Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

Nâng cao chất lượng xây dựng gia đình văn hóa ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 134 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





NGUYỄN CÔNG ĐỨC






NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH
VĂN HÓA Ở TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY






LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC











HÀ NỘI - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-




NGUYỄN CÔNG ĐỨC





NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH
VĂN HÓA Ở TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY



Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN SƠN






HÀ NỘI - 2011
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY DỰNG GIA
ĐÌNH VĂN HOÁ 7
1.1. Gia đình là gì? 7
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về gia đình và vai trò của gia
đình đối với sự phát triển của xã hội 11
1.3. Tư tưởng của Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về gia đình và
xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam 19
1.3.1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về gia đình và xây dựng gia đình
văn hoá 19
1.3.2. Quan niệm của Đảng ta về gia đình và gia đình văn hoá 26
1.4. Tiêu chí của gia đình văn hóa ở nước ta hiện nay 33
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG XÂY
DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY 47
2.1.
Khái quát tình hình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên hiện
nay
47
2.1.1. Khái quát về đặc điểm địa, lý tự nhiên 47

2.1.2. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh 50
2.2. Thực trạng việc xây dựng gia đình văn hóa ở tỉnh Thái Nguyên hiện
nay 54
2.2.1. Thực trạng của công tác xoá đói giảm nghèo và phát triển kinh
tế hộ gia đình 55
2.2.2. Thực trạng của công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình và thực
hiện nếp sống mới 61
2.2.3. Những kết quả đạt được và hạn chế của cuộc vận động xây
dựng gia đình văn hoá 72
2.2.4. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế của công tác xây
dựng gia đình văn hoá ở tỉnh Thái Nguyên 78
2.3. Phương hướng và giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng xây dựng gia
đình văn hóa của tỉnh Thái Nguyên hiện nay 80
2.3.1. Phương hướng cơ bản nâng cao chất lượng xây dựng gia đình
văn hoá ở Thái Nguyên hiện nay 80
2.3.2. Những nhóm giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng xây
dựng gia đình văn hoá 86
2.4. Một số kiến nghị 99
KẾT LUẬN 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 106
PHỤ LỤC 111
1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình có hạnh phúc, yên ấm thì xã hội
mới yên ổn và phát triển được. Từ xa xưa, cha ông ta đã rất coi trọng việc vun
đắp hạnh phúc gia đình và gìn giữ truyền thống gia đình. Trong thời đại ngày
nay, mặc dù cuộc sống có nhiều thay đổi, những gia đình có ba, bốn thế hệ

cùng chung sống ít dần đi, nhưng những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền
thống Việt Nam vẫn được trân trọng và trao truyền cho các thế hệ tiếp nối.
Ngay trong học thuyết lý luận của mình, chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đã đi
sâu nghiên cứu toàn diện về gia đình trong lịch sử, đã chỉ rõ vai trò của gia đình,
sự biến đổi và phát triển của gia đình trong đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
và qua đó đề ra những định hướng cơ bản nhằm xây dựng gia đình trong tiến
trình cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đây là một trong những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa xã hội (CNXH) khoa học, nó có ý nghĩa lý luận to lớn
nhằm đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết của sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Đối với Việt Nam, Đảng ta đã xác định rõ vị trí, vai trò của xây dựng
gia đình văn hoá đối với sự phát triển của xã hội. Chỉ thị số 49-CT/TW ngày
21/2/2005 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn
mạnh tới vai trò của gia đình, những khó khăn và thách thức đối với sự nghiệp
công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng một lần nữa nhấn mạnh: “Phát huy
những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với
những đòi hỏi của quá trình CNH, HĐH. Xây dựng gia đình ấm no, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh
của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân
cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo mọi
nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
2

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Gia đình tốt thì xã
hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn. Hạt nhân của xã hội là gia
đình”. Những lời dạy của Bác đến nay vẫn có tính thời sự, khẳng định giá trị
hết sức to lớn của gia đình, cũng như trách nhiệm của mỗi người trong việc
xây dựng gia đình thực sự là tổ ấm hạnh phúc, đồng thời xây dựng một hình
ảnh đẹp về con người và đất nước Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Trong đời sống xã hội của chúng ta, vấn đề xây dựng gia đình văn hoá

đã được Đảng và Nhà nước ta coi đây là một trong những chủ trương lớn,
được nhiều địa phương hưởng ứng, thực hiện, đã trở thành phong trào rộng
khắp trên cả nước, tuy nhiên trong quá trình thực hiện đã nảy sinh nhiều vấn
đề đòi hỏi các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học phải nghiên cứu, tổng kết và
đánh giá cụ thể tại từng vùng, từng địa phương, thành phần dân tộc… qua đó
phát hiện, nhân rộng những hộ gia đình văn hoá, những điển hình tiên tiến;
phổ biến cách làm hay, giải quyết những điểm chưa phù hợp để qua đó có giải
pháp nâng cao chất lượng xây dựng gia đình văn hoá.
Tuy nhiên, do sự phát triển của xã hội, do ảnh hưởng tiêu cực của mặt
trái cơ chế thị trường, nhiều giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống Việt
Nam cũng bị ảnh hưởng như tình trạng ly hôn, hiện tượng xao nhãng việc dạy
dỗ con cái, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình còn “lỏng lẻo” và nhất
là còn tình trạng bạo lực trong gia đình… đã làm mất đi những giá trị, chuẩn
mực của gia đình trước đây, đây là những hiện tượng chúng ta cần kiên quyết
loại trừ.
Thái Nguyên là một tỉnh trung du miền núi phía Bắc có nhiều đồng bào
dân tộc sinh sống, có nền văn hoá truyền thống đặc trưng của mỗi tộc người.
Sự phát triển của văn hoá gia đình là nét độc đáo, đặc trưng cho nơi đây, là
yếu tố gắn kết mọi người, tạo sự phát triển bền vững của cộng đồng. Tuy
nhiên việc xây dựng đời sống văn hóa của các gia đình ở nhiều nơi còn bất
cập; bên cạnh những mặt tích cực thì còn xuất hiện tư tưởng gia trưởng, lạc
hậu, trọng nam khinh nữ, tình trạng bạo lực và ly hôn trong gia đình, nhất là
trong đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn diễn ra… Chính vì thế, xây dựng gia
3

