Lao động thương binh và xã hội

BCĐ : Ban chỉ đạo
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CNTB : Chủ nghĩa tư bản
CNH,HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ĐBKK : Đặc bịêt khó khăn
DTTS : Dân tộc thiểu số
KT- XH : Kinh tế - xã hội
GDP : Thu nhập quốc nội
HĐND : Hội đồng nhân dân
TCTK : Tổng cục Thống kê
UBND : Uỷ ban nhân dân
WB : Ngân hàng thế giới
XĐGN : Xoá đói, giảm nghèo









DANG MỤC CÁC BẢNG


Trang
Bảng 2.1
Mật độ dân số trung bình ở Vĩnh Phúc
41
Bảng 2.2
Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi từ năm 1997-2007
44
Bảng 2.3
Trình độ lao động nghề nông ở Vĩnh Phúc
45
Bảng 2.4
Tỷ lệ nghèo đói ở một số khu vực
46
Bảng 2.5
Tỷ lệ nghèo đói của theo huyện, thị, thành phố
47
Bảng 2.6
Thu nhập bình quân đầu người/tháng
51
Bảng 2.7
Thống kê thiệt hại do thiên tai ở tỉnh từ năm 2004-

2007
56
Bảng 2.8
Tỷ lệ gnhèo đói ở tỉnh từ năm 1998-2007
65
Bảng 2.9
Nghèo đói và tỷ lệ giảm nghèo theo khu vực, đối tượng
chính sách
66
Bảng 2.10
Tỷ lệ giảm nghèo theo huyện, thị, thành phố
67



















1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và xu thế toàn
cầu hoá, con người đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế - xã hội và các quốc
gia cũng có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Song thực tế cho thấy ngày
nay ngay cả ở những nước phát triển thì vấn đề nghèo đói, chênh lệch thu nhập
trong dân cư vẫn là vấn đề nan giải của xã hội. Đối với các nước đang phát
triển như Việt Nam thì đói nghèo trở thành vấn đề bức xúc, là cản trở lớn cho
sự phát triển của xã hội. Chính vì thế, xoá đói giảm nghèo đang là vấn đề cấp
thiết của mỗi quốc gia cũng như của toàn nhân loại. Ngày nay các tổ chức quốc
tế cùng với các quốc gia trên thế giới đã và đang thực hiện nhiều biện pháp rất
tích cực nhằm xoá đói giảm nghèo hiệu quả.
Sau 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đang từng bước khởi sắc và
đạt được nhiều thành tựu to lớn, đời sống nhân dân đã được cải thiện và nâng
cao rõ rệt. Tuy nhiên, cùng với xu thế phát triển đi lên của xã hội, bên cạnh
một bộ phận dân cư giàu lên, vẫn còn một bộ phận không nhỏ rơi vào cảnh đói,
nghèo với khoảng cách ngày càng xa. Tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam còn rất cao,
theo chuẩn nghèo mới được Chính Phủ ban hành trong Quyết định số
170/2005/QĐ-TTg ngày 8/7/2005, cả nước có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo,
chiếm 22% số hộ toàn quốc. Vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất là vùng Tây Bắc
(42%), Tây nguyên (38%), thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ (9%) [4, tr.29],
đến năm 2008 tỷ lệ nghèo chung của cả nước vẫn còn 13,1%, nhưng khoảng
cách giàu nghèo lại có xu hướng gia tăng, năm 2006 là 8,4 lần [40]. Muốn đảm
bảo cho sự ổn định để phát triển của đất nước, thì thời gian tới nước ta cần phải
khuyến khích mọi người tăng thu nhập, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và
phân tầng xã hội về thu nhập của dân cư.
Vì thế công tác xoá đói giảm nghèo đã và đang được Đảng và Nhà
nước ta rất quan tâm. Tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm



2
1996), Đảng ta đó khẳng định: “Thực hiện tốt chương trình xoá đói, giảm
nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số” [19, tr 115]. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX (tháng 4 năm
2001) tiếp tục khẳng định: “Phấn đấu đến năm 2010, về cơ bản không còn hộ
nghèo.Thường xuyên củng cố thành quả xoá đói, giảm nghèo” [20, tr. 211]
Qúa trình thực hiện chương trình quốc gia về xoá đói, giảm nghèo ở nước
ta thời gian qua đó đạt được một số thành tựu nhất định như: số hộ nghèo theo
chuẩn cũ giảm cả tuyệt đối và tương đối, số hộ nghèo vươn lên làm giàu ngày
một nhiều hơn, Việt Nam được Ngân hàng Thế giới đánh giá là nước có thành
tích vượt trội trong xoá đói, giảm nghèo… Tuy nhiên, kết quả XĐGN ở nước ta
thời gian qua chưa vững chắc, số hộ nghèo theo chuẩn mới còn cao. Đại hội đại
biểu Đảng toàn quốc lần thứ lần thứ X nhận định: “Thành tựu XĐGN chưa thật
vững chắc. Số hộ nghèo và tỷ lệ nghèo ở một số vùng còn lớn, tỷ lệ hộ nghèo
theo chuẩn mới còn cao. Đời sống nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng thường bị
thiên tai còn gặp nhiều khó khăn, nhiều vùng dân tộc thiểu số có tỷ lệ hộ nghèo
cao hơn so với bình quân cả nước” [21, tr.175]. Thực trạng đó đòi hỏi nước ta
cần nỗ lực hơn nữa trong việc tìm giải pháp hiệu quả để tiếp tục tổ chức thực
hiện chương trình XĐGN ở tầm cao hơn.
Chúng ta biết rằng, đói nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần,
mà còn là vấn đề chính trị, xã hội và là một trong những nội dung cơ bản trong
phát triển kinh tế bền vững ở mỗi địa phương, mỗi quốc gia và trên toàn thế
giới. Giải quyết tình trạng đói nghèo là một trong những vấn đề xã hội vừa cơ
bản lâu dài, vừa là nhiệm vụ cấp bách, nhằm bảo đảm phát triển kinh tế và tiến
bộ, công bằng xã hội. Vì vậy, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta có
rất nhiều chủ trương về XĐGN. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, một lần
nữa Đảng ta khẳng định: "Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế, xã hội và trợ giúp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để người



