Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Phát triển nguồn nhân lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Tỉnh Nam Định hiên nay.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (998.62 KB, 100 trang )

97
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5
6. Đóng góp của luận văn 6
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VÀ VAI
TRÒ CỦA NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA. 7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của nguồn lực con người 7
1.1.1. Khái niệm về nguồn lực con người 7
1.1.2. Đặc điểm của nguồn lực con người 12
1.2. Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa 14
1.2.1. Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta 16
1.2.2. Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở tỉnh Nam Định 22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG
SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH NAM ĐỊNH 25
2.1. Thực trạng nguồn lực con người của tỉnh Nam Định 25
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của tỉnh Nam Định25
2.1.2. Khái quát về thực trạng nguồn lực con người của tỉnh Nam Định: 40
2.2. Thực trạng công tác giáo dục - đào tạo và chính sách phát triển nguồn
nhân lực của tỉnh Nam Định 48
2.2.1. Thực trạng công tác giáo dục - đào tạo 45
2.2.2. Chính sách phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Nam Định 62


98
2.3. Đánh giá những thành tựu, hạn chế và những nguyên nhân ảnh hưởng đến
phát triển nguồn lực con người ở tỉnh Nam Định 63
2.3.1. Những thành tựu trong phát triển nguồn lực con người ở tỉnh: 63
2.3.2. Những hạn chế trong phát triển nguồn lực con người ở tỉnh: 64
2.3.3. Những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng tiêu cực đến việc phát triển nguồn
lực con người ở tỉnh Nam Định 67
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở TỈNH NAM ĐỊNH TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA HIỆN NAY 71
3.1. Mục tiêu, phương hướng phát triển nguồn lực con người ở tỉnh Nam Định
giai đoạn 2010 - 2020 71
3.1.1 Mục tiêu phát triển nguồn lực con người 71
3.1.1.1. Mục tiêu tổng quát 71
3.1.1.2. Mục tiêu cụ thể: 72
3.1.2. Phương hướng phát triển nguồn lực con người 76
3.1.2.1. Chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nam Định đến năm 2020. 76
3.1.2.2. Phương hướng phát triển nguồn lực con người ở tỉnh Nam Định giai đoạn
2010 - 2020 81
3.2. Những giải pháp cơ bản để phát triển nguồn lực con người ở tỉnh Nam Định 84
KẾT LUẬN 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cả
nước để xây dựng cơ sở vật chất hiện đại cho xã hội xã hội chủ nghĩa là một

chủ trương nhất quán và chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Nhận thức
được tầm quan trọng của nguồn lực con người trong quá trình phát triển kinh
tế - văn hóa - xã hội, trên cơ sở tiếp tục phát triển những quan điểm đúng đắn
của các Đại hội trước đây, Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ VIII cho rằng:
“Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người
Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa”[19, tr.21], Đại hội toàn quốc của Đảng lần thứ IX cũng khẳng
định: “ nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững” [21, tr.108], “ Con người và nguồn nhân
lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ”[21, tr.201]. Để khẳng định thêm trong Dự thảo các văn
kiện trình Đại hội XI của Đảng xác định: “ phát huy dân chủ, khơi dậy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước”
[23, tr.201].
Thực tiễn lịch sử phát triển kinh tế thế giới cũng cho thấy để đạt được
tốc độ tăng trưởng, phát triển kinh tế nhanh và bền vững cần phải nâng cao
chất lượng của đội ngũ lao động. Nghĩa là, sự phát triển nguồn lực con người
là nhân tố đóng vai trò quan trọng, là động lực cho tăng trưởng và phát triển
kinh tế, tạo ra sức đột phá mới trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Những khẳng định trên đã minh chứng sự cấp thiết của việc phát
triển và sử dụng nguồn lực con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
2
Mặt khác, ở nước ta cơ cấu kinh tế đang có những bước chuyển dịch từ
các ngành nông nghiệp truyền thống được thay bằng ngành công nghiệp thì
yêu cầu phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người lại càng trở
lên cấp bách. Vì vậy, phát triển và sử dụng nguồn lực con người một cách có
hiệu quả, nhằm biến nó thành động lực cho phát triển kinh tế - xã hội hiện
đang trở thành vấn đề cấp bách đặt ra cho đất nước ta từ trung ương cho đến

