Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Phát huy nguồn nhân lực con người tỉnh Nghệ An trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 115 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




ĐẶNG THỊ THU HOÀI





PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
TỈNH NGHỆ AN TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA HIỆN NAY







LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC











HÀ NỘI - 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




ĐẶNG THỊ THU HOÀI




PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
TỈNH NGHỆ AN TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC




Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85




Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. PHẠM CÔNG NHẤT






HÀ NỘI – 2012

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chương 1. NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VÀ SỰ CẦN THIẾT PHÁT HUY VAI
TRÒ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TỈNH NGHỆ AN TRONG QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA HIỆN NAY 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò nguồn lực con người 9
1.1.1. Khái niệm nguồn lực con người 9
1.1.2. Đặc điểm nguồn lực con người 12
1.1.3. Vai trò nguồn lực con người 18
1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự cần thiết phát huy vai trò nguồn
lực con người tỉnh Nghệ An trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa hiện nay 22
1.2.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và những đặc điểm của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nghệ An hiện nay 22
1.2.2. Sự cần thiết phát huy vai trò nguồn lực con người tỉnh Nghệ An
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay 30
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT

HUY VAI TRÒ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TỈNH NGHỆ AN
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
HIỆN NAY 39
2.1.
Khái quát về điều kiện tự nhiên và tình hình phát triển kinh tế - xã hội
ở Nghệ An
39
2.2. Thực trạng phát huy vai trò nguồn lực con người tỉnh Nghệ An trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay 51
2.2.1. Thực trạng những thành tựu và nguyên nhân 51
2.2.2. Thực trạng những hạn chế và nguyên nhân 69
2.2.3. Những vấn đề đặt ra 78
2.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy nguồn lực con người Nghệ An
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay 80
2.3.1. Những quan điểm và định hướng chủ yếu 80

2.3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy nguồn lực con người
Nghệ An trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện
nay 85
KẾT LUẬN 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
PHỤ LỤC 105


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) 46
Bảng 2.2: Dân số, lao động 52
Bảng 2.3: Cơ cấu dân số theo giới tính 53
Bảng 2.4: Cơ cấu dân số phân theo thành thị - nông thôn 54

Bảng 2.5: Dân số trung bình năm 2011 phân theo nhóm tuổi 54
Bảng 2.6: Cơ cấu lao động làm việc trong các ngành kinh tế 55
Bảng 2.7: Số giáo viên và học sinh trung học chuyên nghiệp ở Nghệ An
(2010 - 2011) 60
Bảng 2.8: Số giáo viên, sinh viên đại học và cao đẳng ở Nghệ An (2010 -
2011) 60
Bảng 2.9: Tình hình cán bộ lãnh đạo các cấp tỉnh Nghệ An 62
Bảng 2.10: Thu nhập bình quân theo đầu người, tỉ tệ hộ nghèo năm 2011 65



QUY ƯỚC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
GD - ĐT : Giáo dục - đào tạo
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
KH & CN : Khoa học và công nghệ
Nxb : Nhà xuất bản
THPT : Trung học phổ thông
TTg : Thủ tướng
UBND : Ủy ban nhân dân







1
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong các yếu tố để tạo nên nền sản xuất xã hội thì yếu tố con người
đóng vai trò bậc nhất. Con người là chủ thể sáng tạo ra các giá trị vật chất,
văn hóa và tinh thần xã hội, là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển tiến bộ
xã hội. Con người cũng là sản phẩm kì diệu, là giá trị cao nhất của toàn bộ sự
phát triển thế giới vật chất và tinh thần, đồng thời chịu sự chi phối của các qui
luật tự nhiên và xã hội - con người ở vị trí trung tâm của tiến trình lịch sử.
Chính vì vậy, con người, trong tư duy nhân loại, không chỉ là vấn đề thực tiễn
mà còn là vấn đề cốt lõi của lí luận xã hội và nhân văn, kinh tế và quản lí…
Những thập kỉ gần đây, cùng với việc khoa học - kĩ thuật và công nghệ,
những sản phẩm đã được vật thể hóa của trí tuệ con người, thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, nền kinh tế thế giới. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều
có chương trình mang tính chiến lược về đầu tư và phát triển con người của
riêng mình, hướng theo một nguyên tắc chung là: Đặt con người vị trí trung
tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự thừa nhận vai trò quyết định của
nguồn lực con người trong phát triển kinh tế - xã hội mang ý nghĩa bước
ngoặt của tư duy nhân loại, vừa mở ra một triển vọng mới cho tất cả các nước.
Ở Việt Nam, sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc và dân chủ
nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả nước vững bước tiến lên chủ nghĩa
xã hội với những bước đi quá độ đầu tiên. Tuy nhiên, khác với các quốc gia
trong khu vực và trên thế giới, chúng ta đi lên trong điều kiện đất nước nghèo
nàn lạc hậu, các nguồn tài nguyên thiên nhiên tuy phong phú nhưng chưa thể
được coi là nguồn lực. Trong điều kiện đó, tiềm năng về con người đã và
đang trở thành nhân tố quan trọng hàng đầu, nhất là trong thời kì cả nước
đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Đường
lối đổi mới đất nước bắt đầu từ Đại hội VI, Đảng ta đã nhận thức ngày càng