đình văn hóa hiện nay là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong
công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, nhằm phát huy tốt các giá trị của
gia đình; là động lực quan trọng quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh, góp phần tích cực xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh vì mục
tiêu dân giàu nước mạnh. Do đó tác giả đã chọn hướng nghiên cứu đề tài:

“Nâng cao chất lượng xây dựng gia đình văn hóa ở Tỉnh Thái Nguyên hiện
nay” làm luận văn Thạc sỹ cho mình. Hy vọng những kết quả nghiên cứu sẽ
góp phần nâng cao nhận thức và năng lực hoạt động thực tiễn của bản than, có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn trong việc nâng cao chất lượng đời sống xã
hội của người dân ở Tỉnh Thái Nguyên nói riêng và cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu
Nói đến vấn đề gia đình, từ trước đây ngay trong lý luận của mình
trong tác phẩm: “Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và Nhà nước”
của Ph.Ăngghen toàn tập, tập 21, nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội năm
1995 đã đề cập đến một số vấn đề liên quan đến gia đình như: các hình thức
gia đình, tình yêu, hôn nhân…
Ở nước ta, ngay từ những ngày đầu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam rất quan tâm đến các vấn đề gia đình và xây
dựng gia đình mới - gia đình văn hóa. Gần đây nó càng được nhấn mạnh trong
các Nghị quyết Trung ương và trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX, X và XI.
Có thể nói việc xây dựng, nâng cao chất lượng gia đình văn hóa là vấn
đề của mọi dân tộc và thời đại, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt quan trong vài
năm trở lại đây, vấn đề gia đình nổi lên như một tiêu điểm trọng yếu được rất
nhiều các nhà nghiên cứu, các nhà xã hội đi sâu tìm hiểu, quan tâm dưới nhiều
góc độ khác nhau. Có thể thấy rõ điều đó qua rất nhiều công trình nghiên cứu
khoa học, các cuốn sách, bài viết như:
- “Từ điển văn hóa” của Phạm Trường Khang, Hoàng Lê Minh đã giải
thích rõ về văn hóa gia đình qua các cách tiếp cận khác nhau và vấn đề liên quan.
4

- “Văn hóa gia đình Việt Nam” của GS. Vũ Ngọc Khánh đã cho thấy
được đặc trưng của gia đình văn hóa Việt Nam từ xưa đến nay và nêu ra được
thực trạng của vấn đề gia đình ở Việt Nam.
- “Một số vấn đề về gia đình và gia đình Việt Nam hiện nay” của TS.

Phạm Công Nhất đã đưa ra quan niệm rõ ràng, đầy đủ về gia đình và gia đình
Việt Nam hiện nay; khẳng định vị trí, vai trò của gia đình đối với sự phát triển
xã hội.
- “Cuộc sống và biến động của hôn nhân, gia đình Việt Nam hiện nay”
của GS. Lê Thi đã cho thấy sự biến đổi, vận động của hôn nhân gia đình trong
xã hội hiện nay.
- “Văn hóa gia đình với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ em”
của Lê Như Hoa đã nghiên cứu về vai trò và tác động của văn hóa gia đình tới sự
hình thành và phát triển nhân cách trẻ em, những ảnh hưởng của nó với xã hội.
- “Gia đình trong giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên” của TS.
Nguyên Linh thì bàn về vai trò của gia đình đối với việc giáo dục sức khỏe
sinh sản vị thành niên.
- “Gia đình, trẻ em và sự kế thừa các giá trị truyền thống” của PGS, TS.
Đặng Cảnh Khanh đã nêu ra vai trò của gia đình văn hóa qua việc bảo tồn và
phát huy các giá trị truyền thống dân tộc.
- “Danh hiệu “Gia đình văn hoá” - giá trị tích hợp của văn hoá gia đình
Việt Nam ngay nay của Vũ Thị Huệ đã đánh giá, nêu ra tiêu trí xây dựng gia
đình văn hoá hiện nay.
Ngoài ra trên các tạp chí, các báo trong những năm vừa qua cũng đã
thường xuyên đề cập về vấn đề gia đình văn hóa của các nhà nghiên cứu về các
vấn đề liên quan đến gia đình như: “Gia đình Việt Nam hiện nay: truyền thống
hay hiện đại?” của TS. Nguyễn Thị Thường, Tạp chí Lý luận chính trị số
253/1999; “Tư tưởng Nho giáo về gia đình và việc xây dựng gia đình mới ở
Việt Nam hiện nay” của Minh Anh, Tạp chí Triết học; “Văn hóa gia đình và
xây dựng gia đình văn hóa trong thời kỳ hội nhập” của ThS Trần Thị Tuyết
5

Mai, Tạp chí Cộng sản 09/2008; “Gia đình là tế bào của xã hội” của Quỳnh
Nga, Tạp chí Tuyên giáo 05/2009; “Phân tầng xã hội ở nước ta qua điều tra
mức sống hộ gia đình” của TS. Lê Văn Toàn, Tạp chí Cộng sản 08/2008; “Vận

dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác xây dựng gia đình văn hóa” của
Phan Văn Phờ - Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh Quảng Nam, Tạp chí Tuyên giáo
05/2009; “Hôn nhân xuyên quốc gia và vấn đề giáo dục gia đình văn hóa” của
Th.S Đinh Văn Quảng trên 02/2007… Đây là những
nguồn tài liệu quý giá để tác giả nghiên cứu tham khảo và kế thừa những nội
dung hợp lý nhằm triển khai có hiệu quả đề tài nghiên cứu của mình.
Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào về
vấn đề nâng cao chất lượng xây dựng gia đình văn hóa ở tỉnh Thái Nguyên.
Bởi vậy, tác giả chọn đề tài này hướng nghiên cứu của mình. Luận văn có
nhiệm vụ kế thừa và tiếp thu có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên
cứu trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và đánh giá đúng thực trạng
xây dựng gia đình văn hóa của Tỉnh Thái Nguyên, luận văn đề xuất những
phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng gia đình văn hóa
của Tỉnh.
3.2. Nhiệm vụ
Một là: Trình bày một số lý luận chung về vấn đề gia đình và gia đình
văn hóa hiện nay.
Hai là: Làm rõ thực trạng đời sống của các hộ gia đình, tình hình xây
dựng gia đình văn hóa mới ở Tỉnh Thái Nguyên để thấy được những mặt tích
cực, làm được, mặt hạn chế, yếu kém.
Ba là: Bước đầu có những đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng xây dựng gia đình văn hóa ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
6

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung làm rõ vấn đề về nâng cao chất lượng xây dựng gia