3
nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo tự vươn lên thoát nghèo và cải thiện mức sống
một cách bền vững" [21, tr.217].
Vĩnh Phúc là một tỉnh nằm ở phía Bắc thủ đô Hà Nội, năm 1997 tỉnh
được tái lập trong điều kiện còn rất nghèo và nhiều khó khăn. Nhưng những
năm gần đây, Vĩnh Phúc đã tranh thủ thời cơ, phát huy lợi thế và đạt được
nhiều thành tựu quan trọng trên mọi lĩnh vực, nhờ đó mà đời sống của nhân
dân đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, bên cạnh
những thành tựu đạt được, sự phát triển của tỉnh vẫn còn một số khó khăn,
thách thức, trong đó đáng chú ý là vấn đề nghèo đói của tỉnh vẫn chưa giải
quyết được, nhất là ở những xã miền núi tỷ lệ nghèo đói còn rất cao như: xã Bồ
Lý (Tam Đảo) là 64,46%, Đạo Trù (Tam Đảo) là 53,3%, Hoàng Hoa (Tam
Dương) là 50,78%, Yên Dương (Tam Đảo) là 48,2%, Bàn Giảng (Lập Thạch)
là 41,5%, Vân Trục (Lập Thạch) là 40,5% [46]. Thực trạng đói nghèo đó đang
là vấn đề bức xúc, cần được quan tâm giải quyết để tiếp tục phát triển. Vì vậy,
việc nghiên cứu lý giải một cách có hệ thống, đánh giá đúng thực trạng về đói
nghèo đói trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện có
hiệu quả xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc vừa có ý nghĩa lý
luận cơ bản, vừa là vấn đề cấp thiết đối với thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những lý do đó, tôi lựa chọn đề tài "Xóa đói giảm nghèo ở Vĩnh
Phúc" làm luận văn thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nghèo đói và xóa đói, giảm nghèo ở nước ta là vấn đề được
Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành cũng như nhiều cơ quan, nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu. Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX đến nay đã có
nhiều công trình khoa học, đề tài nghiên cứu, bài viết liên quan đến vấn đề xóa
đói, giảm nghèo được công bố, đáng chú ý là các công trình sau:



4
- Trần Đình Đàn, “Những giải pháp kinh tế - xã hội chủ yếu nhằm xoá
đói giảm nghèo ở Hà Tĩnh, Luận án tiến sỹ kinh doanh và quản lý, Học viện
Chính Trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2002.
- TS. Lê Xuân Bá (cùng tập thể tác giả), Nghèo đói và xóa đói, giảm
nghèo ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, 2001.
- Vũ Minh Cường, Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm xóa
đói, giảm nghèo ở tỉnh Hà Giang, Luận văn tốt nghiệp cử nhân chính trị, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003.
- Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng thế giới, Chính sách đất
đai cho tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo, Nxb Văn hóa - thông tin, 2004.
- Hoàng Thị Hiền, Xóa đói, giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc ít
người tỉnh Hòa Bình - thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học
viên Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005.
- Thái Văn Hoạt, Giải pháp xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh
Quảng Trị trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sỹ kinh doanh và quản lý
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2007.
Ngoài ra còn nhiều bài báo, tạp chí viết về vấn đề xóa đói giảm nghèo
như TS. Tạ Thị Lệ Yên,"Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng chính
sách xã hội với mục tiêu xóa đói, giảm nghèo", tạp chí Ngân hàng số 11/2005;
TS. Đàm Hữu Đắc,"Cuộc chiến chống đói nghèo ở Việt Nam thực trạng và
giải pháp", tạp chí Lao động và Xã hội số 272 tháng 10/2005.
Đồng thời, còn có nhiều công trình khoa học khác nghiên cứu vấn đề
xóa đói, giảm nghèo ở nhiều khía cạnh khác nhau. Có thể khẳng định, các công
trình nghiên cứu về nghèo đói và xóa đói, giảm nghèo ở nước ta là rất phong
phú. Thành quả của những công trình đã cung cấp những luận cứ khoa học,
thực tiễn cho việc xây dựng, triển khai công tác xóa đói, giảm nghèo trên toàn
quốc và từng địa phương.



5
Tuy nhiên cho đến nay vấn đề "Xóa đói giảm nghèo ở Vĩnh Phúc" vẫn là
một khoảng trống chưa có công trình nào nghiên cứu.



3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nhận thức về lý luận và thực tiễn về nghèo đói và xóa đói
giảm nghèo, mục đích nghiên cứu của luận văn là:
- Đánh giá thực trạng nghèo đói và nguyên nhân nghèo đói ở Vĩnh
Phúc.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu và phù hợp với điều kiện, đặc điểm
kinh tế - xã hội của tỉnh, nhằm đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo cho
Vĩnh Phúc đến hết năm 2010.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về nghèo đói và xóa đói,
giảm nghèo.
- Phân tích thực trạng nghèo đói, nguyên nhân nghèo đói, đánh giá
những kết quả và hạn chế trong công tác xóa đói, giảm nghèo ở Vĩnh Phúc
những năm qua.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh việc thực hiện xóa đói,
giảm nghèo ở Vĩnh Phúc
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài này tập trung nghiên cứu tình hình nghèo đói và vấn đề xóa đói,
giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Phạm vi nghiên cứu:



6
Đánh giá, phân tích thực trạng nghèo đói và xóa đói giảm nghèo từ
năm 2001 đến nay. Nêu ra mục tiêu, giải pháp giảm nghèo đến hết năm 2010
sao cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và cả nước.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Để xem xét vấn đề nghèo đói và xóa đói, giảm nghèo một cách khách
quan, sát thực tiễn, luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử và các quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta.
- Ngoài ra, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như
điều tra, khảo sát, so sánh, phân tích, tổng kết, kết hợp giữa nguyên lý của kinh
tế học với khảo sát đánh giá thực tiễn, kế thừa những kết quả nghiên cứu từ các
công trình khoa học đã công bố có liên quan để giải quyết nhiệm vụ của luận
văn.
6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn
- Từ đặc thù về kinh tế, chính trị, xã hội ở Vĩnh Phúc, luận văn xác
định mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả hơn công
tác xóa đói, giảm nghèo cho Vĩnh Phúc.
- Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích cho các cơ quan chức năng có
liên quan đến việc xây dựng và thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo
trên địa bàn Vĩnh Phúc, cũng như đối với một số địa phương khác có đặc điểm
tương đồng, đang thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo.
7. Kết cấu của luận văn
- Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn gồm 3 chương:


7
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGHÈO ĐÓI,
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO

1.1. Một số vấn đề lý luận chung về nghèo đói và xoá đói giảm nghèo.
1.1.1. Khái niệm về nghèo đói và xoá đói giảm nghèo.
1.1.1.1. Khái niệm về nghèo đói và tiêu chí xác định nghèo đói.
* Khái niệm về nghèo đói.
Hiện nay, đói nghèo không còn là vấn đề riêng của từng quốc gia, mà
là vấn đề có tính toàn cầu, bởi lẽ ở tất cả các quốc gia trên thế giới, kể cả
những nước giàu như Mỹ, Đức, Nhật người nghèo vẫn còn và có lẽ khó có
thể hết người nghèo khi trong các xã hội chưa thể chấm dứt những rủi ro về
kinh tế, xã hội, môi trường và sự bất bình đẳng trong phân phối của cải làm ra.
Rủi ro quá nhiều trong sản xuất và đời sống làm cho một bộ phận dân cư rơi
vào tình trạng nghèo đói.
Vì vậy nghèo đói không còn là vấn đề riêng của một quốc gia mà đã trở
thành vấn đề quốc tế. Tại khoá họp đặc biệt của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc
về phát triển xã hội, tháng 6 năm 2000 diễn ra ở Genever - Thụy Sỹ, các thành
viên đã thống nhất cam kết, phấn đấu giảm một nửa số người nghèo trên thế
giới. Hội nghị kêu gọi cộng đồng quốc tế đẩy mạnh chiến dịch “Tấn công vào
nghèo đói” và khuyến khích các quốc gia cần có chiến lược toàn diện về
XĐGN. Tại Hội nghị thiên niên kỷ vào tháng 9 năm 2000, Liên Hợp Quốc một
lần nữa khẳng định: Chống nghèo đói là một trong những mục tiêu ưu tiên
hàng đầu của cộng đồng quốc tế trong thế kỷ XXI.
Để giải quyết vấn đề nghèo đói cần phải có quan niệm đúng về nó. Tuy
nhiên, do mỗi quốc gia lại có trình độ phát triển kinh tế xã hội, điều kiện địa lý
tự nhiên, trình độ dân trí, văn hoá, chính trị khác nhau, nên mỗi quốc gia lại có
cách làm và giải pháp khác nhau. Thậm chí ngay trong một quốc gia thì ở mỗi


8

thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử cũng có sự khác nhau. Điều đó đã dẫn đến có
nhiều quan niệm khác nhau về nghè đói và XĐGN.
Chúng ta thường thấy một số khái niệm về nghèo như: nghèo đói,
nghèo khổ, giàu nghèo, phân hóa giàu nghèo hay khoảng cách giàu nghèo,
những khái niệm này được các học giả, các nhà khoa học định nghĩa dưới
nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau như nghèo về vật chất, nghèo về tri thức,
nghèo về văn hóa Mặt khác, bên cạnh khái niệm nghèo, còn sử dụng khái
niệm đói để phân biệt mức độ rất nghèo của một bộ phận dân cư. Chính vì vậy,
hiện nay chúng ta thường thấy khái niệm kép đói nghèo hoặc nghèo đói.
Đói nghèo là một hiện tượng tồn tại ở tất cả các quốc gia dân tộc. Nó là
một khái niệm rộng, luôn thay đổi theo không gian và thời gian. Đến nay,
nhiều nhà nghiên cứu và các tổ chức quốc tế đã đưa ra nhiều khái niệm khác
nhau, trong đó có khái niệm khái quát hơn cả được nêu ra tại Hội nghị bàn về
XĐGN ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc
(Thái Lan) tháng 9/1993, các quốc gia trong khu vực đã thống nhất cho rằng:
"Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn
những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận, tùy theo trình độ
phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương" [48, tr.9].
Đây là khái niệm khá đầy đủ về đói nghèo, được nhiều nước trên thế giới nhất
trí sử dụng, khái niệm này đã phân định nghèo đói theo trình độ phát triển kinh
tế xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương. Nhưng các tiêu chí và
chuẩn mực về mặt lượng hoá chưa được xác định vì còn phải tính đến sự chênh
lệch về điều kiện tự nhiên, xã hội và trình độ phát triển của mỗi vùng, miền
khác nhau.
Dựa vào những khái niệm chung do các tổ chức quốc tế đưa ra và căn
cứ vào thực trạng kinh tế - xã hội ở Việt Nam, trong chiến lược toàn diện về
tăng trưởng và XĐGN đến năm 2005 và 2010, Việt Nam thừa nhận định nghĩa
chung về đói nghèo do Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình



9
Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan) tháng 9/1993. Đồng thời
vấn đề đói nghèo ở Việt Nam còn được nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau
như cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng, nên nghèo đói còn được phân theo hai
cấp độ: đói và nghèo.
- Đói: là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới
mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì
cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai
tháng, thường vay mượn của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả cộng đồng.
Khái niệm đói cũng có hai dạng là: đói kinh niên và đói cấp tính (đói gay gắt).
+ Đói kinh niên: là bộ phận dân cư đói nhiều năm liền cho đến thời
điểm đang xét.
+ Đói cấp tính: là bộ phận dân cư rơi vào tình trạng đói đột xuất do
nhiều nguyên nhân như gặp thiên tai, tai nạn, rủi do khác tại thời điểm đang
xét.
+ Hộ đói: là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không được
học hành đẩy đủ, ốm đau không có tiền chữa bệnh, nhà ở tạm bợ, rách nát
- Để đánh giá đúng mức độ nghèo, người ta chia nghèo thành hai loại:
nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
+ Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng
và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống (nhu cầu về
ăn, mặc, nhà ở, chăm sóc y tế, giáo dục ). Những nhu cầu này cũng có sự thay
đổi, khác biệt theo từng quốc gia và được mở rộng dần trong quá trình phát
triển.
+ Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức trung bình của cộng đồng tại địa phương, ở một thời kỳ nhất định. Khái
niệm nghèo tương đối gắn liền với sự chênh lệch về mức sống của một bộ phận
dân cư với mức sống trung bình của địa phương trong một thời kỳ nhát định.
Vì vậy, việc xoá dần nghèo tuyệt đối là có thể làm, nhưng còn nghèo tương đối



10
là hiện tượng thường có trong xã hội và vấn đề ở đây là rút ngắn khoảng cách
giàu nghèo, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội.
Khái niệm nghèo tuyệt đối còn được sử dụng để so sánh mức độ nghèo
khổ giữa các quốc gia. Trên cơ sở đó người ta đưa ra khái niệm nước nghèo là
nước có thu nhập bình quân đầu người rất thấp, nguồn lực hạn hẹp, cơ sở hạ
tầng và môi trường yếu kém, vị trí không thuận lợi trong giao lưu với cộng
đồng quốc tế. Tuy nhiên trong đấu tranh chống nạn nghèo đói người ta dùng
khái niệm nghèo tương đối. Như vậy nghèo đói là khái niệm mang tính chất
tương đối cả về không gian và thời gian.
Xem xét quan niệm nghèo và đói cho thấy, đói là khái niệm dùng để
nói đến mức độ rất nghèo của một bộ phận dân cư. Giữa đói và nghèo cũng có
mối quan hệ với nhau, chúng phản ánh ở những mức độ khác nhau, “nghèo là
một kiểu đói tiềm tàng và đói là một tình trạng hiển nhiên của nghèo” [38,
tr.18]
Nghèo ở Việt Nam được chia làm ba cấp độ: người nghèo, hộ nghèo,
vùng nghèo. Chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN giai đoạn 1998-2000
của Việt Nam đã căn cứ vào các cấp độ trên để đưa ra các khái niệm hộ nghèo,
xã nghèo, vùng nghèo và có tiêu chí xác định cho từng loại cụ thể.
- Hộ nghèo là hộ đói ăn nhưng không đứt bữa, mặc không đủ lành,
không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất.
- Xã nghèo là xã có tỷ lệ nghèo cao, không có hoặc rất thiếu những cơ
sở hạ tầng thiết yếu như: điện, đường, trường, trạm, nước sạch , trình độ dân
trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao.
- Vùng nghèo là địa bàn nằm ở khu vực khó khăn hiểm trở, giao thông
không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao.
Như vậy, đói nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện
như: thu nhập hạn chế hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo
tiêu dùng những lúc khó khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến, ít



11
được tham gia vào quá trình ra quyết định Qua nghiên cứu, chúng ta nhận
thấy đói nghèo có nguồn gốc căn nguyên từ kinh tế; nhưng với tư cách là hiện
tượng tồn tại phổ biến ở các quốc gia trong tiến trình phát triển, đói nghèo thực
chất là hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp, chứ không thuần túy chỉ là vấn đề
kinh tế cho dù các tiêu chí đánh giá của nó trước hết và chủ yếu dựa trên các
tiêu chí về kinh tế. Vì vậy, khi nghiên cứu những tác động ảnh hưởng đến thực
trạng, xu hướng, cách thức giải quyết vấn đề đói nghèo cần phải đánh giá
những tác động của nhân tố chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng có
như vậy mới đề ra được các giải pháp đồng bộ cho công tác XĐGN ở nước ta
nói chung và ở Vĩnh Phúc nói riêng.
1.1.1.2 Tiêu chí xác định chuẩn nghèo đói.
Để đánh giá được mức độ đói nghèo, cần phải đưa ra các tiêu chí xác
định mức độ đói nghèo. Tuy nhiên, những tiêu chí xác định không cố định mà
luôn có sự biến động và khác nhau không những giữa các nước mà ngay trong
cùng một nước, và cũng khác nhau qua những giai đoạn lịch sử.
Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra các chỉ tiêu đánh giá mức độ giàu
nghèo của các quốc gia dựa vào mức thu nhập quốc dân bình quân tính theo
đầu người trong một năm và mức kcalo tối thiểu cần thiết cho một người sống
trong ngày với hai cách tính:
- Phương pháp Atlas là tính theo tỷ giá hối đoái và tính theo USD.
Theo phương pháp này, người ta chia thành 6 loại nước (lấy mức thu nhập
bình quân năm 1990):
Trên 25.000USD/người/năm : nước cực giàu
Từ 20.000USD đến dưới 25.000.USD / người/năm: nước giàu
Từ 10.000 đến dưới 20.000USD /người/năm : nước khá giàu
Từ 2.500 đến dưới 10.000USD /người/năm : nước trung
bình