2
đầy đủ vai trò động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội là con người. Chúng

ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Sau gần 20 năm đổi
mới, chúng ta đã khẳng định sự đúng đắn những quan niệm của Đảng về
chiến lược con người và nhìn nhận con người với tư cách vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong điều kiện gần 70% dân cư là thành phần sản xuất nông nghiệp,
khi đi vào CNH, HĐH ta chưa có chỉ số cao về phát triển con người như
mong muốn. Đặc điểm ở nông thôn vùng núi chỉ số về phát triển con người
còn quá thấp so với thành thị. Mặt khác, sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường đang mang cả những mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực vào quá trình
chuyển biến tâm lí, tư tưởng, đạo đức của con người Việt Nam nói chung và
con người Nghệ An nói riêng. Chính vì vậy, một đòi hỏi tất yếu đang đặt ra
cần phải có những công trình nghiên cứu về nguồn lực con người.
Nghệ An là một tỉnh thuộc khu vực miền Trung, có diện tích lớn nhất
Việt Nam thuộc vùng Bắc Trung Bộ. Những năm đổi mới vừa qua, Nghệ An
đã thu được nhiều thành tựu quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội, đời sống nhân dân trong tỉnh bước đầu đã được cải thiện. Tuy vậy, cho
đến nay Nghệ An vẫn là một tỉnh nghèo, dân số đông, có điểm xuất phát thấp
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân
Nghệ An đã rất quan tâm đến việc phát huy nhân tố con người và nguồn lực
con người. Nhưng thực tế cho thấy, tỉnh Nghệ An chưa có biện pháp hữu hiệu
để phát huy nguồn lực con người một cách có hiệu quả. Chính vì thế, chất
lượng cũng như số lượng nguồn lực con người ở Nghệ An hiện nay về cơ bản
chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh trong
thời gian tới. Vậy, thực trạng nguồn lực con người ở tỉnh Nghệ An như thế
nào? Giải pháp phát huy nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh trong thời gian tới ra sao? Do đó, yêu cầu phát huy

3
nguồn lực con người trong quá trình đổi mới hiện nay càng bức thiết cả về lí
luận và thực tiễn.

Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài "Phát huy nguồn lực con người tỉnh
Nghệ An trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay" làm đề
tài luận văn thạc sĩ Triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Con người luôn là vấn đề trung tâm của triết học và là đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau.
Những thập kỉ gần đây, vấn đề nguồn lực con người và phát huy vai trò
sáng tạo của con người trong sự phát triển xã hội là một trong những đề tài
thu hút sự chú của các nhà lãnh đạo, quản lí, đặc biệt là các nhà lí luận. Đã có
nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề nguồn lực con người từ các góc độ triết
học, xã hội học, tâm lí học, luật học…
Ở Liên Xô cũ, các nhà nghiên cứu lí luận dưới góc độ khác nhau đã tiếp
cận một cách khoa học vấn đề: Vai trò của nguồn lực con người trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò sáng tạo của con người trong sự phát
triển xã hội là một trong những đề tài thu hút sự chú ý của các nhà lãnh đạo,
quản lí, đặc biệt là các nhà lí luận. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn
đề nguồn lực con người từ các góc độ triết học, xã hội học, tâm lí học,luật
học…
Từ những năm 80, ở nước ta khi bắt tay vào sự nghiệp đổi mới, chúng
ta càng nhận ra vai trò đặc biệt của con người trong sự phát triển kinh tế - xã
hội. Do đó, đã có nhiều cuộc hội thảo khoa học, nhiều nhà nghiên cứu, tiêu
biểu có các công trình nghiên cứu sau:
- Nguyễn Trọng Chuẩn, "Nguồn nhân lực con người trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của nước ta đến năm 2000", Tạp chí Triết học (4),
1990. Bài viết này đã khai thác một vài khía cạnh của nguồn lực con người,

4
khẳng định vai trò nguồn lực con người trên phương diện là động lực quan
trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, CNH, HĐH đất nước.
- Phạm Văn Đức, "Một số giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả nguồn

nhân lực con người", Tạp chí Triết học, (6), tháng 6 - 1996. Trong bài này tác
giả nói về vai trò nguồn nhân lực con người và để khai thác có hiệu quả
nguồn nhân lực đó thì phải thực hiện các giải pháp.
- Phạm Minh Hạc, Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. Cuốn sách này đã đề cập
đến đặc điểm, vai trò của nguồn lực con người; khảo sát thực trạng và đề xuất
giải pháp nhằm phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước.
- Đoàn Văn Khái, "Nguồn lực con người - yếu tố quyết định sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước", Tạp chí Triết học, (4), tr.20 - 23. Ở đây tác giả đã luận
chứng một cách có hệ thống vai trò nguồn lực con người với tư cách là nguồn
lực nội tải, cơ bản, quyết định sự nghiệp CNH, HĐH; Đồng thời làm rõ một
số hướng cơ bản nhằm góp phần nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng và phát
huy nguồn lực con người ở nước ta.
- Phạm Công Nhất, Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực
lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.
Cuốn sách này thể hiển vai trò quan trọng của nhân tố con người trong lực
lượng sản xuất; thực trạng và những giải pháp nhằm phát triển lực lượng sản
xuất thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
- Nguyễn Thị Tú Oanh, Phát huy nguồn lực thanh niên trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay. Chuyên ngành
CNXHKH, Hà Nội, 1999. Công trình này đã phân tích vai trò, nhiệm vụ của
thanh niên đối với sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta, và đưa ra những giải
pháp chủ yếu để phát triển nguồn lực thanh niên đáp ứng yêu cầu CNH,
HĐH.