đình văn hóa của tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Vì yêu cầu và điều kiện của đề tài luận văn nên tác giả đã tiến hành
khảo sát thực tế việc xây dựng gia đình văn hóa tại một số huyện, thành phố,
thị xã của tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà
nước về vấn đề gia đình. Đồng thời kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên
cứu của các nhà khoa học, các nhà xã hội về vấn đề gia đình văn hóa.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, luận văn lựa chọn và sử dụng các phương pháp thu
thập và xử lý thông tin, phân tích tài liệu, tư liệu, phương pháp tổng hợp -
thống kê, điều tra xã hội học, khảo sát thực tế… để tiếp cận, giải quyết những
vấn đề đặt ra của đề tài luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
Đề tài nghiên cứu thành công sẽ giúp cho các cơ quan ban, ngành của tỉnh
Thái Nguyên định hướng chính sách, biện pháp nâng cao chất lượng xây dựng
gia đình văn hóa. Đồng thời cũng làm tài liệu tham khảo nhằm phục vụ nâng cao
chất lượng giảng dạy, nhất là cho các trường trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm có 2 chương, 8 tiết:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng gia đình văn hóa.
Chƣơng 2: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng gia
đình văn hóa ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
7

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

CỦA VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HOÁ

1.1. Gia đình là gì?
Gia đình - hai tiếng thân thương đó đã in sâu vào trái tim mỗi người từ
khi ta còn tấm bé. Đó chính là nơi mỗi người được sinh ra và lớn lên, có tác
động to lớn đến sự hình thành nhân cách của cá nhân cũng như sự phát triển
của xã hội.
Vấn đề gia đình từ lâu đã được nhiều nhà tư tưởng, nhà hoạt động thực
tiễn và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Dưới góc độ ngôn ngữ, khi bàn về vấn đề gia đình theo phương pháp
triết tự từ, nhà khoa học Hoàng Tiến đã chỉ ra:
“Chiết tự chữ Gia theo nghĩa Hán gồm bộ Miên, mang ý nghĩa mái lợp
trùm nhà ngoài nối nhà trong. Dưới có chữ Thỉ, nghĩa là lợn. Chữ Gia mang
ngữ nghĩa nhà ở, chắc chắn phải xuất hiện từ thời loài người đã biết chăn nuôi.
Chiết tự chữ Đình, gồm bộ Nghiễm tức mái nhà (cũng đọc là Yêm), dưới
là Đình với ý nghĩa là nơi phát chính lệnh cho cả nước theo (như triều đình).
Vậy thì, nghĩa xa xưa của gia đình hẳn là một đơn vị kinh tế nhỏ, chung
sống dưới mái nhà trong cộng đồng xã hội” [55, tr.113]. Định nghĩa này đã
khái quát được một số dấu hiệu đặc trưng của gia đình (chung sống cùng mái
nhà, là đơn vị kinh tế). Nhưng chưa khái quát được cơ sở hình thành gia đình
cùng một số chức năng quan trọng khác của gia đình.
Theo Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên đã định nghĩa: “Gia đình là
một đơn vị xã hội, thành lập trên cơ sở dòng máu, bắt nguồn từ thời đại thị tộc
mẫu hệ, trong thời đại phong kiến thường có cha mẹ, con cháu, có khi chắt
nữa, trong thời đại TBCN thường chỉ có vợ chồng và con cái” [55, tr.113-
114]. Định nghĩa này khái quát được một số nét bản chất của gia đình về cơ
sở hình thành, duy trì, biến đổi của gia đình trong lịch sử và khẳng định gia
8

đình là đơn vị xã hội nhưng chưa nêu ra được vai trò của gia đình với xã hội

qua các chức năng của nó. Có thể nói, dưới góc độ ngôn ngữ, định nghĩa gia
đình chưa thật đầy đủ, cần phải có định nghĩa mới về gia đình nhằm đáp ứng
yêu cầu thực tiễn đòi hỏi.
Dưới góc độ xã hội học, đã đề cập tới nhiều khía cạnh của gia đình
nhưng còn mang tính khái quát chung, không rõ bản chất, chức năng và vai trò
của gia đình đối với xã hội. Theo PGS.TS Lê Như Hoa cho biết: “Một số nhà
xã hội học quan niệm gia đình là một nhóm người” [20, tr.24]. Tác giả đã trích
dẫn các quan điểm tiêu biểu của các nhà xã hội học phương Tây: E.W.Burgess
và H.J.Cocker coi: “Gia đình là một nhóm người được thống nhất với nhau bởi
những mối liên hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nhận con nuôi; tạo thành một hộ
duy nhất, tác động qua lại và giao tiếp với nhau theo vai trò xã hội của riêng
từng người trong số họ: là chồng và vợ, là mẹ và cha, anh trai và em gái; tạo
thành một nền văn hóa chung” [20, tr.24]. Kingley Davis định nghĩa gia đình:
“là một nhóm người mà quan hệ của họ với nhau dựa trên cơ sở dòng dõi và do
đó họ là họ hàng thân thích của nhau…” [20, tr.24].
G.Murdoch lại coi: “Gia đình là một xã hội có đặc điểm là cư trú
chung, hợp tác và tái sản xuất về kinh tế, nó bao gồm người lớn thuộc cả hai
giới, ít nhất có hai người trong số đó có quan hệ tình dục đã được tán thành về
mặt xã hội, và một hoặc nhiều con, là con đẻ hoặc con nuôi của những người
lớn chung sống về mặt giới tính đó” [20, tr.25]. Định nghĩa này đã khái quát
rõ cơ sở hình thành gia đình, chức năng kinh tế gia đình còn một số chức năng
khác chưa khái quát được.
Nhà nghiên cứu Lê Thi, người đã có rất nhiều công trình nghiên cứu,
tìm hiểu về gia đình đã quan niệm: “Khái niệm gia đình được sử dụng để chỉ
một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và huyết thống, nảy
sinh từ quan hệ hôn nhân đó và cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ
hàng nội ngoại). Đồng thời gia đình có thể bao hàm một số người được gia
đình nuôi dưỡng, tuy không có quan hệ huyết thống. Các thành viên gia đình
9


gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hóa, tình cảm).
Giữa họ có những điều ràng buộc có tính pháp lý, được Nhà nước thừa nhận
và bảo vệ (được ghi rõ trong Luật Hôn nhân và Gia đình nước ta). Đồng thời,
trong gia đình có những quy định rõ ràng về quyền được phép và những cấm
đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành viên” [50, tr.20]. Đây là khái niệm
đề cập tới nhiều nét đặc trưng, bản chất cơ bản của gia đình, nhưng nặng về
trình bày phân tích, chưa khái quát cô đọng, chưa giải thích được sự xuất hiện
loại gia đình cũ tồn tại ở Việt Nam.
Dưới góc độ tâm lý học, theo tác giả Nguyễn Đình Xuân: “Gia đình là
một nhóm nhỏ được liên kết vợ - chồng (hôn nhân) theo quy luật xã hội trước
tiên, sau đó mới là quy luật tình dục tự nhiên” [67, tr.36]. Còn với tác giả Ngô
Công Hoàn thì “Gia đình là một nhóm nhỏ xã hội có quan hệ gắn bó về hôn
nhân và huyết thống, tâm sinh lý, có chung giá trị vật chất, tinh thần ổn định
trong các thời điểm lịch sử nhất định” [67, tr.36]. Những định nghĩa này đã đề
cập tới nhiều nét bản chất của gia đình nhưng vai trò và quan hệ tác động của
gia đình - xã hội chưa được khái quát. Nó cũng đòi hỏi các nhà nghiên cứu về
gia đình phải có sự bổ sung, phát triển.
Dưới góc độ chính trị - xã hội, cũng như quan niệm của các nhà xã hội
học, một số định nghĩa về gia đình có những đóng góp và hạn chế. Liên Hợp
Quốc, trong cuốn từ điển “Nhân khẩu học” cho rằng: “Gia đình là một đơn vị
được quy định thông qua mối liên hệ của các cá nhân, nói lên sự tái thế hệ
sau, đặc biệt ở mức độ mà những mối quan hệ này được những quy phạm và
thủ tục pháp lý phê chuẩn” [25, tr.96].
Gần đây UNESCO cũng đưa ra quan niệm, gia đình là một nhóm người
có quan hệ họ hàng, cùng chung sống và có ngân sách chung. Các định nghĩa
này cũng có những đóng góp và những hạn chế tương tự như quan niệm gia
đình của Xã hội học, Tâm lí học,…
Luật Hôn nhân và Gia đình của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2000 khẳng định: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với
10


nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát
sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau theo luật định” [26, tr.12].
Đây là quan niệm chính thống của Nhà nước ta, là cơ sở pháp lý để giải quyết
những vấn đề liên quan đến gia đình. Quan niệm này chưa khái quát rõ nét
bản chất quan trọng: gia đình có vai trò to lớn đối với xã hội.
Dưới góc độ của CNXH khoa học, giáo trình CNXH khoa học định
nghĩa: “Gia đình là hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành duy
trì và củng cố trên cơ sở hôn nhân và huyết thống” [17, tr.178]. Đây là định
nghĩa đã phản ánh được những nét bản chất của gia đình. Nhưng nó cũng
chưa thể phản ánh rõ một số nét bản chất cơ bản khác của gia đình. Vì vậy,
giáo trình đã có sự bổ sung: “nhưng xét rộng hơn và đầy đủ hơn, gia đình
không chỉ là một đơn vị tình cảm - tâm lý mà còn là một tổ chức kinh tế, tiêu
dùng (sở hữu, sản xuất, thu nhập, chi tiêu); một môi trường giáo dục - văn hóa
(văn hóa gia đình và cộng đồng); một cơ cấu - thiết chế xã hội (có cơ chế và
cách thức vận động riêng…)” [17, tr.178]. Cả phần định nghĩa và phần bổ
sung đó là lời giải đáp khá hoàn chỉnh câu hỏi “Gia đình là gì?”.
Như vậy, qua phân tích khái niệm về gia đình, chúng ta thấy cần phải
nghiên cứu, kế thừa các quan điểm tiêu biểu, có giá trị khác nhau đã được đề
cập trên đây, khái quát lại và bổ sung để có định nghĩa gia đình vừa bảo đảm
tính khái quát, tính hệ thống, tính lôgic và toàn diện về những nét bản chất
đặc trưng của gia đình. Ta có thể khẳng định rằng, thực tiễn đang đòi hỏi cần
có một định nghĩa gia đình mang tính khái quát cao, phản ánh được khá đầy
đủ nét bản chất đặc trưng về gia đình phù hợp với lịch sử hình thành và phát
triển, cùng những biến đổi của gia đình dưới sự tác động mạnh mẽ của điều
kiện kinh tế - xã hội mới, của thời đại đang có sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học - công nghệ như hiện nay. Nhưng đây là vấn đề không đơn giản, do
nhiều yếu tố chi phối nên không thể đưa ra được một định nghĩa đầy đủ, tuyệt
đối phản ánh được tất cả các thuộc tính, bản chất, đặc trưng cơ bản của gia
11


đình, nhất là hiện nay, cùng với sự vận động, biến đổi của xã hội thì các hình
thức, kiểu loại gia đình cũng biến đổi hết sức phức tạp, đa dạng.
Hiện nay ở Việt Nam đang tồn tại hai kiểu gia đình. Một là, gia đình
hạt nhân hai có thế hệ bố mẹ và con cái chung sống. Hai là, gia đình mở rộng
gồm ba thế hệ trở lên (ông bà, cha mẹ, con cái) cùng chung sống trong một
mái nhà.
Ngoài hai kiểu gia đình chủ yếu trên đây, do những yếu tố hoàn cảnh
khác nhau, còn có các kiểu gia đình khác như: Gia đình độc thân (chỉ có một
người), gia đình thiếu vắng vợ hoặc chồng, gia đình đơn thân (chỉ có mẹ hoặc
bố nuôi con)…
Tóm lại, từ thực tế có thể có nhiều cách định nghĩa gia đình khác nhau
nhưng căn cứ vào tình hình chung của hôn nhân và gia đình ở nước ta, kế thừa
những cách tiếp cận hợp lý khác nhau như trên, có thể định nghĩa: Gia đình là
một phạm trù lịch sử dùng để chỉ một tập hợp người, hình thành, duy trì và
củng cố trên cơ sở các mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ
nuôi dưỡng… giữa các thành viên, nhằm đáp ứng nhu cầu tồn tại, thoả mãn
nhu cầu tình cảm và phát triển mọi mặt đời sống, được dư luận xã hội ủng hộ,
được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về gia đình và vai trò của
gia đình đối với sự phát triển của xã hội
Nghiên cứu di sản lý luận của C.Mác - Ph.Ăngghen, chúng ta thấy,
trong suốt tiến trình xây dựng quan niệm duy vật lịch sử, bao giờ các ông
cũng dựa vào những tiền đề hiện thực. Những tiền đề hiện thực này thường
được các ông sử dụng với tư cách những phạm trù xuất phát để nghiên cứu,
mổ xẻ các quá trình xã hội nhằm phát hiện ra các quy luật, các mâu thuẫn, các
xu hướng vận động và phát triển của nó. Những tiền đề hiện thực này được
biểu hiện một cách cụ thể qua các phạm trù, như phạm trù hàng hoá, phạm trù
con người, phạm trù sở hữu,… Ở đây, điều đáng nói là, tất cả các phạm trù
này đều có liên quan đến phạm trù gia đình. Bởi, trong quan niệm của các