Từ 500USD đến 2.500 USD /người/năm : nước nghèo


12
Dưới 500USD/người/ năm : nước cực nghèo
- Theo phương pháp sức mua tương đương PPP (Purchasing power
parity) cũng tính bằng USD, khi tính toán chuẩn nghèo quốc tế, WB đã tính
theo mức năng lượng tối thiểu cần thiết cho một người để sống là
2100kcalo/ngày. Với mức giá chung của thế giới, để đảm bảo mức năng lượng
đó thì cần khoảng 1USD/người/ngày. Theo cách tính này hiện nay trên thế giới
có khoảng 1,3 tỷ người nghèo đói, và có thể tăng lên tới 1,5 tỷ người vào 2025
[27, tr.48-49].
Tổ chức Liên Hiệp quốc: Dùng cách tính dựa trên cơ sở phân phối thu
nhập theo đầu người hoặc theo nhóm dân cư. Thước đo này tính phân phối thu
nhập cho từng cá nhân hoặc hộ gia đình nhận được trong thời gian nhất định,
nó không quan tâm đến nguồn mang lại thu nhập hay môi trường sống của dân
cư mà chia đều cho mọi thành phần dân cư.
Phương pháp tính: Đem chia dân số của một nước, một châu hoặc toàn
cầu ra làm 5 nhóm (ngũ phân vị), mỗi nhóm có 20% dân số, bao gồm: rất giàu,
giàu, trung bình, nghèo và rất nghèo. Theo cách tính này, vào những năm 1990
thì 20% dân số giàu nhất chiếm 82,7% thu nhập toàn thế giới, trong khi 20 %
dân số nghèo nhất chỉ chiếm 1,4%. Như vậy, nhóm giàu nhất có thu nhập gấp
59 lần nhóm nghèo nhất [25, tr.11].
Mặc dù thu nhập bình quân là căn cứ rất quan trọng, song không thể
coi đó là tiêu chí duy nhất để đánh giá mức độ giàu nghèo của một quốc gia.
Nghèo đói còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác như yếu tố chính trị, xã
hội. Vì vậy, cơ quan phát triển con người của Liên hiệp quốc còn đưa ra chỉ số
phát triển con người (Human Development Index - HDI) để kiểm soát, đánh
giá sự tiến bộ trong phát triển con người. HDI đo thành tựu trung bình của một
quốc gia trên 3 phương diện của sự phát triển con người, đó là:

- Tuổi thọ trung bình từ lúc sinh;
- Tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học các cấp giáo dục;


13
- Thu nhập bình quân đầu người theo sức mua tương đương (PPP)
HDI được tính bằng công thức sau:
3
III
HDI
NEA



Trong đó: IA: Chỉ số đo tuổi thọ;
IE: Chỉ số đo tri thức;
IN: Chỉ số đo mức sống; [43, tr.134].
Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, tuy đã đạt được nhiều thành tựu
trong công cuộc đổi mới và có bước phát triển quan trọng, nhưng Việt Nam
vẫn là nước nghèo, nằm trong nhóm các quốc gia nghèo nhất thế giới. Theo kết
quả phân loại các nền kinh tế theo khu vực và theo thu nhập (bằng phương
pháp Atlas) của WB năm 2001, Việt Nam vẫn thuộc nhóm các quốc gia thu
nhập thấp, tuy nhiên thứ hạng HDI thì liên tục được cải thiện, hiện đứng thứ
108/177 nước được xếp hạng, đã tăng 4 bậc so với năm 2004. Như vậy, mặc dù
GDP bình quân đầu người của nước ta còn rất thấp, nhưng thứ hạng HDI lại
cao hơn thứ hạng GDP nhiều. Điều đó chứng tỏ đời sống của nhân dân được
cải thiện nhanh hơn mức tăng trưởng GDP và tình trạng nghèo đói cũng đã
giảm.
Có thể nhận thấy, trên thế giới có nhiều tiêu chí xác định chuẩn nghèo
đói, nhưng tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu nên lựa chọn chuẩn nào cho

phù hợp với yêu cầu.
Trong những năm qua, tại Việt Nam 2 loại tiêu chí được sử dụng để
xác định chuẩn nghèo. Một là, chuẩn nghèo do Bộ Lao động- Thương binh và
Xã hội (LĐ- TB&XH) đưa ra để áp dụng trong công tác XĐGN, theo tiêu chí
thu nhập bình quân đầu người; Hai là, chuẩn nghèo do Tổng cục thống kê
(TCTK) và WB đưa ra để đánh giá đói nghèo trên giác độ vĩ mô, dựa theo mức
chi tiêu thông qua các cuộc điều tra mức sống dân cư.
* Phương pháp xác định chuẩn nghèo đói theo tiêu chuẩn quốc gia: Bộ
LĐTB&XH, cơ quan thường trực của chương trình XĐGN đã 5 lần công bố
chuẩn nghèo đói cho từng giai đoạn khác nhau:


14
Giai đoạn 1993- 1995, với yêu cầu cấp bách về chỉ đạo XĐGN, Bộ
LĐTB&XH đã đưa ra chuẩn đói nghèo của nước ta như sau:
- Hộ đói ở khu vực nông thôn có mức thu nhập bình quân đầu người quy
ra gạo là dưới 8kg/người/tháng;
- Hộ đói ở khu vực thành thị có mức thu nhập bình quân đầu người quy
ra gạo là dưới 13kg/người/tháng;
- Hộ nghèo ở khu vực nông thôn có mức thu nhập bình quân đầu người
quy ra gạo là dưới 15kg/người/tháng;
- Hộ nghèo ở khu vực thành thị có mức thu nhập bình quân đầu người
quy ra gạo là dưới 20kg/người/tháng.
Giai đoạn 1996-1997:
- Hộ đói là hộ có thu nhập bình quân đầu người quy ra gạo là dưới
13kg/người/tháng cho mọi vùng;
- Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người quy ra gạo là dưới
20kg/người/tháng đối với khu vực thành thị, dưới 20kg đối với khu vực nông
thôn đồng bằng và dưới 15kg đối với khu vực nông thôn miền núi, hải đảo.
Giai đoạn 1998-2000: Theo thông báo số 1751/LĐ-TB&XH ngày