5
Qua các công trình nghiên cứu nêu trên cho thấy: So với các loại
nguồn lực khác thì nguồn lực về con người có vai trò hết sức quan trọng
trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, cần có những giải pháp và

bước đi cho phù hợp. Có thể coi đây là những kết quả nghiên cứu đáng chú ý
về con người và nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên các
công trình nghiên cứu này thường gắn vào giải quyết các nhiệm vụ trong
từng lĩnh vực cụ thể.
Ở Nghệ An đã có một số công trình nghiên cứu:
- Nguyễn Quang Hồng, Thành phố Vinh quá trình hình thành và phát
triển (18 - 04 - 1945), Nxb. Nghệ An, 2001. Tác giả viết về quá trình lịch sử và
sự ra đời của Thành phố Vinh cũng như những bước phát triển của thành phố.
- Lê Bá Hán, Đoàn Minh Duệ, Con người Nghệ An trước yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hóa,hiện đại hóa, Nxb. Nghệ An, 2001. Trong cuốn
sách này chỉ đề cập đến yếu tố con người Nghệ An và vai trò của nó trước sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Văn hóa các dòng họ ở Nghệ An với sự nghiệp thực hiện chiến lược
con người Việt Nam đầu thế kỷ XXI. Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb. Nghệ
An, 1997. Hội thảo đã nêu lên bản sắc văn hóa các dòng họ ở Nghệ An và vai
trò của nó trước chiến lược phát triển con người Việt Nam.
- Sở Kế hoạch và Đầu tư Nghệ An (7/2011), Báo cáo tình hình kinh tế -
xã hội năm 2011 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012. Báo cáo
này đã tập trung đánh giá tình hình kinh tế - xã hội năm 2011 và đề ra kế
hoạch phát triển kinh tế năm 2012 của Nghệ An.
Mặc dù, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề nguồn lực con
người, nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy
đủ vai trò, vị trí của nguồn lực con người tỉnh Nghệ An. Vì vậy, tác giả mạnh
dạn nghiên cứu vấn đề này với mong muốn góp phần lí giải cơ sở lí luận và

6
thực tiễn cho việc phát huy vai trò nguồn lực con người tỉnh Nghệ An trong
quá trình CNH, HĐH hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:

Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu khảo sát và đánh giá
thực trạng nguồn lực con người tỉnh Nghệ An đi đến đề xuất một số giải pháp
nhằm phát huy vai trò nguồn lực con người tỉnh Nghệ An trong quá trình
CNH, HĐH hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích và làm rõ các vấn đề lý luận có liên quan đến nguồn lực con
người và sự cần thiết phải phát huy vai trò nguồn lực con người tỉnh Nghệ An
trong quá trình CNH, HĐH hiện nay.
- Phân tích khảo sát thực trạng phát huy vai trò nguồn lực con người
tỉnh Nghệ An trong quá trình CNH, HĐH hiện nay: Thành tựu, hạn chế,
nguyên nhân và những vấn đề đặt ra.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò nguồn lực con
người tỉnh Nghệ An trong quá trình CNH, HĐH hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan đến việc phát huy vai trò nguồn lực con người tỉnh Nghệ An trong
quá trình CNH, HĐH hiện nay.
* Phạm vi và giới hạn nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu thực trạng nguồn lực con người trong quá trình
CNH, HĐH trên địa bàn Nghệ An (Các số liệu được luận văn sử dụng để
phân tích, khảo sát được giới hạn từ năm 2000 đến nay). Đồng thời, tham
khảo số liệu của các Sở, Ban, Ngành có liên quan.


7
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
- Luận văn đã dựa trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận duy
vật - biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ

Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về nguồn lực con người.
- Luận văn cũng đã kế thừa các công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài.
* Cơ sở thực tiễn:
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở khảo sát thực tiễn tình hình tỉnh
Nghệ An, có kế thừa những thành tựu của các công trình nghiên cứu về nguồn
lực con người.
* Phương pháp nghiên cứu:
- Để thực hiện mục tiêu đề ra, luận văn dựa trên phương pháp luận chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm của
Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về nguồn lực con người.
- Ngoài ra, tác giả sử dụng các phương pháp hệ thống - cấu trúc logic -
lịch sử, kết hợp chặt chẽ với phân tích - tổng hợp, khảo sát, so sánh, hệ thống
hóa, khái quát hóa, điều tra xã hội học… để xử lí các tài liệu lí luận và các
thực tiễn có liên quan nhằm giải quyết các nhiệm vụ đặt ra.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ lịch sử nghiên cứu và những vấn đề về phương pháp
luận nghiên cứu của nguồn lực con người.
- Đánh giá thực trạng phát huy nguồn lực con người tỉnh Nghệ An
trong quá trình CNH, HĐH hiện nay.
- Bước đầu phân tích và đề xuất một số quan điểm và những giải pháp
cơ bản nhằm phát huy vai trò nguồn lực con người tỉnh Nghệ An.