12

ông, gia đình là tế bào của xã hội, tham gia vào mọi quá trình sản xuất, từ sản
xuất hàng hoá đến tiêu thụ sản phẩm; từ việc tái tạo ra con người đến việc đào
tạo, bồi dưỡng con người; từ chỗ tạo ra sự khác biệt về sở hữu đến giải quyết
vấn đề sở hữu. Và ngược lại, các quá trình sản xuất, tiêu dùng, cải tiến và sử
dụng công cụ lao động, giáo dục và đào tạo… đều tác động trở lại gia đình,
củng cố hoặc làm biến đổi hình thức và kết cấu gia đình.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề gia đình như vậy, nên trong
các tác phẩm của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sử dụng một số lượng trang
sách không ít để viết, để nói về gia đình. Các ông đã xem xét gia đình với tư
cách một xã hội thu nhỏ, xem xét các hình thức lịch sử của gia đình, xem xét
gia đình với sự xuất hiện của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; nghiên cứu
mối quan hệ giữa gia đình và nhà nước, nghiên cứu gia đình dưới chế độ
TBCN và gia đình dưới chế độ XHCN tương lai. Không chỉ thế, các ông còn
nghiên cứu gia đình trong quan hệ tính giao - vấn đề hôn nhân và gia đình với
tư cách yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất trong lịch sử phát triển xã hội.
Có thể nói, vấn đề gia đình trong di sản lý luận của C.Mác và
Ph.Ăngghen không chỉ dừng lại ở khái niệm “gia đình” thuần tuý, mà vượt
qua hình thức gia đình để khám phá nguồn gốc gia đình, tác động của gia đình
tới xã hội và ảnh hưởng của những biến đổi xã hội tới gia đình, đặc biệt là ảnh
hưởng của sự biến đổi kinh tế, của tiến trình CNH.
Trước hết C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định vị trí vai trò to lớn của gia
đình với xã hội và những điều kiện, tiền đề cho sự xây dựng gia đình mới. Coi
gia đình là một nhân tố quan trọng trực tiếp góp phần đảm bảo cho sự hình
thành, tồn tại và ngày càng phát triển của xã hội mới. Về vấn đề này,
Ph.Ăngghen đã viết: “Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch
sử, quy cho cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản
thân sự sản xuất đó lại có hai loại: một là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt, ra thức
ăn và nhà ở và những công cụ cần thiết khác để sản xuất ra những thứ đó; mặt

khác, là sự truyền nòi giống. Những thiết chế xã hội, trong đó những con
13

người của một thời đại và của một nhà nước nhất định đang sống, là do hai
loại sản xuất đó quyết định: Một mặt là do trình độ phát triển của lao động và
mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình” [31, tr.44]. Luận điểm đó,
Ph.Ăngghen đã chỉ rõ vai trò to lớn của gia đình đối với xã hội. Gia đình là
một nhân tố quan trọng đối với sự phát triển xã hội, mặc dù vậy, tầm quan
trọng đó chỉ có thể có được trên cơ sở gắn liền với mỗi giai đoạn phát triển
lịch sử cụ thể mà trong đó sự xuất hiện của các gia đình mới với hình thức kết
cấu và bản chất của nó được đảm bảo bằng những cơ sở khách quan nhất định
Sự xuất hiện của gia đình đã diễn ra ngay từ buổi đầu quá trình lịch sử,
do có sự tác động của quy luật đào thải tự nhiên và sự tác động bởi những
biến đổi của các điều kiện kinh tế - xã hội đã kéo theo những biến đổi tương
ứng trong gia đình. Trong xã hội nguyên thuỷ, trình độ lực lượng sản xuất rất
thấp, cá nhân không tách rời tập thể, cuộc sống cộng đồng nhiều mặt đã tạo
nên kiểu gia đình tập thể quần hôn. Mỗi bước tiến của xã hội cộng đồng
nguyên thuỷ và kết quả đào thải tự nhiên lần lượt đưa đến những hình thức,
mang sắc thái tiến bộ hơn: gia đình huyết tộc (cùng dòng máu), gia đình cặp
đôi (đối ngẫu). Bước sang xã hội tư hữu và có giai cấp, hình thức gia đình cá
thể - hôn nhân một vợ, một chồng ra đời. Các xã hội có đối kháng giai cấp
(Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, TBCN) đã làm cho gia đình một vợ một chồng
không được “trọn vẹn” và đúng nghĩa của nó với nhiều sắc thái khác nhau.
Quá trình xây dựng xã hội mới - xã hội XHCN, dần tạo nên những gia
đình một vợ, một chồng “trọn vẹn” và đúng nghĩa, có khả năng thể hiện đầy
đủ vị trí, vai trò xứng đáng của mình với sự phát triển xã hội. Ở thời kỳ đầu
của quá trình xây dựng CNXH - thời kỳ quá độ, là thời điểm lịch sử diễn ra
quá trình cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Quá trình cải biến cách mạng đó bắt đầu từ khi chính quyền
của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động, các lực lượng tiến

bộ xã hội, dưới sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân, được thiết
lập và kết thúc sau khi đã hoàn thành về cơ bản việc xây dựng những cơ sở
14

kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, tư tưởng, điều kiện cho sự xác lập và tồn tại
vững chắc của CNXH - một xã hội được tạo thành bởi những tế bào gia đình
tiến bộ và hạnh phúc.
Đề cập tới mối quan hệ giữa gia đình và các điều kiện kinh tế - xã hội,
trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế, triết học” (1844), C.Mác đã nêu lên quan
điểm: Tôn giáo, gia đình, nhà nước, pháp quyền, đạo đức, khoa học, nghệ
thuật chỉ là những hình thức đặc thù của sản xuất và phục tùng quy luật chung
của sản xuất.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, cùng với sự phát triển mạnh mẽ về
kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội và tư tưởng. Sự xuất hiện của sở hữu nhà
nước, sở hữu tập thể, của nền kinh tế nhiều thành phần trong đó thành phần
kinh tế Nhà nước và và tập thể giữ vai trò chủ đạo, sự phát triển của lực lượng
sản xuất ngày càng tiên tiến, hiện đại; việc áp dụng những thành tựu mới của
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại trong phạm vi mỗi gia đình và
ngoài xã hội ngày càng mở rộng. Đó chính là những cơ sở hoàn toàn cho phép
có được những khả năng đem đến những thay đổi lớn về quy mô, cơ cấu và
mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và từ đó đưa đến sự xuất hiện
dần những đặc trưng của gia đình mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Quan
niệm của chủ nghĩa Mác đã khẳng định: Sự xuất hiện của các tiền đề kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội, tư tưởng của xã hội mới, đặt cơ sở cho sự ra đời của
gia đình mới - gia đình văn hoá. Gia đình làm thành xã hội, là nhân tố quyết
định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1846), khi nói về tiến trình phát
triển của lịch sử nhân loại, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem xét ba mối quan hệ
con người đã được hình thành trong lịch sử nhân loại. Quan hệ thứ nhất là
quan hệ giữa con người với tự nhiên, quan hệ phản ánh khát vọng chinh phục

tự nhiên, nghiên cứu tự nhiên để tồn tại và cũng để nhằm thoả mãn những nhu
cầu không ngừng nảy sinh của con người. Quan hệ thứ hai là quan hệ giữa
con người với con người trong quá trình sản xuất, quan hệ phản ánh các quan
15

hệ sở hữu đối với các tư liệu sản xuất, các quan hệ trong tổ chức và quản lý
sản xuất, các quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động. Quan hệ thứ ba là
quan hệ gia đình. Theo các ông quan hệ gia đình “tham dự ngay từ đầu vào
quá trình phát triển của lịch sử; hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân
mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan
hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái”. Cũng theo các ông, ba quan hệ này
tồn tại đan xen với nhau, hoà vào nhau, cùng tồn tại bên nhau: “Sự sản xuất ra
đời sống - ra đời sống của bản thân mình bằng lao động, cũng như ra đời sống
của người khác bằng việc sinh con đẻ cái - biểu hiện ngay ra là quan hệ song
trùng: một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác là quan hệ xã hội”. Khẳng định
sự tồn tại đan xen của ba mối quan hệ này, trong Thư gửi Paven Vaxilievich
Annencốp, ngày 28 tháng Chạp 1846, C.Mác còn chỉ rõ: Khi xem xét “một
trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất của con người”, chúng ta
“thấy được một hình thức nhất định của trao đổi và của tiêu dùng” và khi xem
xét “một trình độ phát triển nhất định của sản xuất, của trao đổi và tiêu dùng”
chúng ta “thấy một chế độ nhất định, một hình thức tổ chức nhất định của gia
đình, của các đẳng cấp và giai cấp”.
Như vậy có thể nói, trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, nhờ
nghiên cứu các hình thức gia đình, chúng ta mới có thể hiểu rõ hơn nội dung
của lực lượng sản xuất (quan hệ thứ nhất), nội dung của quan hệ sản xuất
(quan hệ thứ hai) và ngược lại.
Không chỉ thế, khi nhấn mạnh vai trò của gia đình đối với sự phát triển
của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, C.Mác và Ph.Ăngghen còn cho
rằng, thực ra, gia đình là “quan hệ xã hội duy nhất” trong buổi đầu của lịch sử
xã hội. Nhờ quan hệ thứ ba này, với chức năng sinh con đẻ cái, quan hệ gia

đình đã sản sinh ra và duy trì các quan hệ xã hội khác. Và, theo ý nghĩa đó,
gia đình là một xã hội thu nhỏ: gia đình sản sinh ra các cá thể người, gắn kết
các cá thể người thành xã hội và khi xã hội loài người được hình thành thì
những hoạt động của nó thường xuyên tác động tới gia đình làm cho gia đình
16

biến đổi cả về hình thức, cấu trúc, cũng như vai trò của nó đối với xã hội.
Chính vì vậy, các ông luôn đòi hỏi nghiên cứu gia đình, nghiên cứu lịch sử
loài người phải gắn liền với lịch sử của công nghiệp và sự trao đổi sản phẩm.
Nói về vấn đề này, trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
chỉ rõ, con vật nói chung, con cừu nói riêng cũng có chức năng sinh con đẻ
cái giống con người, nhưng sự khác biệt giữa con cừu với con người là ở chỗ,
con cừu không có khả năng chuyển cái bản năng thành ý thức, còn con người
lại có khả năng vượt qua được cái bản năng ấy, biến “ý thức bầy đàn” nguyên
sơ thành cái “bản năng đã được ý thức”. Bước ngoặt vĩ đại này chỉ có thể đạt
được bằng hoạt động sản xuất và hình thành trong quá trình sản xuất vật chất.
Phân công lao động là hoạt động đặc thù của xã hội loài người và có nguồn
gốc từ cuộc sống gia đình. “Xã hội của những con cừu” cùng lắm cũng chỉ đạt
đến sự “phân công” một cách hoang sơ, hồn nhiên về “hành vi theo giới tính”,
còn “xã hội của con người” lại có khả năng vượt qua được trình độ “phân
công lao động trong hành vi theo giới tính” và sau đó, có thể vượt qua cả
“phân công lao động tự hình thành” hoặc “hình thành một cách tự nhiên” do
những “thiên tình bẩm sinh”, do nhu cầu, do sự ngẫu nhiên… để đạt đến một
trình độ phân công thực sự vượt lên trên “sự phân công lao động nảy sinh một
cách tự nhiên trong gia đình” nhờ sự xuất hiện việc “phân chia thành lao động
vật chất và lao động tinh thần” và nhờ tách chăn nuôi ra khỏi trồng trọt, tách
thủ công nghiệp ra khỏi nông nghiệp, nâng chất lượng lao động từ hoạt động
cơ bắp là chủ yếu lên thành hoạt động dựa trên trí lực, trên một nền đại công
nghiệp sản xuất chủ yếu bằng máy móc. Chiến công đó của con người, theo
C.Mác và Ph.Ăngghen, không do một vị thần thánh nào giúp đỡ, mà nó xuất