20/5/1997 quy định như sau:
- Hộ đói tính cho mọi khu vực có mức thu nhập dưới 13kg gạo tương
ứng với 45.000đ/người/tháng;
- Hộ nghèo khu vực nông thôn miền núi, hải đảo có mức thu nhập dưới
15kg gạo, tương ứng với 55.000đ/người/tháng;
- Hộ nghèo khu vực nông thôn đồng bằng, trung du có mức thu nhập
dưới 20kg gạo, tương ứng với 70.000đ/người/tháng;
- Hộ nghèo khu vực thành thị có mức thu nhập dưới 25kg gạo, tương
ứng với 90.000đ/người/tháng.
Theo tiêu chí này, đến hết năm 1997 cả nước còn khoảng 2,65 triệu hộ
nghèo đói, chiếm tỷ lệ 17,7%; trong đó có 300.000 hộ thường xuyên đói, 1.498


15
xã có tỷ lệ nghèo đói từ 40% trở lên. Đến cuối năm 2000 tình trạng đói cơ bản
được giải quyết.
Giai đoạn 2001-2005: Theo Quyết định 1143/QĐ.LĐ- TB&XH ngày
1/11/2000 thì chuẩn hộ nghèo được điều chỉnh theo chuẩn mức thu nhập bình
quân 1 đầu người trong hộ cho từng vùng như sau:
- Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000đ/tháng;
- Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000đ/tháng;
- Vùng thành thị: 150.000đ/tháng.
Áp dụng chuẩn mới tỷ lệ hộ nghèo tăng lên, cuối năm 2001 có 14,5% hộ
nghèo, nhưng với nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được đề
ra kịp thời cùng với sự nỗ lực của toàn dân, đến cuối năm 2005 tỷ lệ hộ nghèo
chỉ còn 7%.
Giai đoạn 2006-2010: Theo Quyết định 170/2005/QĐ-TTg ngày
8/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ, chuẩn nghèo giai đoạn này được nâng lên
cho phù hợp với mức sống đã được nâng lên của nhân dân, số hộ nghèo theo
tiêu chí cũ đã giảm đáng kể, đồng thời đưa ra chuẩn đói nghèo mới để gần với

chuẩn đói nghèo của quốc tế.
- Vùng nông thôn: 200.000đ/người/tháng;
- Vùng thành thị: 260.000/người/tháng;
Với chuẩn nghèo này, cả nước còn 22% hộ nghèo, tập trung chủ yếu ở
các tỉnh miền núi, biên giới, Tây Nguyên.
Tuy vẫn còn một số hạn chế nhưng cách tính chuẩn nghèo của Bộ LĐ-
TB & XH là tương đối phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, dựa vào đó
các địa phương có thể thống kê số hộ nghèo, để có giải pháp và hỗ trợ cần
thiết.
Về tiêu chí xác định xã đặc biệt khó khăn, xã nghèo:
Năm 1998, uỷ ban Dân tộc và Miền núi đã ban hành quy định xã đặc
biệt khó khăn (thuộc chương trình 135) là xã có đủ 5 tiêu chí sau:


16
- Các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới cách thành phố, thị xã, khu
công nghiệp, trung tâm thương mại, quốc lộ, tỉnh lộ trên 10 km.
- Không có đường ô tô vào xã; các công trình điện, thuỷ lợi, nước sạch,
trường học, bệnh xá, các dịch vụ khác rất thấp kém hoặc không có.
- Môi trường xã hội chưa phát triển, trình độ dân trí quá thấp, tỷ lệ mù
chữ và thất học trên 50%, bệnh tật nhiều, hủ tục lạc hậu không có thông tin.
- Điều kiện sản xuất rất khó khăn, thiếu thốn; số hộ không có đất và thiếu
đất sản xuất trên 20%, số hộ có người đi làm thuê trên 20%
- Số hộ nghèo đói trên 30%. Đời sống còn nhiều khó khăn, còn tình trạng
đói giáp hạt.
Thời kỳ 1996 - 2000, Bộ LĐ-TB&XH đưa ra hướng dẫn xác định xã
nghèo đói như sau:
+ Tỷ lệ hộ đói nghèo của xã chiếm từ 40% trở lên,
+ Thiếu 1 trong số các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường giao
thông, điện thắp sáng, trường học, trạm y tế, nước sạch sinh hoạt, chợ).

Theo Quyết định số 587/2002/QĐ-BLĐTBXH ngày 22/5/2002 của Bộ
LĐ-TB&XH về việc ban hành tiêu chí xã nghèo (ngoài chương trình 135), giai
đoạn 2001-2005, xã nghèo là xã đáp ứng hai tiêu chí sau:
- Tỷ lệ hộ nghèo của xã chiếm từ 25% trở lên
- Chưa đủ 3 trên tổng số 6 hạng mục công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu,
cụ thể như sau:
+ Dưới 30% số hộ được sử dụng nước sạch.
+ Dưới 50% số hộ được sử dụng nước sinh hoạt.
+ Chưa có đường ô tô tới trung tâm xã hoặc có nhưng không đi được cả
năm.
+ Số phòng học mới đáp ứng được 70% nhu cầu của học sinh hoặc
phòng tạm bằng tranh, tre, nứa, lá.
+ Chưa có trạm y tế hoặc có nhưng còn tạm bợ.


17
+ Chưa có chợ hoặc mới có chợ tạm

1.1.1.2. Khái niệm về giảm nghèo.
Giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống,
từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng
người nghèo giảm. Nói một cách cụ thể hơn, giảm nghèo là quá trình chuyển
bộ phận dân cư nghèo lên mức sống cao hơn. Ở khía cạnh khác, giảm nghèo là
chuyển từ tình trạng có ít điều kiện lựa chọn sang tình trạng có đầy đủ điều
kiện lựa chọn hơn để cải thiện đời sống mọi mặt của mỗi người. [38, tr.39]
Nói giảm nghèo trong đó luôn bao hàm xoá đói và cũng giống khái
niệm nghèo, khái niệm nghèo cũng chỉ là tương đối. Bởi nghèo đói có thể tái
sinh khi chuẩn nghèo thay đổi, hoặc có sự tác động của thiên tai, lạm phát,
khủng hoảng Vì vậy, việc đánh giá mức độ giảm nghèo cần được xem xét
trong một không gian và thời gian nhất định.