các địa phương. Cũng như nhiều các địa phương trên cả nước, Nam Định đã
xây dựng và triển khai những chính sách hợp lý để phát triển nguồn lực con
người, song cũng gặp một số khó khăn như: sự yếu kém trong cách thức quản
lý và sử dụng nguồn lực con người, đồng thời sự vận dụng quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta chưa được linh hoạt. Do đó, việc phát triển nguồn lực
con người đang tạo ra những bước cản nhất định cho sự phát triển kinh tế - xã
hội ở tỉnh Nam Định. Chính vì vậy, tác giả đã chọn vấn đề “Phát triển nguồn
lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nam
Định hiện nay” làm đề tài cho luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Chủ nghĩa xã
hội khoa học. Trên cơ sở khoa học và thực tiễn của việc phát triển nguồn lực
con người nói chung, luận văn góp phần chỉ ra thực trạng của việc phát triển
nguồn nhân lực con người ở tỉnh Nam Định và đề xuất ra một số giải pháp cơ
bản nhằm tạo ra sự thuận lợi trong chiến lược xây dựng và phát triển kinh tế –
xã hội ở địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu:
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển của lịch
sử - xã hội, do đó vấn đề con người, nhân tố con người luôn là đối tượng thu
hút sự quan tâm của nhiều ngành khoa học. Thực tiễn ngày càng chứng minh,
sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia phụ thuộc vào đầu tư, khai thác có
hiệu quả vai trò nhân tố con người, nguồn lực con người. Từ những nghiên
cứu chung về con người, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều
cuốn sách, nhiều bài viết nghiên cứu được đăng tải trên các tạp chí và báo. Có
thể kể ra một số công trình nghiên cứu tiêu biểu dưới đây:
3
- “Phát triển nguồn nhân lực giáo dục Đại học Việt Nam”. Tác giả T.S
Đỗ Minh Cương - PGS. TS Nguyễn Thị Doan, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2001. Đề cập đến một số nội dung về giáo dục đại học, qua đó đưa ra
những giải pháp có tính khả thi nhằm đi đến mục tiêu phát triển nguồn nhân
lực giáo dục đại học nước ta.
- “Phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa”. Tác giả Phan Xuân Dũng, Tạp chí Cộng sản, 9-1997. Bài viết nêu
những vấn đề cơ bản về vai trò nguồn nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội
trong nước ta vào trước những năm 1997. Từ đó, tác giả có đề xuất các giải
pháp cơ bản để phát triển nguồn nhân lực.
- “Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam”. T.S. Nguyễn
Hữu Dũng, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2003. Sách giới thiệu những vấn
đề cơ bản về vai trò, vị trí và tầm quan trọng quyết định của nguồn nhân lực
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Qua đó, tác giả đề cập đến
việc sử dụng, khai thác nguồn nhân lực ở một số nước phát triển và đang phát
triển, đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm sử dụng và phát triển nguồn
nhân lực ở nước ta.
- “Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất ở
Việt Nam hiện nay”. Tác giả TS. Phạm Công Nhất chủ biên, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2007. Cuốn sách đã phân tích vai trò của nhân tố con người
trong phát triển lực lượng sản xuất, đánh giá thực trạng trong phát huy nhân tố
con người ở nước ta hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm
phát triển lực lượng sản xuất.
- “Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển kinh tế -
xã hội”. Tác giả Phạm Minh Hạc, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. Tác
giả đề cập đến nhân tố con người trong hệ thống sản xuất xã hội, nhất là trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Qua đó, nêu ra yêu cầu cao
4
đối với chiến lược giáo dục và đào tạo con người, đảm bảo chất lượng nguồn
nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- “Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”. Tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.
Sách đề cập tầm quan trọng của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội, nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhấn
mạnh vai trò của Giáo dục - Đào tạo, sử dụng và phát triển nguồn lực ở Việt
Nam, đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển nguồn nhân lực.

- “Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước
ta”. Tác giả Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1996. Sách giới thiệu khái quát về vai trò của nguồn nhân lực trong nền kinh
tế đổi mới và kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở khía cạnh phát triển
giáo dục của một số nước trên thế giới và Việt Nam.
Như vậy, hầu hết các công trình nghiên cứu của các tác giả đã đề cập
tới vấn đề nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa ở nước ta, nội
dung rộng, bao chứa nhiều lĩnh vực với phạm vi khái quát cao. Vì vậy, việc
vận dụng, cụ thể hóa những quan điểm và những giải pháp mà các tác giả đề
cập để áp dụng vào từng địa phương cho phù hợp với hoàn cảnh từng vùng,
từng miền đòi hỏi cần có những công trình nghiên cứu khác phù hợp.
Vấn đề sử dụng nguồn nhân lực ở tỉnh Nam Định tuy có được đề cập đến
ở một số bài viết, luận văn, tạp chí. Nhưng về vấn đề phát triển nguồn lực con
người ở tỉnh Nam Định thì chưa có công trình nào nghiên cứu. Trên tinh thần
đó, luận văn tiếp tục nghiên cứu, cập nhật, phân tích và đánh giá đúng thực
trạng về vấn đề phát triển nguồn lực con người trên địa phương tỉnh Nam Định
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đề xuất những giải pháp cụ
thể và thiết thực giúp cho công tác xây dựng, phát triển và sử dụng, phân bổ
nguồn nhân lực đảm bảo tính hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội, hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Nam Định.
5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
* Mục đích luận văn:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về nguồn lực con người và vai trò của
nó đối với sự phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta, luận văn đã khảo sát và
phân tích thực trạng xây dựng, phát triển nguồn lực con người ở tỉnh Nam
Định hiện nay; đề xuất những phương hướng và một số giải pháp cấp bách
nhằm phát triển có hiệu quả nguồn lực con người ở tỉnh Nam Định trong
những năm tới.
* Nhiệm vụ của luận văn:

Làm sáng tỏ thêm quan điểm của Đảng trong việc phát triển nguồn
lực con người đáp ứng nhu cầu cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Qua đó, chỉ ra thực trạng phát triển nguồn lực con người ở tỉnh Nam
Định hiện nay; đánh giá công tác xây dựng, phát triển nguồn lực con người,
những kết quả đạt được, những thiếu sót, những tồn tại và tìm ra nguyên nhân
của vấn đề trên. Đồng thời, đề xuất một số phương hướng, giải pháp cụ thể
hữu hiệu giúp cho công tác phát triển nguồn lực con người ở tỉnh Nam Định
đạt hiệu quả.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu nguồn lực con người của tỉnh Nam Định trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
* Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng các quan điểm cơ bản của
Đảng và Nhà nước ta, một số công trình nghiên cứu khoa học, hiện đại về
nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực.