phát từ nhu cầu khách quan đầu tiên của sự tồn tại của con người: ăn, mặc và
ở. Nhu cầu ăn, mặc và ở ngày một cao hơn đòi hỏi con người phải tìm cách
chinh phục tự nhiên để sao cho hiệu quả sản xuất ngày càng cao hơn, năng
suất lao động cũng ngày một cao hơn… và nhờ đó, quá trình sáng tạo, đổi
17

mới công cụ sản xuất, cải tiến, hợp lý hoá quá trình sản xuất được hình thành
và ngày càng phát triển.
Cũng theo C.Mác và Ph.Ăngghen, chế độ phường hội bị phá vỡ do
những hạn chế trong khả năng khai thác nguyên liệu, khả năng cung cấp và
tiêu thụ sản phẩm… đã tạo nên sự ra đời của công trường thủ công - hình thức
sản xuất gắn liền với sự xuất hiện của máy móc. Đến lượt mình, công trường
thủ công đã tạo ra sản phẩm nhiều hơn nhờ máy móc, tạo ra khả năng tìm
kiếm, khai thác thị trường lớn hơn… và nhờ đó tạo ra những quan hệ mới
giữa con người với con người, giữa gia đình và xã hội, giữa thói quen và tâm
lý với sự biến động của các quá trình kinh tế - xã hội. Không chỉ thế, sự xuất
hiện của công trường thủ công còn khiến cho qua hệ giữa thợ bạn và thợ cả bị
phá vỡ và do vậy, cũng phá vỡ luôn quan hệ gia trưởng để tạo lập quan hệ
mới - “quan hệ tiền bạc” giữa công nhân và nhà tư bản.
Và khi xem xét mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và sự phát triển
của nền công nghiệp, các ông đã khẳng định sự tồn tại song trùng của hai quá
trình. Thứ nhất, quá trình tồn tại và phát triển của gia đình với những nhu cầu
vật chất và tinh thần đã thúc đẩy quá trình phát triển nền công nghiệp. Thứ
hai, quá trình phát triển nền công nghiệp đã tác động trở lại gia đình, làm thay
đổi kết cấu gia đình, nhu cầu vật chất và tinh thần của mỗi thành viên trong
gia đình
Tiếp tục luận giải hai quá trình này, trong tác phẩm “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản” (1848), C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định sự vận hành
của mỗi quá trình đó đều mang tính khách quan và phổ biến. Các ông cho
rằng, sự ra đời của nền sản xuất bằng máy móc hiện đại - nền công nghiệp

TBCN với lực lượng sản xuất mới đã dần xoá bỏ toàn bộ hệ thống công
trường thủ công, đã thay đổi sự phân bố dân cư và kết cấu ngành nghề của xã
hội và do vậy, sự “yên ấm” của từng gia đình cũng bị phá vỡ theo dòng xoáy
nền sản xuất TBCN. Không chỉ thế, nó làm thay đổi vị trí và điều kiện sinh
sống của gia đình, thay đổi nhu cầu thưởng thức những giá trị vật chất và tinh
18

thần của mọi thành viên trong gia đình. Nếu trước đây, nhu cầu tiêu dùng
“được thoả mãn bằng những sản phẩm trong nước”, thì nay đã “nảy sinh ra
những nhu cầu mới, đòi hỏi được thoả mãn bằng những sản phẩm đưa từ
những miền và xứ xa xôi nhất về” và một khi “sản xuất vật chất đã như thế thì
sản xuất tinh thần cũng không kém như thế”, nó làm cho “những thành quả
của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản chung của tất cả các
dân tộc”. Nền đại công nghiệp TBCN cũng xoá bỏ tình trạng cát cứ của các
địa phương và các dân tộc để thay thế nó bằng những quan hệ phổ biến giữa
các dân tộc.
Nền đại công nghiệp TBCN cũng phá vỡ các quan hệ sản xuất phong
kiến, thay đổi kết cấu xã hội, thay đổi quan hệ giữa các giai tầng xã hội. Sự
thay đổi này khiến cho quan hệ giữa người tự do và nô lệ, quý tộc và bình
dân, chúa đất và nông nô, thợ cả và thợ bạn… bị xoá bỏ để nhường chỗ cho
sự hình thành và lớn mạnh của hai giai cấp lớn đối lập nhau là giai cấp tư sản
và giai cấp vô sản.
Trên hết, nền đại công nghiệp TBCN còn tạo ra một chế độ xã hội và
chính trị thích ứng với quan hệ sản xuất mới, với cơ sở hạ tầng mới. Nó xoá
bỏ phẩm chất và đức hạnh do chế độ phong kiến tạo dựng; nó “tước hết hào
quang thần thánh của tất cả những hoạt động xưa nay vẫn được trọng vọng và
tôn sùng”; nó biến đổi cả quan hệ gia đình vốn được xem là thiêng liêng nhất,
“xé toang tấm màn tình cảm bao phủ những quan hệ gia đình và làm cho
những quan hệ ấy chỉ còn là những quan hệ tiền nong đơn thuần”.
Như vậy, có thể nói trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và

Ph.Ăngghen cũng đã khẳng định, với sự hình thành và phát triển của nền đại
công nghiệp, không chỉ các quan hệ xã hội, mà cả quan hệ gia đình cũng bị
thay đổi.
Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề gia đình không những
tạo cơ sở cho sự nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò to lớn của gia đình với
xã hội, về quy luật vận động phát triển của gia đình mà còn trang bị cho
19

chúng ta nội dung, phương pháp luận quan trọng trong chỉ đạo thực tiễn xây
dựng gia đình mới - gia đình văn hoá. Vì vậy, tư tưởng quá nhấn mạnh đến
gia đình, coi gia đình như là hình mẫu của mọi thiết chế hoặc hạ thấp gia
đình, coi nhẹ và cắt xén chức năng gia đình, đánh đồng gia đình và xã hội,
thậm chí đòi xoá bỏ gia đình đều là sai lầm và tới mức độ khác nhau sẽ gây
mâu thuẫn giữa gia đình và xã hội cũng như chính bản thân gia đình.
Kế thừa những quan điểm vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử của chủ nghĩa Mác
về gia đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng
những tư tưởng lý luận đó vào thực tiễn Việt Nam nhằm xây dựng, phát huy
được giá trị của gia đình trong xã hội hiện nay.
1.3. Tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về gia
đình và xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam
1.3.1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về gia đình và xây dựng gia đình
văn hoá
Kế thừa và phát triển những quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen, Chủ
tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng và nhiều gia
đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì
xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy muốn xây dựng
CNXH, phải chú ý hạt nhân cho tốt” [37, tr.111]. Luận điểm của Người vừa
khẳng định mối quan hệ không thể tách rời của gia đình và xã hội, vừa khẳng
định vai trò to lớn của gia đình đối với xã hội, đồng thời khẳng định sự cần
thiết phải xây dựng gia đình mới để có xã hội mới - xã hội XHCN thực sự.

