Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

QUản trị nhân lực đào tạo và phát triển nguồn nhân lực con người Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam..doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.7 KB, 15 trang )

ĐẠI HỌC THĂNG LONG
Khoa Quản lý
TIỂU LUẬN
QUẢN TRỊ NHÂN LỰC
Họ và tên: Nguyễn Thanh Loan
Mã sinh viên: A11281
Đại học Thăng Long Tiểu luận “Quản trị nhân lực”
Hà Nội 4 - 2010
Nguyễn Thanh Loan – A11281 2
Đại học Thăng Long Tiểu luận “Quản trị nhân lực”
Đề tài: Hãy lựa chọn một nội dung trong môn học, trình bày quan điểm của
bạn về nội dung đó? Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam.
MỤC LỤC
1. Học sinh – sinh viên ................................................................................................... 6
2. Công nhân, công chức, viên chức .............................................................................. 7
Nguyễn Thanh Loan – A11281 3
Đại học Thăng Long Tiểu luận “Quản trị nhân lực”
MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa, với những
cơ hội và thách thức chưa từng có. Chưa lúc nào vấn đề phát triển con người và nguồn
nhân lực trở thành vấn đề thời sự nóng bỏng ở nước ta như giai đoạn hiện nay. Nhưng
thực trạng nguồn nhân lực hiện nay khó cho phép tận dụng tốt nhất những cơ hội đang
đến, thậm chí, có nguy cơ khó vượt qua những thách thức, kéo dài sự tụt hậu. . .
Đảng đã khẳng định: “Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người
là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, coi việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và
phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi
công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa”.
Khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghiệp hiện đại phát triển mạnh
mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và trở thành xu thế phổ biến của nhân loại. Khi
công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá mà thực chất là hiện đại hoá lực lượng sản
xuất thì vấn đề Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đóng vai trò rất quan trọng


trong chất lượng nguồn nhân lực của nước ta.
Nguyễn Thanh Loan – A11281 4
Đại học Thăng Long Tiểu luận “Quản trị nhân lực”
I. Tại sao cần phải đào tạo và phát triển nguồn nhân lực?
1. Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam.
Nước ta có nguồn lao động dồi dào, chiếm trên 54% dân số cả nước, với 46,6
triệu lao động. Tuy nhiên, có đến gần 80% người lao động trong độ tuổi từ 20 - 24 khi
tham gia thị trường lao động chưa được đào tạo nghề, hoặc được đào tạo thì còn hạn
chế về kỹ năng nghề nghiệp. Các yếu tố như thể lực, trí lực, tác phong công nghiệp, ý
thức kỷ luật của người lao động cũng còn nhiều vấn đề đáng bàn…
Chất lượng lao động của nước ta tiếp tục thấp, cơ cấu lao động tiếp tục bất hợp lý
ngay từ khi đào tạo khiến thị trường lao động tiếp tục phải tiếp nhận một nguồn nhân
lực không đạt yêu cầu. Đây là thực tế đòi hỏi có giải pháp hữu hiệu để giải quyết.
Thực tế này làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Hiện nay,
chúng ta có nhiều thợ, nhiều kỹ sư, nhưng kỹ sư giỏi và thợ lành nghề ít vì vậy mà
chúng ta chỉ có thể gia công. Kỹ sư sáng tạo ra các sản phẩm, mẫu mã mới còn rất ít.
Đây là thực tế đã kéo dài nhiều năm nay nhưng chưa có giải pháp khắc phục. Doanh
nghiệp “tìm không ra” nhưng nhân lực từ các trường đào tạo lại thừa.
Số lao động tốt nghiệp Đại học chưa xin được việc làm hiện tại vào khoảng 8.000
đến 10.000 người, nhưng số sinh viên ra trường đáp ứng được việc làm cho các doanh
nghiệp chỉ chiếm khoảng 25%, số còn lại phải làm công việc trái ngành nghề đã học
hoặc phải chờ việc.
Chất lượng đào tạo chưa đạt yêu cầu, cơ cấu lao động bất hợp lý chính là “điều
kiện” khiến cho thị trường lao động luôn ở tình trạng thừa mà… thiếu. Chính vì vậy, để
góp phần khắc phục tình trạng này, một trong những yêu cầu cơ bản đặt ra là bên cạnh
việc nâng cao chất lượng đào tạo ở khu vực đại học, cũng cần có quy hoạch chi tiết và
phát triển mạng lưới các trường dạy nghề, đảm bảo đồng bộ về quy mô, cơ cấu ngành
nghề và cấp trình độ đào tạo với quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực, sản phẩm,
doanh nghiệp…
Hiện nay, thị trường lao động của nước ta phát triển tập trung chủ yếu ở các tỉnh,