6
* Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp chủ yếu mà luận văn sử dụng để nghiên cứu là phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp lôgic và lịch sử, phương
pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê, đối chiếu, so sánh v.v.
6. Đóng góp của luận văn:
Luận văn góp phần chỉ ra và đánh giá đúng thực trạng của việc phát
triển nguồn lực con người tại địa phương. Mặt khác, nó cũng cung cấp thêm
những cơ sở khoa học để xây dựng và hoàn thiện về chính sách phát triển hợp
lý nguồn lực con người ở địa phương trong giai đoạn tới, đặc biệt là giai đoạn
2010 -2020 nhằm tạo ra sức bật mạnh mẽ về kinh tế - xã hội cho tỉnh Nam

Định.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết:
Chương 1: Lý luận chung về nguồn lực con người và vai trò của nguồn
lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chương 2: Thực trạng phát triển nguồn lực con người trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nam Định
Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản phát triển nguồn lực
con người ở tỉnh Nam Định trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hiện nay.
7
CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VÀ VAI
TRÒ CỦA NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

1.1. Khái niệm và đặc điểm của nguồn lực con người
1.1.1 Khái niệm về nguồn lực con người
Khái niệm “nguồn lực con người” hay còn gọi là “nguồn nhân lực”
được hình thành trong quá trình nghiên cứu và xem xét nhân tố con người
trên phương diện là động lực cơ bản để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
Trong giai đoạn hiện nay, việc sử dụng và phát huy nguồn lực con người
đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế giới. Những
thành tựu to lớn mà loài người đã và đang đạt được trong quá trình phát triển
chính là do con người biết phát huy một cách tổng hợp các nguồn lực, mà trong
các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội thì nguồn lực con người được đánh
giá là quan trọng nhất, là nguồn lực trung tâm của mọi nguồn lực. Vì vậy, vấn
đề phát huy nhân tố con người, sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao động để phát
triển mạnh mẽ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang trở thành vấn đề nóng bỏng

và bức bách của các ngành, các cấp và của toàn xã hội.
Trên thế giới có nhiều cách tiếp cận khác nhau khi xem xét vấn đề nguồn
lực con người, theo Liên hợp quốc nguồn lực con người là tất cả những kỹ năng,
kiến thức và năng lực của con người có quan hệ tới sự phát triển của đất nước.
Ngân hàng thế giới coi: nguồn lực con người là toàn bộ vốn người (thể lực, trí
lực, kỹ năng, nghề nghiệp, v.v.) mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động được
trong quá trình sản xuất, kinh doanh, hay trong một hoạt động nào đó.
8
Như vậy, nguồn lực con người được xét dưới góc độ chất lượng của
con người và vai trò của con người đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia. Mỗi khi sử dụng nguồn lực đó nó không chỉ góp phần thúc đẩy
nền kinh tế - xã hội phát triển mà thông qua đó nó còn giúp cho con người
ngày càng được hoàn thiện và được khẳng định mình đối với xã hội, đối với
đất nước.
Ở nước ta, khái niệm nguồn lực con người trước đây chưa được đưa
vào sử dụng rộng rãi như một thuật ngữ khoa học. Nó chỉ được sử dụng rộng
rãi bắt đầu từ thập niên 90 của thế kỷ XX, trong đó các nhà khoa học, các nhà
nghiên cứu đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về nguồn lực con người, về
nguồn nhân lực. Trong cuốn Từ điển Bách khoa Việt Nam cũng như các Từ
điển Tiếng Việt chưa xuất hiện định nghĩa về “ Nguồn lực con người”. Tuy
nhiên, chúng ta có thể xem xét một số khái niệm dưới đây về nguồn lực con
người do một số nhà khoa học đã nghiên cứu và đưa ra.
Nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải cho rằng: “Nguồn lực con người
bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân
tộc ta” “Tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp với các nhà khoa học
- công nghiệp và các cơ quan Chính phủ để nâng cao hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế”[29, tr.1-2]
Trong lời phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa VIII), nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đã khẳng định:
“Nguồn lực con người là quý báu nhất Nguồn lực đó là người lao

động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất đẹp, được đào tạo,
bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền
khoa học công nghệ hiện đại” [20, tr.9.]
Đưa ra quan niệm về nguồn lực con người Giáo sư Viện sĩ TS. Phạm
Minh Hạc cho rằng:
9
“Nguồn lực con người là dân số và chất lượng con người, bao gồm cả
thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất” [25, tr.328]
Khi nghiên cứu về vấn đề trên Giáo sư TS. Hoàng Chí Bảo cũng cho
rằng: “ Nguồn lực con người là sự kết hợp thể lực và trí lực, cho thấy khả
năng sáng tạo, chất lượng hiệu quả hoạt động và triển vọng mới phát triển
của con người” [1, tr.14].
Từ một số quan niệm và cách tiếp cận nêu trên có thể hiểu một cách
khái quát về nguồn lực con người như sau: Nguồn lực con người là khái
niệm dùng để chỉ số dân, cơ cấu dân số, chất lượng con người với tổng thể
phẩm chất, năng lực và tiềm năng tạo nên sức mạnh để thúc đẩy kinh tế -
xã hội của một quốc gia phát triển.
Thuật ngữ “nguồn lực con người” được hiểu khá rộng. Cùng với thuật
ngữ này còn có một số thuật ngữ tương đồng khác cũng được sử dụng tương
đối phổ biến như: “nguồn nhân lực” hoặc “tài nguyên con người”. Những
thuật ngữ trên xuất phát điểm từ thuật ngữ tiếng Anh: Human Resources và
được dịch ra với từ ngữ khác nhau, song giống nhau về bản chất. Trên thực tế,
khái niệm “nguồn nhân lực” ngoài nghĩa rộng được hiểu như là “nguồn lực
con người”, bản thân nó còn được hiểu với nghĩa hẹp là nguồn lao động (đội
ngũ lao động hiện tại và tiềm năng) hoặc lực lượng lao động. Còn khái niệm
“tài nguyên con người” với ý nghĩa nhấn mạnh mặt khách thể của con người,
coi con người như một nguồn tài nguyên, loại của cải giá trị, cần tận dụng
khai thác một cách có hiệu quả và triệt để không chỉ trên phương diện sức
khỏe mà quan trọng hơn là về tiềm năng trí tuệ của con người.
* Cấu trúc của nguồn lực con người:

Cấu trúc của nguồn lực con người là quá trình xem xét từng bộ phận
cấu thành nguồn lực con người theo một chỉnh thể, từ đó phát hiện ra cơ cấu
và mối quan hệ giữa chúng tạo thành hệ thống, cấu trúc của nguồn lực con
10
người. Nói đến nguồn lực con người cần phải đề cập đến số lượng và chất
lượng con người, đó là sự kết hợp giữa trí lực, thể lực, đạo đức và những năng
lực, phẩm chất khác của con người như ý chí, tình cảm Mỗi yếu tố có vị trí
và vai trò nhất định trong cấu trúc nguồn lực con người, song chúng lại có
mối quan hệ biện chứng với nhau tạo nên sự phát triển toàn diện của nguồn
lực con người. Nghĩa là nguồn lực con người chỉ được phát triển đầy đủ dựa
trên một quy mô hợp lý cả về số lượng và chất lượng của nguồn lực:
Về mặt số lượng của nguồn lực con người. Đó chính là lực lượng lao
động và khả năng cung cấp sức lao động cho xã hội. Các chỉ số về nguồn lực
con người của một quốc gia, một địa phương được xác định trên quy mô dân
số, tốc độ tăng dân số, cơ cấu dân số, cơ cấu độ tuổi, cơ cấu lao động trong
các ngành, các khu vực kinh tế, các lĩnh vực kinh tế, sự tiếp nối các thế hệ,
giới tính và sự phân bố dân cư giữa các vùng, miền của đất nước Trong đó,
số dân trong độ tuổi lao động là chỉ số phản ánh đầy đủ nhất về số lượng của
nguồn lực con người. Số lượng nguồn lực con người đóng vai trò quan trọng
không kém so với chất lượng nguồn lực con người. Nếu số lượng thiếu hoặc
không đủ sẽ làm hạn chế đến sự phân công lao động xã hội trong các ngành,
các lĩnh vực, ảnh hưởng đến chất lượng của nguồn lực con người và do đó
gây khó khăn cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Về mặt chất lượng, đây là yếu tố quan trọng nhất trong nguồn lực con
người của một quốc gia, một địa phương. Trước đây, với nền nông nghiệp lạc
hậu, chúng ta thường nhấn mạnh hơn đến số lượng của nguồn lực con người:
nguồn lực dồi dào, người lao động cần cù, thông minh và sáng tạo là có thể
đem lại cho con người của cải vật chất. Đó cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên,
trong thời đại ngày nay khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn
ra mạnh mẽ trên thế giới lại cho thấy rằng sự dồi dào của nguồn lao động và

sự cần cù, chịu khó chưa đủ để thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ nền kinh tế -
11
xã hội. Vì vậy, khi nói đến nguồn lực con người chúng ta cần xem xét trong
chỉnh thể cả về mặt số lượng lẫn chất lượng. Và xem chất lượng nguồn lực
con người mới chính là khâu đột phá, giữ vai trò chính yếu nhất trong phát
triển. Khái niệm chất lượng nguồn lực con người là tổng hợp các yếu tố về thể
lực, trí lực, trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp, năng lực, phẩm chất,
tâm lý, đạo đức của người lao động. Những yếu tố kể trên đều rất quan
trọng. Gắn liền với nguồn lực con người thì phẩm chất đạo đức và nguồn lực
trí tuệ của con người được coi trọng nhất trong điều kiện hiện nay, vì nó “bao
gồm những tiềm năng, năng lực và tập hợp các giá trị sáng tạo về tinh thần
của mỗi cá nhân, của các tập thể, của các cộng đồng người trong một xã
hội nhất định” và “có khả năng tạo ra quá trình phát triển tự nhiên, xã hội và
bản thân con người” [30, tr.35].
Trước sức mạnh của thời đại công nghệ số, buộc người lao động phải
tìm mọi cách để học tập, tiếp thu tri thức mới để vận dụng vào quá trình sản
xuất và phải thường xuyên tự bổ xung, bồi dưỡng những tri thức để không bị
lạc hậu trước sự phát triển của thời đại. Trước yêu cầu của thời đại đặt ra và
cũng là yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi con
người phải có sự phát triển cao về mặt trí tuệ, học vấn và kỹ năng nghề nghiệp
để trở thành chủ nhân của xã hội hiện đại.
Một yếu tố quan trọng cấu thành nguồn lực con người là sức khỏe của
người lao động biểu hiện trong hoạt động lao động sản xuất, với sự dẻo dai
của cơ bắp và sự nhạy bén về tinh thần thể hiện qua các chỉ số như: chiều cao,
cân nặng, sức bền của cơ thể, sự nhạy bén của các cơ quan giác quan. Một
tinh thần lành mạnh chỉ có thể tồn tại trong một cơ thể khỏe mạnh mới có thể
sáng tạo và đóng góp một cách tốt nhất cho sự phồn vinh của xã hội. Vì vậy,
điều kiện để hoạt động trí tuệ của con người trong quá trình hoạt động thực
tiễn là sự khỏe mạnh cả về yếu tố vật chất lẫn tinh thần. Cho nên, việc chăm
12