8
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
kết cấu thành 2 chương, 5 tiết:
Chương 1. Nguồn lực con người và sự cần thiết phát huy vai trò nguồn
lực con người tỉnh Nghệ An trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hiện nay.

Chương 2.Thực trạng và những giải pháp phát huy vai trò nguồn lực
con người tỉnh Nghệ An trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện
nay.



9
Chương 1
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VÀ SỰ CẦN THIẾT PHÁT HUY VAI TRÒ
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TỈNH NGHỆ AN TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA HIỆN NAY

1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò nguồn lực con người
1.1.1. Khái niệm nguồn lực con người
Trước khi bàn về khái niệm "nguồn lực con người", cần tìm hiểu khái
niệm "nguồn lực". Có thể nói rằng, cho đến nay chưa tài liệu nào chính thức
định nghĩa khái niệm nguồn lực. Trong nhiều năm trở lại đây, vấn đề nguồn
lực phát triển của một quốc gia dân tộc đang được đặc biệt chú ý nghiên cứu.
Dưới dạng tổng quát, nguồn lực là toàn bộ các yếu tố cả vật chất lẫn tinh thần
đã, đang và sẽ tạo ra sức mạnh cho sự phát triển và trong những điều kiện
thích hợp sẽ thúc đẩy quá trình cải biến xã hội của một quốc gia, dân tộc. Tuy
nhiên, phải quan niệm nguồn lực của phát triển như một hệ thống, mỗi một
nhân tố trong hệ thống đó đều có đặc điểm, vai trò riêng và có mối quan hệ
hữu cơ với các nhân tố khác. Nguồn lực con người nằm ở tâm của hệ thống
này, bởi vì phải thông qua hoạt động của con người mới phát triển xã hội
được, mới có thể biến tiềm năng trở thành hiện thực được. Chính con người
phát hiện ra các nguồn lực, con người tổ chức khai thác các nguồn lực để
phục vụ cho mục đích của mình. Chính con người sử dụng các nguồn lực đó,
để thỏa mãn những nhu cầu, những lợi ích của mình và của xã hội, và cũng
chính con người sẽ phát triển các nguồn lực, sử dụng các nguồn lực như là

phương tiện và công cụ, điều kiện để phát triển xã hội.
Tìm hiểu các nghiên cứu gần đây, chúng tôi thấy quan niệm về nguồn
lực con người khá đa dạng được đề cập đến từ nhiều góc độ khác nhau. Liên
hợp quốc cho rằng: Nguồn lực con người là tất cả những kiến thức, kĩ năng và
năng lực của con người có quan hệ tới sự phát triển của đất nước.

10
Ngân hàng thế giới coi: Nguồn lực con người là toàn bộ vốn người (thể
lực, trí lực, kỹ năng, nghề nghiệp…) mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động
được trong quá trình sản xuất, kinh doanh hay trong một hoạt động nào đó.
Như vậy, nguồn lực con người được xét dưới góc độ chất lượng của
con người và vai trò của con người đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia. Mỗi khi sử dụng nguồn lực đó nó không chỉ góp phần thúc đẩy
nền kinh tế - xã hội phát triển mà thông qua đó nó còn giúp cho con người
ngày càng được hoàn thiện và được khẳng định mình đối với xã hội, đối với
đất nước.
Ở nước ta, các tác giả của chương trình khoa học - công nghệ cấp nhà
nước, mã số KX - 07: "Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội", do GS. TSKH. Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm
cho rằng: "Nguồn nhân lực (nguồn lực con người) được hiểu là số dân và chất
lượng con người bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng
lực và phẩm chất" [26, tr.328].
GS. TS. Hoàng Chí Bảo quan niệm: "Nguồn lực con người là sự kết
hợp thể lực và trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng, hiệu quả hoạt
động và triển vọng mới phát triển của con người" [6, tr.13].
Bàn về vấn đề này, PGS. TS. Đoàn Văn Khái cho rằng: "Nguồn lực con
người là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người
với tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội" [38, tr.62].
Theo tác giả cuốn "Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" do GS. TSKH. Lê Du

Phong chủ biên, thì: "Nguồn lực con người được hiểu là tổng hòa trong thể
thống nhất hữu cơ giữa năng lực xã hội của con người (thể lực, trí lực, nhân
cách) và tính năng động của con người. Tính thống nhất đó được thể hiện ở
quá trình biến nguồn lực con người thành vốn con người" [38, tr.62]. TS. Hồ
Anh Dũng trong một cuốn sách xuất bản năm 2002, cho rằng: "Nguồn nhân

