Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Pháp luật về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LÊ THỊ BÍCH HUỆ



PH¸P LUËT VÒ B¶O HIÓM TÝN DôNG XUÊT KHÈU
ë VIÖT NAM

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Thị Thƣơng Huyền



Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính


chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN



Lê Thị Bích Huệ




LỜI CẢM ƠN


Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới PGS. TS. Nguyễn Thị Thương
Huyền, đã tận tâm hướng dẫn và động viên tôi trong suốt thời gian tôi thực
hiện và hoàn thành bản Luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy giáo, cô giáo đã nhiệt tình
giảng dạy lớp Cao học khóa 16 chuyên ngành Luật Kinh tế, trang bị cho
chúng tôi nhiều kiến thức, kinh nghiệm và tài liệu nghiên cứu để hoàn
thành bản Luận văn này.
Nhân đây, tôi cũng xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn vô hạn
tới Bố, Mẹ, các anh chị em trong gia đình, người thân yêu và bạn bè
của tôi, trân trọng cảm ơn Lãnh đạo cơ quan và các đồng nghiệp ở

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo nhiều điều kiện và giúp đỡ
nhiều ý kiến quý báu trong suốt thời gian theo học lớp Cao học và hoàn
thành bản Luận văn này.


Hà Nội, ngày 13 tháng 5 năm 2014
Học viên



Lê Thị Bích Huệ



MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐÂ
̀
U 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM TÍN DỤNG XUẤT
KHẨU VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TÍN DỤNG XUẤT KHẨU 6
1.1. Lịch sử phát triển bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 6
1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 7
1.2.1. Khái niệm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 7
1.2.2. Đặc điểm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 10
1.2.3. Phân loại bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 11
1.3. Vai trò của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 14
1.4. Các loại rủi ro bảo hiểm 14

1.5. Nguyên tắc bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 15
1.5.1. Các nguyên tắc cơ bản 15
1.5.2. Các nguyên tắc riêng 17
1.6. Mô hình hoạt động của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 20
1.6.1. Mô hình của chính phủ 20
1.6.2. Mô hình của các doanh nghiệp tư nhân được đảm bảo bởi chính
phủ 21
1.6.3. Ngân hàng xuất nhập khẩu 22
1.6.4. Đặc điểm các mô hình hoạt động của bảo hiểm tín dụng xuất
khẩu 22
1.7. Sự khác biệt của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và bảo hiểm
thƣơng mại 25
1.8. Pháp luật về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 27
1.8.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 27
1.8.2. Cấu trúc pháp luật bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 28
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TÍN DỤNG
XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM 31
2.1. Thực trạng hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở Việt Nam 31
2.2. Thực trạng pháp luật về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở Việt Nam 37
2.2.1. Thực trạng quy định về doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh bảo hiểm
tín dụng xuất khẩu 38
2.2.2. Thực trạng quy định về hợp đồng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 50
Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BẢO HIỂM TÍN DỤNG XUÂT KHẨU Ở VIỆT NAM 62
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tín dụng xuất
khẩu ở Việt Nam 62
3.2. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở
Việt Nam 65
3.3. Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu ở Việt Nam 67

3.3.1. Về mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 67
3.3.2. Về phân phối sản phẩm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu qua đại lý bảo
hiểm 70
3.3.3. Về nội dung chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 71
3.3.4. Về điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 72
3.3.5. Về phí bảo hiểm tín dụng xuất khẩu 72
3.3.6. Về thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tín dụng xuất
khẩu 73
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 75
KẾT LUẬN CHUNG 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 79



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BLDS: Bộ luật dân sự năm 2005
KDBH: Kinh doanh bảo hiểm
Luật KDBH: Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000
TDXK: Tín dụng xuất khẩu


1
MỞ ĐÂ
̀
U

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động xuất khẩu không chỉ đóng vai trò to lớn trong việc phát