sóc sức khỏe cả về vật chất và tinh thần là yêu cầu cấp bách đảm bảo cho sự
phát triển nguồn lực con người được diễn ra nhanh chóng và đạt hiệu quả
nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực con người, cung cấp đầy đủ nguồn lao
động chất lượng cao đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Cùng với hai yếu tố sức khỏe và trí tuệ thì nguồn lực con người còn
được xét tới với yếu tố nhân cách. Trong nhân cách thì đạo đức và năng lực là
hai yếu tố quan trọng hình thành nên nhân cách một con người. Hay nói cách
khác nó chính là đức và tài xét trong cùng mối tương quan với nhau. Trong
đó, đạo đức được coi là rường cột, là cái lõi để hình thành và phát triển thế
giới quan và nhân sinh quan của mỗi người. Đức biểu hiện ở tinh thần trách
nhiệm với công việc, lương tâm đối với nghề nghiệp, phẩm chất nghề nghiệp,
tác phong lao động, ý thức tổ chức lao động tạo lập nên nhân cách đạo đức
của nguồn lực con người.
Như vậy, từ việc xem xét những vấn đề trên cho thấy cấu trúc toàn diện
của nguồn lực con người phải được xét trên 3 yếu tố cơ bản: trí lực, thể lực và
nhân cách đạo đức. Qua đó, nó đặt ra yêu cầu đối với lĩnh vực Giáo dục và
Đào tạo là phải vừa rèn luyện trí lực - cung cấp tri thức, vừa đào tạo chuyên
môn nghề nghiệp nhưng đồng thời cũng rèn luyện đạo đức, tác phong, lối
sống nhằm “tạo ra những con người phát triển về trí tuệ, phong phú về tinh
thần, trong sáng về đạo đức”, phù hợp với yêu cầu của xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của nguồn lực con người:
Qua nghiên cứu khái niệm của nguồn lực con người, luận văn có thể
đưa ra những đặc điểm cơ bản của nguồn lực con người như sau:
Thứ nhất, “nguồn lực con người” được biểu hiện ra là lực lượng lao
động là nguồn lao động (đội ngũ hiện có và sẽ có) hay người lao động. Bên
cạnh đó, khi đề cập đến nguồn lực con người còn nói đến quy mô và tốc độ
13
tăng dân số của một địa phương, một quốc gia trong một thời kỳ nhất định,
phản ánh cơ cấu dân cư và sự phân bố, sắp xếp nguồn lao động trong các

ngành và các lĩnh vực kinh tế khác nhau, giữa các vùng, miền của đất nước.
Thứ hai, “nguồn lực con người” còn nói lên chất lượng dân số, của lực
lượng lao động biểu hiện ra ở hiện tại và còn đang tiềm tàng. Tuy nhiên, chất
lượng của nguồn lực con người luôn có mối qua hệ biện chứng với số lượng.
Khi nguồn lực con người có trình độ cao nhưng số lượng hạn chế, cơ cấu
không phù hợp sẽ rất khó khăn cho sự phát triển về kinh tế - xã hội. Ngược lại,
dân số đông, tăng nhanh nhưng trình độ thấp thì rất khó khăn cho việc sử dụng
có hiệu quả, mặt khác còn tạo ra sức ép lớn về các vấn đề xã hội nảy sinh.
Thứ ba, cùng với các nguồn lực khác, “ nguồn lực con người” được coi
là nguồn lực nội tại và cơ bản nhất, đặc biệt nhất trong hệ thống các nguồn lực
của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nếu như các nguồn lực khác khi sử dụng,
khai thác không những không được tái tạo mà ngày càng cạn kiệt. Trái lại,
nguồn lực con người mà bộ phận cốt lõi là trí tuệ, lại có tiềm năng vô tận càng
khai thác, sử dụng càng tạo ra giá trị cao hơn. Nó có khả năng tái tạo, phục
hồi và tự đổi mới. Nguồn sức mạnh to lớn đó ngoài việc biểu hiện ở khía cạnh
thể lực còn được thể hiện ra ở trí lực, niềm tin, ý chí. Điều quan trọng hơn là
sự gắn kết biện chứng giữa hai yếu tố sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh
thần của mỗi cá nhân và sự cộng hưởng của sự liên kết cộng đồng xã hội biểu
lộ ra ở hiện tại và trong tương lai.
Thứ tư, “nguồn lực con người” còn bao hàm cả sự liên hệ, tác động qua
lại lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành nó cũng như sự tác động qua lại lẫn
nhau giữa nó với các nguồn lực khác và với môi trường xung quanh. Hay có
thể thấy nó biểu hiện thông qua ba mối quan hệ chính: quan hệ với thiên
nhiên, quan hệ xã hội và quan hệ với chính mình.
14
Qua đây có thể nói rằng, nguồn lực con người có cấu trúc đặc biệt. Nó
được xem xét đến với tư cách vừa là khách thể đồng thời cũng là chủ thể của
quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Khi nói con người là chủ thể trước hết bằng
trí tuệ, khả năng tư duy của mình, con người có khả năng khai thác, sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực khác phục vụ cho nhu cầu và mục đích của mình. Hơn