thành phố lớn, nơi có các khu công nghiệp, khu chế xuất, và ở 3 vùng kinh tế trọng
điểm. Nhiều địa phương khác thì thị trường lao động còn ở mức sơ khai; quy hoạch, kế
hoạch phát triển ngành của các địa phương chưa có sự gắn kết với kế hoạch sử dụng lao
động.
Bài toán chất lượng nguồn nhân lực, hay nói cách khác, nghịch lý “cung thừa”
“cầu thiếu”, đã được đề cập nhiều trong các diễn đàn. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa
có giải pháp hữu hiệu. Để nguồn nhân lực đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nền kinh tế,
tránh tình trạng thiếu nhân lực có chất lượng, nhà trường và doanh nghiệp cần có sự
“bắt tay chặt chẽ” ngay từ khâu đào tạo nhân lực. Khi đó, nhà trường sẽ có kế hoạch
đào tạo đúng với nhu cầu của thị trường. Còn doanh nghiệp chủ động hơn về nguồn
nhân lực cho phát triển sản xuất, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh.
Nguyễn Thanh Loan – A11281 5
Đại học Thăng Long Tiểu luận “Quản trị nhân lực”
2. Nguyên nhân
Không quan tâm và không kế thừa, phát huy những thành tựu giáo dục của nước
ta đã tích lũy được trước đổi mới cũng như những thành tựu của thế giới, không khai
thác lợi thế nước đi sau, thậm chí ít nhiều hoang tưởng, duy ý chí hoặc nhân danh phát
huy sáng tạo đi tìm một con đường riêng, nhưng thực tế là lạc lõng (ví dụ: định thay
bảng chữ cái ABC, abc bằng bảng E,e; tình trạng bất cập của chương trình chuẩn, giáo
án chuẩn; kế hoạch đào tạo 20. 000 tiến sỹ; một số chương trình nghiên cứu K-X; sáng
tác ra học vị phó giáo sư; việc ồ ạt xây dựng trường đại học tại nhiều tỉnh - trong khi đó
bằng đại học của nước ta không được quốc tế công nhận…)
Tiêu cực và chủ nghĩa cơ hội đã bóp méo những ý tưởng, những mong muốn tốt
đẹp dành cho phát triển con người và nguồn nhân lực; làm sai lệch hướng vận dụng
mọi nguồn lực.
Không lường đúng những khó khăn, mâu thuẫn gay gắt giữa một bên là khả năng
cho phép của nguồn lực và một bên là đòi hỏi của phát triển; không lường đúng những
mặt phức tạp và những khó khăn rất đa dạng, sâu xa của lĩnh vực thiết yếu bậc nhất và
rất nhạy cảm này trong đời sống quốc gia, không nhận thức đúng những yếu kém lớn
về năng lực tổ chức và quản lý của bộ máy nhà nước, bệnh thành tích đã làm trầm trọng

thêm tình trạng này.
Tri thức, tầm nhìn và đạo đức nghề nghiệp của nhiều chuyên gia, nhà khoa học,
lãnh đạo và quản lý lĩnh vực phát triển giáo dục và nguồn lực con người, dưới tầm so
với đòi hỏi của nhiệm vụ.
II. Đối tượng đào tạo
1. Học sinh – sinh viên
Số lượng sinh viên trong những năm gần đây phát triển nhanh: năm 2000, cả
nước có 899,5 nghìn người; năm 2002: 1.020 nghìn người; năm 2003: 1.131 nghìn
người; năm 2004: 1.319 nghìn người. Năm 2005: 1.387nghìn người; năm 2006: 1.666
nghìn người… Cả nước đến nay có 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1.131 giáo sư;
5.253 phó giáo sư; 16 nghìn người có trình độ thạc sĩ; 30 nghìn cán bộ hoạt động khoa
học và công nghệ; 52.129 giảng viên đại học, cao đẳng, trong đó có 49% của số 47. 700
có trình độ thạc sĩ trở lên, gần 14 nghìn giáo viên trung cấp chuyên nghiệp, 11. 200
giáo viên dạy nghề và 925 nghìn giáo viên hệ phổ thông; gần 9. 000 tiến sĩ được điều
tra, thì có khoảng 70% giữ chức vụ quản lý và 30% thực sự làm chuyên môn.
Số trường đại học tăng nhanh. Tính đến đầu năm 2007, Việt Nam có 143 trường
đại học, 178 trường cao đẳng, 285 trường trung cấp chuyên nghiệp và 1.691 cơ sở đào
tạo nghề. Cả nước hiện có 74 trường và khối trung học phổ thông chuyên với tổng số
47,5 nghìn học sinh tại 63/64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 7 trường đại học
chuyên. Tỷ lệ học sinh trung học phổ thông chuyên so với tổng dân số của cả nước đạt
0,05%, còn chiếm rất thấp so với thế giới. Cả nước có 1. 568/3. 645 học sinh đọat giải
trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia trung học phổ thông năm học 2007 -2008.
Nguyễn Thanh Loan – A11281 6

×