Việt Nam hiện nay do nền kinh tế đang trong quá trình chuyển từ nền
kinh tế lạc hậu sang nền kinh tế hiện đại, vì vậy hiện nay còn tồn tại đan xen
nhiều trình độ sản xuất khác nhau. Trình độ sản xuất cũ lạc hậu vẫn còn, trong
khi trình độ sản xuất mới, tiên tiến lại chưa đóng vai trò chủ đạo. Do đó, trong
các tầng lớp dân cư vẫn còn có sự phân hoá giàu nghèo.
Như vậy, ở góc độ quốc gia XĐGN ở nước ta chính là việc tường
bước thực hiện quá trình chuyển đổi các trình độ sản xuất cũ, lạc hậu còn tồn
tại trong xã hội sang trình độ sản xuất mới, hiện đại hơn. Ở góc độ người
nghèo, giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ người nghèo có khả năng
tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển, trên cơ sở đó họ có nhiều khả năng
lựa chọn hơn để từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo đói.


18
1.1.2. Các nhân tố tác động đến nghèo đói
Có nhiều nhân tố tác động đến nghèo đói và XĐGN khác nhau. Khi
nghiên cứu tác động của các nhân tố đến XĐGN người ta có thể chia thành các
nhóm nhân tố sau:
1.1.2.1. Nhóm nhân tố thuộc điều kiện tự nhiên.
- Vị trí địa lý không thuận lợi: Đó là những nơi xa xôi, hẻo lánh, giao
thông đi lại khó khăn. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ
nghèo đói cao. Bởi những vùng, địa phương có vị trí không thuận lợi dễ bị rơi
vào thế cô lập với bên ngoài, khó tiếp cận với các nguồn lực để phát triển như:
khoa học- công nghệ, tín dụng, thị trường Do đó việc phát triển cơ sở hạ
tầng, nhất là phát triển hệ thống giao thông có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp
XĐGN.
- Đất đai không thuận lợi cho sản xuất: đất canh tác ít, cằn cỗi, khó canh
tác, năng suất cây trồng, vật nuôi đều thấp. Đây là nguyên nhân dẫn đến sản
xuất trong nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với những vùng thuần
nông. Thiếu đất sản xuất sẽ ảnh hưởng đến khả năng đảm bảo lương thực cho

người nghèo và khả năng đa dạng hoá sản xuất để hướng tới những cây trồng
có giá trị kinh tế cao, dẫn đến thu nhập của người nông dân thấp, kéo theo việc
tích luỹ và tái sản xuất mở rộng bị hạn chế hoặc không có. Bởi vậy, người
nghèo lại tiếp tục nghèo, việc tìm kiếm giải pháp XĐGN cũng khó khăn hơn.
- Địa hình khó khăn: địa hình phức tạp, bị chia cắt bởi sông suối và núi
đá, đất dốc Những vùng có địa hình như vậy việc tổ chức sản xuất, kinh
doanh và dịch vụ gặp nhiều khó khăn. Đất bị xói mòn, dễ bị khô hạn, chi phí
sản xuất cao, hiệu quả sản xuất thấp.
- Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, hay gặp thiên tai như: hạn hán, lũ lụt,
mưa bão, sương muối, lũ quét Những vùng có điều kiện tự nhiên khắc
nghiệt, hay xảy ra thiên tai làm cho việc XĐGN thiếu cơ sở bền vững.



19
1.1.2.2. Nhóm nhân tố thuộc về kinh tế.
Ảnh hưởng không thuận lợi của những nhóm nhân tố thuộc về kinh tế
làm gia tăng nghèo đói và khó khăn đối với công tác XĐGN, nhóm nhân tố
này bao gồm: quy mô của nền kinh tế nhỏ bé, cơ cấu kinh tế lạc hậu, thị trường
bị bó hẹp, tốc độ tăng trưởng chậm, thu nhập của dân cư thấp, khả năng huy
động nguồn lực vật chất cho XĐGN khó khăn. Hơn nữa việc ưu tiên nhiều cho
các vùng kinh tế trọng điểm sẽ làm giảm nguồn lực đầu tư cho các vùng nghèo,
kéo theo việc hỗ trợ người nghèo giảm và phân hoá giàu nghèo tăng.
- Quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế là yếu tố quan trọng tạo
điều kiện tiền đề để người nghèo có cơ hội vươn lên nhờ hưởng lợi từ kinh tế
mang lại. Mặt khác nhờ quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà Nhà
nước tăng nguồn thu, tăng tích luỹ tạo sức mạnh vật chất để thực hịên tốt hơn
công tác XĐGN. Vì vậy, quy mô nền kinh tế lớn và tăng trưởng kinh tế cao,
bền vững là điều kiện quan trọng nhất để thực hiện XĐGN. Ngược lại, nếu quy
mô nền kinh tế nhỏ, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm thì khả năng tích luỹ sẽ

gặp khó khăn, nguồn lực dành cho XĐGN sẽ hạn chế. Cùng với lực lượng sản
xuất ở trình độ thấp, cơ cấu kinh tế chậm tiến bộ, sản xuất nông nghiệp là chủ
yếu, trình độ canh tác lạc hậu; cơ cấu sản xuất trong các ngành kinh tế chậm
đổi mới, hàm lượng khoa học - công nghệ trong sản phẩm thấp thì tỷ trọng giá
trị gia tăng của sản phẩm sẽ nhỏ, khả năng cạnh tranh trên thị trường thấp, làm
cho thu nhập của người lao động giảm và khả năng thoát nghèo là thấp.
Thu nhập của dân cư thấp và phân hoá thu nhập lớn là một bất lợi lớn đối
với người nghèo và công tác XĐGN nói chung. Các cuộc điều tra mức sống
dân cư gần đây cho thấy chênh lệch giàu nghèo, thu nhập giữa các nhóm dân
cư ở nước ta hiện nay có xu hướng gia tăng.
- Khả năng huy động nguồn lực vật chất là yếu tố rất quan trọng quyết
định sự thành công khi thực hiện các mục tiêu XĐGN. Để thực hiện các mục
tiêu XĐGN trên diện rộng và đạt được kết quả nhanh thì Nhà nước và bản thân