nữa, con người còn làm cho các nguồn lực trở lên ngày càng phong phú và đa
dạng. Đứng trên phương diện là khách thể, con người trở thành đối tượng được
khai thác, sử dụng về sức lao động cả về thể lực và trí lực tạo điều kiện để thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Vì thế, con người vừa là chủ thể, vừa là động
lực, vừa là mục tiêu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
1.2. Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
1.2.1. Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Trong thời đại ngày nay, khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
đang thay đổi nhanh chóng đời sống kinh tế - xã hội thì khoảng cách giữa các
nước chậm phát triển với các nước phát triển ngày càng trở thành hố sâu dài
ngăn cách. Vì vậy thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa được coi là một
phương thức cơ bản, một con đường tất yếu để cải biến một xã hội nông
nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp văn minh, tạo điều kiện để các
nước kém phát triển từng bước theo kịp các nước phát triển. Đồng thời, nó là
nền tảng đảm bảo cho đời sống kinh tế – xã hội của nhân dân ngày càng đầy
đủ và hiện đại hơn.
Đứng trước các yêu cầu của của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn
mới, Đảng và Nhà nước ta luôn coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự
nghiệp cách mạng trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhằm hoàn
thiện cơ sở vật chất để xây dựng một xã hội mới dân chủ, công bằng, văn
15
minh. Vì vậy, trong Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII
(1994), Đại hội lần VII đã thông qua và xác định một cách cụ thể đường lối
công nghiệp hóa, hiện đại hóa: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và
quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương
pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ

khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” [11, tr.80].
Đại hội Đảng VIII (năm 1996) nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới đã
nhận định: nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra
cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp
hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam (năm 2001) đã xác định mục
tiêu tổng quát từ năm 2001 đến năm 2010: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công
nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng
cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình
thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao” [21,
tr.119]. Mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ
mục đích vì con người, chăm sóc, bồi dưỡng, phát triển con người, phát huy
nhân tố quan trọng là nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Trong khi đó với vai trò là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, văn hóa và
giáo dục, khoa học và công nghệ có khả năng to lớn. Khơi dậy, nhân lên mọi
16
tiềm năng, phát huy sức sáng tạo của con người Việt Nam, tạo ra nguồn lực
nội sinh quyết định sự phát triển của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta, khi nguồn tài chính
và nguồn lực vật chất cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn hạn
hẹp, trong khi đó tiềm lực, nguồn lực con người Việt Nam lại vô cùng phong
phú, nếu biết nuôi dưỡng, phát huy, khai thác và sử dụng một cách hợp lý
nhất, tiết kiệm nhất. Trong thời đại ngày nay, tư tưởng trên càng có ý nghĩa to
lớn khi mà nguồn gốc của sự giàu có và phát triển toàn diện của đất nước
không chỉ là tài nguyên, vốn, kỹ thuật, mà yếu tố ngày càng trở nên quyết

định chính là nguồn lực con người và những tiềm năng sáng tạo vô hạn của
họ. Nó cũng là xuất phát điểm cho sự phát triển một nền kinh tế tri thức trong
tương lai. Do vậy, để giữ vững mục tiêu xây dựng một xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh thì vai trò quyết định nhất chính là con người.
Trên cơ sở đó Đại hội X của Đảng thấy rõ cần huy động và sử dụng tốt
các nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa: “Nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [22, tr.76].
Do đó, yếu tố con người đã và đang dần trở thành nhân tố quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đang từng bước dành được những thành công nhất
định. Từ đó, Đảng và Nhà nước đã coi việc phát huy có hiệu quả nguồn lực
con người là một trong những nhiệm vụ quan trọng của phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm an ninh chính trị, thiết lập trật tự kỷ cương xã hội. Trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, Đảng ta xác định: “ Giải quyết
việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát
17
triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu
cầu bức xúc của nhân dân”[21, tr.210].
Như vậy, Đảng ta rất coi trọng việc phát huy mọi nguồn lực trong đó
đặc biệt chú ý đến nguồn lực con người trong quá trình thúc đẩy sự nghiệp đổi
mới đất nước. Hơn nữa, Đảng ta luôn coi: “cùng với khoa học công nghệ,
giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài” [19, tr.107]. Do đó, có thể thấy vai trò của nguồn lực
con người ở những phương diện sau đây:
Một là, nguồn lực con người - sản phẩm của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của cả nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo tiền đề, điều kiện vật chất cần thiết