11
lực là nguồn sức mạnh của con người, là sự kết hợp hữu cơ giữa thể lực và trí
lực, đem lại cho con người năng lực sáng tạo và nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới và nhu cầu con người [16, tr.62]. Mặt
khác, tác giả này cũng cho rằng: "Khái niệm nguồn lực con người không mẫu
thuẫn mà thống nhất với khái niệm yếu tố con người trong lực lượng sản xuất.
Hai vấn đề đó chỉ khác nhau ở phạm vi xem xét mà thôi" [16, tr.62].
Dưới góc độ này, TS. Phạm Công Nhất cho rằng: "Nhân tố con người
là tổng thể các yếu tố có liên quan đến con người, là sự thống nhất biện chứng
giữa các mặt chủ quan và khách quan để tạo nên năng lực, phẩm chất và trí
tuệ của con người được hình thành và phát huy tác dụng vào trong thực tiễn,
sản xuất vật chất hay trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi cộng
đồng, quốc gia trong những giai đoạn lịch sử nhất định" [49, tr.25].
Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII cũng khẳng định: "Nguồn lực con người là người lao động có trí tuệ cao,
tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt, được đào tạo, bồi dưỡng, phát huy bởi
nền giáo dục tiên tiến, gắn liền với một nền khoa học, công nghệ hiện đại"
[19, tr.93].
Từ những quan niệm nêu trên, có thể thấy rằng có nhiều cách tiếp cận
khác nhau nên đã xuất hiện những quan niệm khác nhau về nguồn lực con
người. Tuy nhiên, dù khác nhau song giữa các quan niệm cũng có điểm thống
nhất, đó là: Hầu hết các tác giả nói đến yếu tố thể chất và yếu tố tinh thần của
con người, phản ánh thể lực, trí lực và phẩm chất tinh thần khác ở con người.
Nhờ đó tạo ra được sức mạnh với tư cách nguồn lực của sự phát triển xã hội.

Như vậy, sẽ không có một định nghĩa duy nhất về nguồn lực con người mà
tùy vào cách tiếp cận khác nhau về con người và nguồn lực con người mới có
thể đưa ra một định nghĩa phù hợp.
Kế thừa và tiếp thu chọn lọc các quan điểm trên, dưới góc độ từ quan
điểm cá nhân, tác giả luận văn cho rằng: Nguồn lực con người là phạm trù

12
dùng để chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người với tất cả
những tiềm năng và phẩm chất làm nên sức mạnh của nó trong sự phát triển
xã hội.
Thuật ngữ "nguồn lực con người" được hiểu khá rộng. Cùng với thuật
ngữ này còn có một số thuật ngữ tương đồng khác cũng được sử dụng rất phổ
biến như: "nguồn nhân lực", "nhân tố con người", "tài nguyên con người".
Những thuật ngữ trên xuất phát từ thuật ngữ tiếng Anh: Human Resources và
được dịch ra với từ ngữ khác nhau, song giống nhau về bản chất. Theo
Human Resources thì: "Nguồn nhân lực là chỉ những người đang và sẽ bổ
sung vào lực lượng lao động xã hội đa dạng và phong phú, bao gồm các thế
hệ đang học tập văn hóa và nghề nghiệp để tham gia vào lao động xã hội".
Tìm hiểu khái niệm "nguồn lực con người" cái chính là hiểu đúng nội
hàm khái niệm nguồn lực con người để trên cơ sở đó định hướng đúng đắn
cho việc duy trì, phát triển, khai thác và sử dụng nguồn lực con người, phát
huy tốt tiềm năng con người. Qua đó, khai thác có hiệu quả các nguồn lực
khác vì mục tiêu phát triển.
1.1.2. Đặc điểm nguồn lực con người
Khái niệm nguồn lực con người có một phạm vi bao quát. Theo đó,
nguồn lực con người không chỉ thuần túy là lực lượng lao động mà còn là
toàn bộ tiềm năng về con người của mỗi quốc gia hay cộng đồng nhằm thúc
đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Với ý nghĩa đó, nguồn lực con người
mang nội dung rộng lớn, bao gồm các đặc điểm sau:
Thứ nhất, nguồn lực con người được biểu hiện ra trước hết là người lao

động, là lực lượng lao động (số người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao
động), là nguồn lao động (đội ngũ lao động hiện có và sẽ có trong tương lai).
Số lượng nguồn nhân lực là một khái niệm số lượng, một bộ phận dân cư đã
và đang tham gia vào lực lượng lao động của mỗi quốc gia hay cộng đồng. Số
lượng nguồn nhân lực thể hiện ở quy mô lực lượng lao động, về cơ cấu và độ

13
tuổi lao động. Ngoài ra, số lượng nguồn nhân lực còn thể hiện ở tỷ lệ giới
trong lực lượng lao động, tỷ lệ phân bố lao động giữa các vùng miền kinh tế,
lãnh thổ của quốc gia hay cộng đồng. Với quy mô dân số ngày càng đông, do
đó lực lượng lao động ở Việt Nam tăng nhanh sau mỗi năm. Tổng số lực
lượng lao động ở nước ta hiện nay khoảng 51.398,4 nghìn người (2011). Việt
Nam có một nguồn nhân lực trẻ khá dồi dào và là tiền đề thuận lợi cho quá
trình CNH, HĐH hiện nay. Tuy nhiên, do việc phân bố lao động giữa các
ngành, vùng kinh tế và cộng đồng còn bất hợp lý nên lợi thế này hiện nay
chưa được phát huy có hiệu quả. Chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa quan
trọng đến việc phát huy nguồn lực con người của quốc gia hay cộng đồng.
Giữa số lượng và chất lượng nguồn nhân lực có mối quan hệ tác động qua lại
với nhau. Nghĩa là, sức mạnh nguồn nhân lực chỉ có thể phát huy có hiệu quả
nếu nó được hình thành và phát triển trên một quy mô hợp lý cùng với một
chất lượng phù hợp với số lượng đã có. Từ khía cạnh này có thể hiểu rằng,
khai thác, sử dụng có hiệu quả, nguồn lực con người trước hết là tạo việc làm
và khai thác hợp lý lao động. Đồng thời, khái niệm nguồn lực con người cũng
phản ánh quy mô dân số thông qua số lượng dân cư và tốc độ tăng dân số của
một nước trong một thời kì nhất định.
Thứ hai, khái niệm nguồn lực con người phản ánh khía cạnh cơ cấu dân
cư và cơ cấu lao động trong các ngành, các vùng, cơ cấu lao động đã qua đào
tạo trong các lĩnh vực và khu vực kinh tế, cơ cấu trình độ lao động, cơ cấu độ
tuổi trong lực lượng lao động… Xét theo nghĩa rộng, nguồn lực con người
chính là toàn bộ tiềm năng về dân cư của cộng đồng hay quốc gia đó. Tiềm