20
các hộ nghèo đều phải có nguồn lực. Về phía Nhà nước cần có nguồn lực đủ
mạnh để thực hiện các chương trình hỗ trợ như: xây dựng kết cấu hạ tầng thiết
yếu cho xã nghèo, vùng nghèo: hỗ trợ các doanh nghiệp để chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn theo hướng CNH,HĐH, tạo nhiều việc làm cho người lao
động; hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo về đời sống khi gặp rủi ro, thiên tai và hỗ
trợ phát triển sản xuất thông qua các chương trình khuyến nông, đào tạo
Nguồn lực này phụ thuộc vào quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, tỷ
lệ tích luỹ và chính sách chi tiêu của chính phủ, khả năng vay nợ của nước
ngoài
Về phía hộ gia đình, để phấn đấu thoát nghèo, họ cũng cần có nguồn lực
để tự phấn đấu vươn lên thoát nghèo. Nguồn lực của họ có thể là từ các nguồn
hỗ trợ của Nhà nước, của cộng đồng dân cư, vốn vay tín dụng và khả năng tích
luỹ của bản thân. Tuy nhiên khả năng tích luỹ và vay tín dụng đối với người
nghèo là rất khó khăn.

- Thị trường cũng là một nhân tố tác động đến nghèo đối và XĐGN theo
hai khuynh hướng thuận lợi và khó khăn:
Thứ nhất, nếu thị trường phát triển không đầy đủ, nhất là khi thị trường
yếu ớt hoặc không có thị trường. Những hộ gia đình sống trong vùng có điều
kiện này thì gần như họ bị gạt ra khỏi vòng quay của tiến trình phát triển. Điều
đó cũng đồng nghĩa với việc họ khó có thể thoát ra khỏi tình trạng nghèo đói,
vì thế đây là vấn đề nan giải đối với vùng nghèo, hộ nghèo ở các khu vực miền
núi, hẻo lánh.
Thứ hai, nếu thị trường tương đối phát triển, nó sẽ tạo cơ hội cho các
vùng, các cá nhân có điều kiện phát triển và đặc biệt nó còn có ý nghĩa quan
trọng giúp vùng nghèo, hộ nghèo vươn lên. Bởi khi đó họ sẽ tiếp cận đầy đủ
hơn các nguồn lực phát triển trong xã hội. Thực vậy, trong nền kinh tế thị
trường, người ta buộc phải tính toán bằng giá trị cho mọi kết quả lao động và
lợi ích được chú trọng, trước hết là lợi ích cá nhân. Hơn nữa cạnh tranh cũng


21
thường xuyên đặt con người vào thử thách năng lực nghề nghiệp, buộc con
người phải tự khẳng định, phải thường xuyên tự đổi mới và phát triển.
Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có mặt trái của nó, do chạy theo lợi
nhuận vì lợi ích cá nhân, tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, tình trạng nghèo
đói của một bộ phận dân cư không được giải quyết và dẫn đến phân hoá giàu
nghèo ngày càng sâu sắc, dễ xảy ra xung đột giai cấp, xung đột xã hội.
Trong thực tế người nghèo, vùng nghèo là những người luôn bị thua thiệt
trong cạnh tranh về sản xuất kinh doanh. Họ không có điều kiện thuận lợi do
thiếu kết cấu hạ tầng, thiếu vốn, xa trung tâm kinh tế làm giá thành sản phẩm
cao. Mặt khác họ lại thiếu kinh nghiệm làm ăn, trình độ kỹ thuật, tay nghề
thấp, không có sức khoẻ dẫn đến năng suất lao động thấp, và sản phẩm khó
cạnh tranh trên thị trường. Do đó, nguy cơ tụt hậu của họ so với xã hội ngày
càng trầm trọng hơn. Qua đó cho thấy Nhà nước cần có giải pháp hỗ trợ vùng

nghèo, hộ nghèo khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường là một yêu
cầu quan trọng trong sự nghiệp XĐGN.

1.1.2.3. Nhóm nhân tố thuộc về xã hội.
Nhóm nhân tố xã hội tác động đến nghèo đói và hoạt động XĐGN bao
gồm: dân số và lao động, trình độ dân trí, đầu tư cho giáo dục, chăm sóc cho
sức khoẻ, phong tục tập quán, an ninh chính trị, vấn đề cán bộ và tổ chức bộ
máy quản lý, điều hành.
- Về dân số, tình trạng nghèo đói liên quan chặt chẽ với sự gia tăng dân
số và cơ cấu dân cư. Theo điều tra, bình quân nhân khẩu phải nuôi trên một lao
động chính của các hộ nghèo thường cao hơn các hộ giàu. Như vậy, chính
nghèo đói, dân trí thấp dẫn đến sinh đẻ nhiều và đến lượt nó, sinh đẻ nhiều lại
càng làm cho đời sống khó khăn hơn. Do sinh đẻ nhiều, thời gian lao động
giảm kéo theo thu nhập của hộ gia đình cũng giảm theo. Hơn nữa nhân khẩu
trong gia đình tăng nên mức thu nhập bình quân đầu người của hộ tiếp tục

×