để cải biến, khắc phục những hạn chế của phương thức sản xuất nhỏ và lạc
hậu của đất nước nông nghiệp. Nhờ đó góp phần cải biến lao động thủ công,
lạc hậu sang lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt năng suất lao
động xã hội cao hơn. Hay nói cách khác quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa làm thay đổi tư duy, cách thức lao động của lực lượng lao động xã hội, là
đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của nguồn lực con người. Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trên địa bàn mỗi địa phương sẽ tạo ra cơ hội thuận lợi, một môi
trường lao động năng động, nhanh nhạy hơn. Nó khác hẳn so với môi trường
lao động truyền thống luôn thụ động, đóng kín. Trong môi trường lao động
sản xuất mới do tính chất hiện đại, tiên tiến đòi hỏi người lao động để có thể
tiếp cận và sử dụng được công cụ lao động phải thường xuyên học tập, bồi
dưỡng, nâng cao trình độ cả về văn hóa, chuyên môn nghề nghiệp, năng lực
sáng tạo để thích nghi với điều kiện mới trong quá trình lao động. Hơn nữa,
người lao động còn được tiếp cận những dịch vụ chăm sóc sức khỏe, nâng cao
mức sống. Tuy nhiên, trên thực tế sự tác động của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đối với sự phát triển của nguồn lực con người có tính hai mặt của nó. Bên
18
cạnh việc đào tạo cho người lao động trở nên năng động hơn, có cá tính và
rèn luyện được tác phong trong môi trường lao động công nghiệp và hiện đại,
tạo sự chuyển biến tích cực đối với người lao động giúp họ thích nghi dần với
sự thay đổi về điều kiện làm việc mới. Mặt khác, đối với những người lao
động, nhất là những nơi có tác phong, lối sống, phong tục, tập quán còn chịu
ảnh hưởng nặng nề của chế độ cũ, của nền nông nghiệp lạc hậu thì sự thay đổi
này có thể tạo nên một “cú sốc tâm lý”, hoặc sự không theo kịp guồng quay
của nền công nghiệp hiện đại, dẫn đến ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước nói chung. Vì vậy, việc phát triển nguồn lực con người
của cả nước là hết sức cần thiết, thông qua đó để: đào tạo “người lao động có
trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi
dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa
học – công nghệ hiện đại” [20, tr.9] nhằm thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa thắng lợi.
Hai là, con người là chủ thể của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Dù ở bất cứ lĩnh vực, hay quá trình nào của đời sống kinh tế - xã hội,
xét đến cùng con người luôn giữ vị trí trung tâm điều hành, chi phối. Quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra cũng không nằm ngoài quy luật
đó. Thực tế cho thấy, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa không thể thành
công nếu thiếu nguồn lực con người về cả phương diện số lượng, chất lượng
và cơ cấu hợp lý. Bởi chính con người là lực lượng duy nhất có khả năng phát
hiện, xác định đúng mục tiêu, nội dung, và hình thức, bước đi và đề ra những
giải pháp thích hợp để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra với tốc độ nhanh chóng hay chậm chạp
là do phụ thuộc vào những điều kiện đặc thù riêng có của từng quốc gia, dân
tộc và nhiều nguồn lực khác, còn phụ thuộc vào yếu tố quan trọng và quyết
định đó là năng lực của con người, vào chất lượng của công nghiệp hóa, hiện
19
đại hóa. Bởi vì, cùng với quá trình khai thác, sử dụng các nguồn lực tự nhiên,
nguồn lực khoa học - công nghệ, nguồn vốn, nguồn lực con người thì nguồn
lực con người là quyết định nhất. Những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác
có hiệu quả khi nguồn lực con người được phát huy. Chúng ta biết rằng, điều
kiện tự nhiên, khí hậu, địa lý, nguồn vốn có vai trò rất lớn trong sự phát triển
của một quốc gia. Song những yếu tố đó ở dưới dạng tiềm năng, tự chúng là
những khách thể bất động không thể tự phát huy sức mạnh của mình để phát
triển kinh tế - xã hội. Chúng chỉ trở thành nhân tố "khởi động", và phát huy
tác dụng khi kết hợp với nguồn lực con người, nguồn lực tự nhiên và các
nguồn lực khác. Trong đó, con người là chủ thể mọi hoạt động và góp phần
biến đổi để tạo ra các nguồn lực mới.
Mặt khác, trải qua bề dày lịch sử, con người luôn biết đúc kết những
kinh nghiệm, những tri thức để sống, để cải tạo giới tự nhiên, xã hội và cải tạo
chính bản thân mình. Những tri thức và kinh nghiệm đó ngày càng trở lên
phong phú hơn khi mỗi thế hệ đi sau luôn biết cách kế thừa các giá trị của thế

hệ trước để lại và làm phong phú nó bằng cách sáng tạo thêm. Nguồn sức
mạnh này càng được nhân lên khi sự liên kết cộng đồng một cách bền vững
trong phương thức sinh hoạt của mình. Giúp cho nguồn sức mạnh của con
người được phát huy và tận dụng một cách tối đa. Điều này đúng đắn hơn khi
thấy rằng, con người Việt Nam nói chung luôn đoàn kết không chỉ trong quá
trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm và trong quá trình xây dựng đất nước,
trong những hoạt động lao động sản xuất: đắp đê, trị thủy, quai đê lấn biển
của cha ông.
Do đó, con người khi xét dưới góc độ là một nguồn lực thì việc khai
thác và sử dụng nguồn lực này trở lên vô giá vì không hề bị cạn kiệt, trái lại
càng sử dụng nó càng tạo ra được giá trị mới lớn hơn. Nhưng cũng cần lưu ý
rằng sự tái tạo, phát triển không ngừng của nguồn lực con người chỉ có được
20
khi mỗi địa phương, mỗi quốc gia có những chính sách, đường lối phát triển
và sử dụng đúng đắn và hợp lý con người, với nguồn lực con người.
Mặt khác, do tính đặc thù của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
của yêu cầu tăng trưởng phát triển kinh tế bền vững đã xác định rõ vai trò to
lớn của nguồn lực con người. Từ đó, đề ra nhiệm vụ phải đào tạo nguồn lực
con người với các kỹ năng, kiến thức, tay nghề cùng với kinh nghiệm và năng
lực sáng tạo đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
Ngược lại, việc phát triển kinh tế bền vững lại yêu cầu phát triển con người
toàn diện và phải chăm lo cho cuộc sống con người ngày càng hoàn thiện hơn.
Với ý nghĩa đó, nội dung phát triển con người toàn diện đồng thời với việc sử
dụng có hiệu quả nguồn lực con người tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển
kinh tế – xã hội được coi là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của nước ta hiện nay.
Vì vậy, có thể nói phát triển nguồn lực con người trở thành yếu tố quan
trọng nhất có tính chất quyết định đối với sự thành hay bại của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của cả nước ta nói chung trong giai đoạn hiện nay.
Ba là, nguồn lực con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong Đại hội X của Đảng ta chỉ rõ: “Phát huy sức mạnh dân tộc, đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển văn hóa; tiến bộ và
công bằng xã hội, tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối
ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính
trị xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại” [22, tr.76]
21
Để có thể hoàn thành mục tiêu chung của cả nước thì việc coi công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là phương tiện, là phương thức và là điều cần thiết
để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Yêu cầu đặt ra cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay không chỉ vì mục tiêu phát triển
kinh tế thuần túy mà phải vừa đảm bảo tăng trưởng, phát triển kinh tế bền
vững, vừa đồng thời phải đảm bảo tiến bộ và công xã hội. Đảm bảo cho con
người được chăm lo một cách đầy đủ và phát triển một cách toàn diện nhất,
hướng tới việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân địa
phương, đảm bảo con người được chăm sóc, được phát triển một cách toàn
diện. Điều đó cũng có nghĩa là cần chú trọng đến việc phát triển nguồn lực
con người chất lượng cao đã qua đào tạo với những kỹ năng, kiến thức, tay
nghề và năng lực sáng tạo.
Trong sự nghiệp đổi mới và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
của đất nước, quan niệm coi con người “vừa là mục tiêu, vừa là động lực” của
sự phát triển kinh tế - xã hội đã trở lên phổ biến. Phát triển nguồn lực con
người được coi là một bộ phận hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội và cũng là động lực cơ bản của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của nước ta hiện nay. Động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là những gì thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vận động và
phát triển. Khi đề cập đến vai trò của nguồn lực con người là một trong những