năng dân cư được hiểu trước hết là quy mô về dân số, về cơ cấu độ tuổi, sự
tiếp nối giữa các thế hệ dân cư, tỉ lệ về giới tính, về sự phân bố dân cư giữa
các vùng miền kinh tế và lãnh thổ. Đây là tiền đề quan trọng trong quá trình
phát triển cúa mỗi quốc gia hay cộng đồng. Thông thường, một quốc gia hay
cộng đồng đang trong quá trình phát triển nếu có một quy mô dân số đông

14
vừa đủ sẽ là một thuận lợi và ngược lại thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Chẳng
hạn, với quy mô 87,84 triệu dân hiện nay (2011) cùng với một cơ cấu dân số
trẻ hàng năm có thể cung cấp từ 1 - 1,2 triệu lao động là một thuận lợi rất lớn
đối với nước ta đang trong quá trình CNH, HĐH hiện nay.
Thứ ba, nguồn lực con người chủ yếu phản ảnh phương diện chất lượng
dân số, đặc biệt là chất lượng của lực lượng lao động trong hiện tại và trong
tương lai gần. Đó là: Sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần, mức sống tuổi
thọ, trình độ giáo dục và đào tạo, về văn hóa và chuyên môn nghề nghiệp,
trình độ học vấn, năng lực sáng tạo, khả năng thích nghi… Trong đó, trí lực,
thể lực và đạo đức là những yếu tố quan trọng nhất, quyết định chất lượng và
sức mạnh nguồn lực con người. Nghĩa là, nói đến nguồn lực con người là phải
nói đến chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và
trí tuệ, năng lực và phẩm chất…
Thứ tư, khái niệm nguồn lực con người còn hàm chứa cả sự liên hệ, tác
động lẫn nhau giữa các yếu tố nội tại cấu thành nó cũng như sự ảnh hưởng tác
động qua lại giữa nguồn lực con người với môi trường tự nhiên và môi trường
xã hội, giữa nguồn lực con người với các nguồn lực khác. Nếu như các nguồn
lực khác khi sử dụng, khai thác không những không được tái tạo mà ngày
càng cạn kiệt. Trái lại, nguồn lực con người mà bộ phận cốt lõi là trí tuệ, lại
có tiềm năng vô tận càng khai thác, sử dụng càng tạo ra giá trị cao hơn.
Nguồn sức mạnh to lớn đó ngoài việc biểu hiện ở khía cạnh thể lực còn được
thể hiện ra ở trí lực, niềm tin, ý chí. Đồng thời, nó còn nói lên sự biến đổi về
số lượng, chất lượng, cơ cấu dân cư và lực lượng lao động.

Thứ năm, nguồn lực con người còn chỉ ra rằng: Con người được xem
xét với tư cách là một nguồn lực, nguồn lực nội tại, cơ bản trong hệ thống các
nguồn lực của sự phát triển xã hội. Sức mạnh của nguồn lực con người thể
hiện ở sức mạnh của thể lực, trí lực, niềm tin, ý chí… Ở sự thống nhất biện
chứng giữa sức mạnh vất chất và sức mạnh tinh thần của mỗi cá nhân và của

15
cả cộng đồng, không chỉ trong hiện tại mà còn ở dạng tiềm năng. Là một
nguồn lực, cũng như các nguồn lực khác (tài nguyên thiên nhiên, vốn, công
nghệ…) con người tạo ra sức mạnh và tham gia vào quá trình thúc đẩy sự
phát triển của một quốc gia, dân tộc. Song, so với các dạng nguồn lực khác,
nguồn lực con người là một dạng nguồn lực đặc biệt, có nó các nguồn lực
khác mới phát huy được tác dụng và có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển
xã hội. Tính đặc biệt thể hiện: Đây là dạng nguồn lực có sức mạnh tự thân.
Sức mạnh tự thân có được là nhờ sự kết hợp giữa các yếu tố khách quan và
nhân tố chủ quan của mỗi người để tạo nên sức mạnh của cộng đồng. Quá
trình sử dụng nguồn lực không bao giờ cạn kiệt vì nó có khả năng tự phục hồi,
khả năng tự tái sinh. Đây cũng là dạng nguồn lực có ý thức, có khả năng trí
tuệ, do đó những giá trị mà nó đem lại là vô cùng to lớn nếu biết phát huy hợp
lý. Mặt khác, đây cũng là dạng nguồn lực mở, sự dồi dào hay cạn kiệt về
nguồn lực phụ thuộc rất nhiều vào năng lực chủ quan, khă năng phát huy và
sử dụng của các tổ chức hay cá nhân đối với nguồn lực.
Qua đây có thể nói rằng, nguồn lực con người có cấu trúc đặc biệt. Nó
được xem xét đến với tư cách vừa là khách thể đồng thời cũng là chủ thể của
quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Cấu trúc nguồn lực con người
Việc xác cấu trúc nguồn lực con người là quá trình xem xét từng bộ
phận cấu thành nguồn lực con người theo một hệ thống chính thể. Từ đó phát
hiện ra cơ cấu và mối quan hệ giữa chúng tạo thành hệ thống cấu trúc của
nguồn lực con người. Nói đến nguồn lực con người là nói đến số lượng và