Gia đình tái tạo ra con người, tác động tới con người và cuộc sống của
con người không chỉ với tính cách là thiết chế xã hội đầu tiên mà còn là yếu tố
trung gian, nối liền mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Quan hệ giữa các cá
nhân của gia đình và xã hội là mối quan hệ gắn bó chặt chẽ và tác động biện
chứng. Tuy nhiên mối quan hệ đó không phải bao giờ cũng diễn ra một cách
trực tiếp. Một phần rất cơ bản mối quan hệ đó được thực hiện chủ yếu thông
qua gia đình. Xã hội thông qua gia đình đã thể hiện vai trò và trách nhiệm đối
20

với cá nhân, yêu cầu cá nhân thực hiện nghĩa vụ đối với xã hội. Mỗi cá nhân,
để thực hiện nghĩa vụ của mình đối với xã hội, một phần rất cơ bản cũng phải
thông qua gia đình và nhờ vào gia đình. Không có sự tác động hoặc hỗ trợ
tích cực của gia đình, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội rất dễ bị tách rời.
Với quan điểm đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng ta đã đề ra chủ trương quan trọng về xây dựng gia đình mới - gia
đình văn hoá, thể hiện sự vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác vào
hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Ngay từ khi Cách mạng tháng Tám
thành công, trong cuốn “Đời sống mới trong một quốc gia độc lập mới”, Bác
Hồ đã phát động toàn dân tham gia xây dựng đời sống mới trong một quốc gia
độc lập mới. Trong đó, Người coi xây dựng gia đình là một nội dung quan
trọng của công tác xây dựng đời sống mới. Đồng thời, Người còn chỉ ra
phương pháp cũng như nội dung được thực hiện trong cuộc vận động này là:
“Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm
mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ… Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền
phức, thì sửa đổi cho hợp lý… Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm” [33,
tr.94]. Đây là tư tưởng hết sức sâu sắc, dễ hiểu đã quán triệt đầy đủ quan điểm
kế thừa, phát triển lý luận mác - xít để giúp phong trào xây dựng gia đình mới
không bị rơi vào xu hướng tả hoặc hữu, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Phong trào xây dựng gia đình mới được Hồ Chí Minh nhen nhóm ngọn
lửa từ đó. Đánh dấu mốc bắt đầu từ năm 1960, từ sáu gia đình tại thôn Ngọc

Tỉnh, xã Ngọc Long, tỉnh Hưng Yên. Sáu gia đình gương mẫu tham gia xây
dựng Hợp tác xã ở thôn Ngọc Tỉnh, xã Ngọc Long đã tình nguyện đi đầu xây
dựng gia đình văn hoá.
Cho đến năm 1962, 100% số xã của huyện Yên Mỹ đã có phong trào
xây dựng gia đình văn hoá và tại Hội nghị văn hoá toàn miền Bắc, xã Ngọc
Long được Bộ Văn hoá khẳng định là “quê hương gia đình văn hoá”, được
chọn là điển hình tiên tiến để làm đầu tầu nhân điển hình toàn miền Bắc. Đến
năm 1973, cũng ở Hải Hưng, Ban vận động xây dựng nếp sống văn minh - gia
21

đình văn hoá đã sửa đổi bổ sung thành năm tiêu chuẩn gia đình văn hoá: lao
động sản xuất giỏi; chấp hành đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước;
vệ sinh ngăn nắp, chi tiêu có kế hoạch, thực hiện kế hoạch hoá gia đình; đoàn
kết xóm giềng; gia đình hoà thuận. Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, thống
nhất đất nước, phong trào xây dựng gia đình mới được phát động trong phạm
vi cả nước, cũng với năm tiêu chuẩn nói trên nhưng tiêu chuẩn “gia đình hoà
thuận” được đưa lên hàng đầu. Bước vào thời kỳ đổi mới, phong trào tiếp tục
được duy trì, mở rộng trong cả nước.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để xây dựng nông thôn mới trước hết vấn
đề cơ bản và lâu dài là mỗi người dân phải tự xác định mình là người chủ thật
sự, phải luôn luôn nêu cao tinh thần làm chủ. Người cho rằng, phải thực hành
dân chủ, nghĩa là mọi công việc đều phải bàn bạc, cán bộ không được quan
liêu mệnh lệnh, tuyệt đối chống tham ô, lãng phí. Người chỉ rõ: Nông thôn
mới được tạo lập bởi nhiều gia đình mới và nhiều gia đình cộng lại mới thành
xã hội. Xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt
nhân của xã hội là gia đình. Những ý kiến chỉ dẫn của Người cho thấy tầm
quan trọng to lớn của việc xây dựng gia đình mới, và chỉ có xây dựng gia đình
mới thì mới có nông thôn mới. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng gia
đình mới gắn bó chặt chẽ giữa gia đình theo nghĩa hẹp, với gia đình theo
nghĩa rộng, chăm lo gia đình nhỏ là chăm lo cho hạt nhân của xã hội. Hồ Chí

Minh đặt việc xây dựng gia đình trong nhiệm vụ xây dựng nông thôn, đặt
nhiệm vụ xây dựng nông thôn trong công cuộc xây dựng CNXH.
Nông thôn nước ta chiếm hơn 90% dân số, trong đó phụ nữ là một lực
lượng đáng kể. Quan tâm đúng mức đến phụ nữ là thể hiện truyền thống nhân
văn của dân tộc, là quan tâm đến gia đình, đến xây dựng nông thôn mới, cũng
là xây dựng xã hội mới. Theo Người, quan tâm đến gia đình nhỏ trước tiên là
phải thực hiện nam nữ bình quyền. Nam nữ bình quyền là một cuộc cách
mạng khá to và khó… phải cách mạng từng người, từng gia đình, đến toàn
dân. Dù to và khó nhưng nhất định thành công. Trong khi chú trọng xây dựng

×