động lực quan trọng nhất của toàn bộ quá công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
chủ yếu nói đến sức mạnh thể chất và khả năng lao động sáng tạo của con
người. Khả năng sáng tạo là nguồn tiềm năng vô tận của con người. Bởi vì,
khi chúng ta càng sử dụng nó càng phát triển và phong phú hơn.
Kinh nghiệm thành công và những thất bại của những nước tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho thấy điều đó. Nhật Bản và các nước công
nghiệp mới (NICs) ở châu Á là những minh chứng điển hình khi đề cao
22
nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vấn đề
quan trọng ở chỗ, bên cạnh việc chú trọng đến ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ
thuật, công nghệ hiện đại và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, những nước đó
còn biết khơi dậy, phát huy năng lực trí tuệ và sức sáng tạo vô hạn của con
người. Vì vậy, để thúc đẩy kinh tế phát triển cần phải chú trọng hơn nữa
nguồn lực con người, coi nó như là nguồn lực nội sinh, là động lực để thúc
đẩy kinh tế - xã hội của phát triển đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của cả nước đặt ra.
Mục đích của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cả nước là
hướng tới nhân dân, đem lại lợi ích cho nhân dân. Vì vậy, phát triển nguồn
lực con người cũng chính là tạo mọi điều kiện thuận lợi để con người được
hưởng thụ những thành quả do công sức của họ đã đóng góp cho xã hội trong
mỗi chặng đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nghĩa là: được chăm lo ngày
càng đầy đủ hơn về đời sống vật chất và tinh thần, tạo ra môi trường thuận lợi
để nhân dân sinh sống và lao động sáng tạo.
1.2.2. Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Nam Định
Nam Định - mảnh đất xứ Nam, quê hương nhà Trần, lừng lẫy hào khí
Đông A. Một mảnh đất có vị thế hết sức đặc biệt trong suốt tiến trình phát
triển của lịch sử Việt Nam. Đó là miền đất văn hiến, “địa linh, nhân kiệt”, nơi
sinh dưỡng nhiều trạng nguyên, khôi nguyên và nhiều trí thức làm rạng danh
non sông đất nước; một vùng văn hoá đặc sắc, hoà quyện và đan xen văn hoá

biển và văn hoá châu thổ, văn hoá bác học và văn hoá dân gian. Mảnh đất Xứ
Nam đất hẹp người đông, đầu sóng ngọn gió đang vươn lên hội nhập vào xu
thế phát triển của đất nước và thời đại.
Cùng với sự phát triển chung của đất nước và thực hiện nhất quán chủ
trương của Đảng đã đề ra, được khẳng định nhiều lần tại các đại hội XIII, IX,
23
X, XI, được thông qua các Hội nghị Trung ương coi: “công nghiệp hóa, hiện
đại hóa là sự nghiệp của toàn dân” [19, tr.85].
Trong nghị quyết Đại hội IX khẳng định: “con người và nguồn nhân
lực là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” [21, tr.201] và “phát huy sức mạnh dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước” [22, tr.76].
Đảng bộ tỉnh Nam Định rất chú ý đến động lực thúc đẩy quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn. Trong định hướng phát triển và nhiệm vụ trọng tâm của các
ngành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội đề ra trong dự thảo Báo cáo chính trị của
Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Nam Định trình Đại hội lần thứ XVIII (nhiệm kỳ
2010 - 2015) có khẳng định: “tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn; phát triển toàn diện các ngành nông nghiệp sản
xuất hàng hóa; tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, kỹ thuật,
quản lý để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và phát triển bền
vững”[37, tr.30].
Điều này cho thấy yêu cầu cấp bách cần đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ là nhu cầu trước mắt mà là xu thế phát
triển lâu dài của địa phương, qua đó nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân. Đồng thời, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng
trên cả nước.
Để thực hiện được những nhiệm vụ trọng tâm đã đề ra đòi hỏi cần phải
tập trung vào xây dựng và phát triển nguồn lực con người mạnh về cả về số

lượng và chất lượng, đồng thời xây dựng một cơ cấu về nguồn lực hợp lý.
Cần “phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ có chất lượng cao, có
cơ cấu trình độ, chuyên môn phù hợp. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học -

×