chất lượng con người, là sự kết hợp giữa trí lực, thể lực, đạo đức và những
năng lực, phẩm chất khác của con người như ý chí, tình cảm… Mỗi yếu tố có
vị trí, vai trò nhất định trong cấu trúc nguồn lực con người song giữa chúng
có mối quan hệ gắn bó, tác động qua lại với nhau tạo nên sự phát triển toàn
diện của nguồn lực con người.

16
Trước hết, nguồn lực con người được xem xét ở mặt số lượng. Số
lượng nguồn lực con người là lực lượng lao động và khả năng cung cấp sức
lao động cho xã hội. Các chỉ số về số lượng nguồn lực con người của một
quốc gia, một địa phương được xác định trên quy mô dân số, thông qua số
lượng dân cư, tốc độ tăng dân số, cơ cấu dân cư, cơ cấu lao động trong các
ngành, các lĩnh vực kinh tế… Trong đó, số dân trong độ tuổi lao động là chỉ
số phản ánh một cách rõ nhất về số lượng nguồn lực con người. Số lượng
nguồn lực con người đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội. Nếu số lượng không tương xứng với tốc độ phát triển (hoặc thừa hoặc
thiếu) đều tác động xấu tới sự phát triển kinh tế - xã hội. Yếu tố quan trọng
nhất trong nguồn lực con người của một quốc gia được thể hiện ở chất lượng
của nó.
Về mặt chất lượng, đây là yếu tố quan trọng nhất trong nguồn lực con
người của một quốc gia, một địa phương. Trước đây, có lúc chúng ta hiểu
nguồn lực con người có phần đơn giản, thường cho rằng: Có nguồn lao động
dồi dào, người lao động cần cù, chịu khó, thông minh và sáng tạo là có thể tạo
ra nhiều của cải vật chất, tăng năng suất lao động xã hội. Từ thực tiễn xây
dựng đất nước ở Việt Nam, cũng như sự phát triển nhanh chóng của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại cho thấy, sự dồi dào nguồn lao
động và sự cần cù của con người là yếu tố quan trọng nhưng chưa thể tạo nên
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong thời kì
CNH, HĐH. Vì vậy, hiểu một cách đúng đắn và toàn diện về nguồn lực con
người, không chỉ nói đến mặt số lượng mà chủ yếu là nhấn mạnh mặt chất

lượng của nó. Đây mới là yếu tố quyết định, nói lên sức mạnh và tiềm năng to
lớn của nguồn lực con người trong phát triển. Chất lượng nguồn lực con
người là một khái niệm tổng hợp bao gồm những yếu tố về thể lực, trí lực,
trình độ học vấn, chuyên môn kĩ thuật, năng lực, phẩm chất, đạo đức… của
người lao động. Trong đó, các yếu tố trình độ học vấn, chuyên môn kĩ thuật,

17
phẩm chất, đạo đức là quan trọng nhất, nó phản ánh mức độ trưởng thành của
con người. Mặt khác, nguồn lực trí tuệ được xem là bộ phận sáng giá nhất
trong các yếu tố làm nên chất lượng nguồn lực con người. Bởi xét ở cả
phương diện cá thể cũng như ở xã hội, trí tuệ đóng vai trò trung tâm chỉ đạo
mọi hành vi và quyết định phần lớn khả năng sáng tạo của con người trong
quá trình hoạt động thực tiễn cũng như trong việc lựa chọn phương pháp, giải
pháp thích hợp nhằm phát huy tác dụng của các yếu tố khác trong cấu trúc
nguồn lực con người.
Cuộc cách mạng KH & CN hiện nay đang đặt ra những yêu cầu rất cao
ở trí tuệ của con người - những người lao động. Họ không chỉ có khă năng
tiếp thu tri thức mới vận dụng có hiệu quả vào sản xuất, mà còn phải biết
thường xuyên tự bổ sung, bồi dưỡng tri thức để không bị lạc hậu trước sự phát
triển như vũ bão của cuộc cách mạng KH & CN.
Vì vậy, nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH phải bao
gồm những người lao động có sự phát triển cao về năng lực trí tuệ, đủ sức làm
chủ và tiếp thu công nghệ mới; có khả năng làm việc chủ động sáng tạo, có
khả năng sử dụng các công cụ, phương tiện tiên tiến hiện đại. Ngoài ra, sức
khỏe (thể lực) cũng là yếu tố hết sức cần thiết trong chất lượng nguồn lực con
người. Sức khỏe là sự phát triển hài hòa của con người cả về thể chất lẫn tinh
thần. Không chỉ có thế, mà yếu tố nhân cách cũng góp phần quan trọng tạo ra
chất lượng toàn diện của nguồn lực con người. Xét ở phương diện cá thể
trong cấu trúc nhân cách thì đạo đức và năng lực (đức và tài) là hai thành tố
cốt yếu tạo nên nhân cách một con người.

Việc xem xét cấu trúc nguồn lực con người một cách toàn diện gồm trí
lực, thể lực và nhân cách đã đặt ra yêu cầu đối với việc sử dụng nguồn lực con
người.

18
1.1.3. Vai trò nguồn lực con người
Vai trò nguồn lực con người
Con người không chỉ là sản phẩm của tự nhiên mà còn là chủ thể cải
biến tích cực tự nhiên và xã hội. Đồng thời, con người là điểm khởi đầu và
điểm kết thúc của mọi quá trình lịch sử. Mặt khác, con người cũng là yếu tố
quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất, là lực lượng sản xuất quyết định
nhất của xã hội.
Như mọi hoạt động sáng tạo khác, lao động trí tuệ với tư cách là một
yếu tố cấu thành của nguồn lực con người muốn được phát huy cũng cần có
môi trường xã hội thích hợp. Cả môi trường tự nhiên lẫn môi trường xã hội
đều có tác động lớn đến việc phát huy tính năng động của con người. Nó có
khả năng tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây trở ngại khó khăn cho nguồn lực
con người. Mặt khác, có thể khẳng định sự tồn tại con người với tư cách là
một nguồn lực đóng vai trò quyết định các quá trình lịch sử, kinh tế - xã hội.
Vai trò này không chỉ đúng trong các xã hội trước đây mà còn đúng ngay cả
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và cộng sản chủ nghĩa.
Để đánh giá hết được vai trò của nguồn lực con người thì chúng ta cần
đặt nó trong mối quan hệ với các nguồn lực khác.
Sự tồn tại bền vững và phát triển theo con đường tiến bộ của bất cứ
quốc gia nào bao giờ cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Vị trí địa lý, tài
nguyên thiên nhiên, nguồn vốn đã được tích lũy trong nước và nguồn vốn
tranh thủ từ nước ngoài, khả năng làm chủ và sử dụng có hiệu quả các thành
tựu của khoa học công nghệ… Tuy nhiên, các nhân tố đó chỉ tồn tại dưới
dạng tiềm năng chứ không phải là những nhân tố có tính tự thân để tạo ra các
giá trị. Giá trị của chúng chỉ thực sự bộc lộ khi có bàn tay tác động của con

người. Bởi con người không chỉ tồn tại với tư cách là chủ thể của các mục
tiêu phát triển, quá trình phát triển. Các vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên là

19
những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của đất nước. Nhưng
thực tế cho thấy, chúng phụ thuộc vào khả năng khai thác của con người.
Sở dĩ nguồn lực con người đóng vai trò quyết định đến các quá trình
phát triển kinh tế và xã hội, trước hết là do năng lực sáng tạo trí tuệ của bản
thân con người và cộng đồng người theo chiều hướng tiến bộ của lịch sử. Do
đó, nguồn lực con người phải được nhìn nhận trong môi trường của nền văn
minh và phát triển mạnh mẽ trong điều kiện chịu ảnh hưởng của một hệ tư
tưởng tiên tiến và của một trình độ phát triển KH & CN hiện đại. Trong đó,
những kiến thức thuộc về chân lý khoa học không tách rời với các chuẩn mực,
đạo đức và nhân văn.
Thực tế, ở những thế kỷ trước đây, sức mạnh cải tạo tự nhiên của con
người chủ yếu thể hiện thông qua lao động bằng chân tay thì ngày nay sức
mạnh đó đang có xu hướng tiến tới bằng khă năng lao động trí tuệ. Mặt khác,
KH & CN đang dần dần trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp" như dự báo
của C.Mác trước đây và đang trở thành hiện thực trong thời đại ngày nay thì
tiềm năng về lao động, sáng tạo ra các giá trị của cải vất chất và tinh thần lại
càng trở nên vô tận.
Nguồn lực con người không chỉ cần được nhìn nhận về mặt tự nhiên mà
còn được nhìn nhận về mặt xã hội. Để con người sống tự do, hạnh phúc, có
điều kiện thuận lợi nhất hoạt động sáng tạo thì tính năng động của nhân tố con
người trong bản thân nguồn lực cũng được khơi dậy và thể hiện ở mức độ tối
đa. Ngược lại, nếu quên đi yếu tố xã hội cũng sẽ là nhân tố tác động tiêu cực và
kìm hãm khả năng hoạt động sáng tạo của con người và nguồn lực con người.
Nguồn lực con người - yếu tố quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Để thấy rõ được vai trò quyết định của nguồn lực con người trong quá

trình CNH, HĐH thì cần đặt nó trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác.
Qua đó, thấy được mức độ chi phối đến sự thành bại của CNH, HĐH. Đồng

×