triển kinh tế mà còn góp phần cải tạo môi trường văn hóa xã hội của một
quốc gia thông qua tạo ra việc làm cho rất nhiều lao động, làm giảm tệ nạn
xã hội, duy trì và bảo vệ nền văn hóa dân tộc…Chính vì thế các quốc gia
luôn sử dụng các chính sách hỗ trợ tích cực để phát triển hoạt động xuất
khẩu của mình. Trong xu thế hội nhập hiện nay, nhu cầu mở rộng thị
trường xuất khẩu đối với các doanh nghiệp Việt Nam là tất yếu. Tuy nhiên,
các doanh nghiệp của chúng ta đang phải cạnh tranh khốc liệt hơn với các
doanh nghiệp nước ngoài. Hơn nữa, kể từ khi gia nhập vào Tổ chức thương
mại thế giới (WTO), rất nhiều chính sách trợ cấp xuất khẩu trước đây
thường được áp dụng của Việt Nam nay đã không còn phù hợp với những
cam kết gia nhập nên không còn được thực hiện nữa. Để có thể vừa bảo vệ
các doanh nghiệp xuất khẩu khi tham gia thương mại quốc tế và không làm
trái với các quy định của WTO, Chính phủ đang từng bước nghiên cứu
,tham khảo các cơ chế, biện pháp hỗ trợ xuất khẩu được WTO công nhận
để áp dụng cho Việt Nam. Một trong các biện pháp đó là bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu.
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một biện pháp được sử dụng rộng rãi
trên thế giới để hỗ trợ xuất khẩu và phòng ngừa các rủi ro thanh toán cho
nhà xuất khẩu. Nó cũng là một công cụ tài trợ thương mại được WTO công
nhận. Với lịch sử hơn 100 năm phát triển, xuất hiện đầu tiên ở các nước
châu Âu đầu thế kỷ trước, hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đã mở
rộng nhanh chóng tại các nước phát triển đặc biệt sau Chiến tranh thế giới
lần thứ hai. Cùng với sự phát triển kinh tế và thương mại quốc tế, rất nhiều


2
nước đang phát triển đã bắt đầu áp dụng hoạt động này thông qua việc hình
thành các cơ quan bảo hiểm tín dụng từ những năm 1960. Cho đến nay,
hoạt động này đã trở thành một phương tiện hỗ trợ xuất khẩu quan trọng
nhất tại nhiều quốc gia trên thế giới.

Ở Việt Nam, bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính trong đó có bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu là một trong những nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân
thọ theo quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (điểm i khoản
2 Điều 7). Ngày 05/11/2010, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số
2011/QĐ- TTg về việc thực hiện thí điểm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
Chương trình thí điểm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu trong giai đoạn 2011 –
2013 với mục tiêu đạt tối đa 3% kim ngạch xuất khẩu được bảo hiểm tín
dụng xuất khẩu. Tuy vậy, số lượng doanh nghiệp biết đến bảo hiểm tín
dụng xuất khẩu và tham gia bảo hiểm tín dụng xuất khẩu chưa nhiều. Có
thể nói, hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở nước ta chưa đáp ứng
được nhu cầu của hoạt động xuất khẩu. Trong khi đó, hành lang pháp lý là
nhân tố vĩ mô ảnh hưởng lớn đến hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu,
do đó, việc nghiên cứu pháp luật về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là hết sức
cần thiết trong bối cảnh hiện nay nhằm thúc đẩy và phát huy vai trò của bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu. Đó chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Pháp
luật về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở Việt Nam” làm đề tài luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu pháp luật về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở Việt
Nam hiện nay mới chỉ được đề cập dưới dạng các bài viết được đăng tải rải
rác trên các tạp chí như bài “Có cần thiết thành lập một tổ chức bảo hiểm
tín dụng xuất khẩu tại Việt Nam hay không?” đăng trên Tạp chí Ngân hàng,
số 3 (2005), tr. 57 – 60. Trong bài viết này, tác giả Đỗ Quốc Hưng đã tổng


3
kết các mô hình hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu trên thế giới, nêu
lên sự cần thiết thành lập tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và những
điều cần lưu ý khi thành lập tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tại Việt
Nam; hoặc dưới hình thức các ý kiến tản mạn của các chuyên gia, các đại

diện của cơ quan quản lý nhà nước trong các cuộc trả lời phỏng vấn của các
cơ quan báo chí như cuộc phỏng vấn ông Trịnh Thanh Hoan – Cục trưởng
Cục Quản lý, Giám sát Bảo hiểm, Bộ Tài chính về chương trình thí điểm
bảo hiểm tín dụng xuất khẩu trong giai đoạn 2011 – 2013 đăng trên Tạp chí
Tài chính Điện tử số 92 ngày 15/2/2011 của Minh Hiếu (Minh Hiếu:
“Phỏng vấn ông Trịnh Thanh Hoan với chuyên mục: Bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu ở Việt Nam – những điều cần biết,
). Theo đó, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là
một loại hình của bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính – thuộc nghiệp vụ
kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ. Cuộc phỏng vấn
cũng đề cập tới các điều kiện để doanh nghiệp bảo hiểm được lựa chọn
triển khai bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
Vì vậy, đề tài “Pháp luật về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở Việt
Nam” là một đề tài độc lập và không trùng lặp với các đề tài đã được
nghiên cứu từ trước đến nay. Tuy nhiên, tác giả luôn có ý thức kế thừa, học
hỏi những kết quả mà các công trình khoa học, các bài viết và các ý kiến
của các chuyên gia có liên quan đến đề tài trong quá trình thực hiện đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm làm sáng tỏ những cơ sở lý
luận của pháp luật về bảo hiểm tín dụng; đánh giá thực trạng pháp luật về
bảo hiểm tín dụng xuất khẩu để từ đó đưa ra những kiến nghị góp phần
hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở Việt Nam.
Để thực hiện mục đích trên, Luận văn có những nhiệm vụ sau đây:


4
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về bảo hiểm tín dụng xuất
khẩu và pháp luật bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở
Việt Nam.

- Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tín dụng xuất
khẩu ở Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, các
quy định pháp luật về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
Về phạm vi nghiên cứu đề tài, luận văn tập trung nghiên cứu
những vấn đề lý luận về pháp luật bảo hiểm tín dụng xuất khẩu mà
không đề cập sâu tới thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu ở Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp được luận văn sử dụng để nghiên cứu là các phương
pháp phổ biến để nghiên cứu luật học đặt trên phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, đó là: Phương pháp phân tích và so sánh
luật, phương pháp diễn dịch và phương pháp tổng hợp. Bên cạnh đó, luận
văn khai thác tài liệu sẵn có là các bài viết, các kết quả nghiên cứu của các
tác giả đã nghiên cứu trong những lĩnh vực có liên quan đến đề tài.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về
bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và pháp luật bảo hiểm tín dụng xuất
khẩu.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở
Việt Nam hiện nay.


5
- Đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu , kết luâ
̣

n các chương, kết luận chung và tài liệu
tham kha
̉
o, Luận văn gồm 3 chương như sau:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
và pháp luật về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
ở Việt Nam
Chƣơng 3: Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về
bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở Việt Nam


6
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM TÍN DỤNG XUẤT KHẨU
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TÍN DỤNG XUẤT KHẨU

1.1. Lịch sử phát triển bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
Vào giữa thế kỷ 18, hoạt động bảo hiểm TDXK sơ khai được hình
thành tại châu Âu. Ban đầu, nó có nguồn gốc từ hoạt động bảo hiểm cho
các rủi ro tín dụng nội địa ở Pháp, Đức và Thụy Sĩ. Tuy nhiên, cho đến
cuối thế kỷ 18, bước ngoặt đầu tiên đánh dấu cho sự ra đời của hoạt động
này là yêu cầu bảo hiểm của một thương nhân Anh xuất khẩu hàng hóa đến
Úc. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, với mục tiêu phát triển và bảo vệ
các nguồn lợi từ nước ngoài, kích thích nguồn lao động trong nước thông
qua việc mở rộng xuất khẩu, rất nhiều nước châu Âu đã bắt đầu hỗ trợ
chính thức cho việc hình thành các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm
TDXK. Hoạt động bảo hiểm TDXK có sự hỗ trợ của chính phủ đầu tiên
xuất hiện năm 1919, khi chính phủ Anh thành lập Cục bảo lãnh TDXK
ECGD để khuyến khích các thương nhân Anh xuất khẩu sang các thị

trường nước ngoài như Úc. Để xúc tiến hoạt động xuất khẩu, chính phủ
Đức đã xây dựng kế hoạch phát triển hoạt động bảo hiểm TDXK năm 1962
và giao hoạt động này cho doanh nghiệp bảo hiểm tư nhân Hermes thực
hiện. Pháp cũng hình thành doanh nghiệp bảo hiểm ngoại thương Pháp
(COFACE) chuyên các giao dịch bảo hiểm TDXK và hiện nay, COFACE
đã trở thành một trong các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm TDXK lớn
nhất thế giới [26].
Sau hơn 100 năm phát triển, hoạt động bảo hiểm TDXK đã được
công nhận trên toàn thế giới như một công cụ tài chính hỗ trợ hoạt động
xuất khẩu của các quốc gia. Gần 43 nước và vùng lãnh thổ đã thành lập các


7
doanh nghiệp bảo hiểm TDXK, đặc biệt các doanh nghiệp này hầu hết đều
nhận được hỗ trợ hoàn toàn bởi chính phủ các nước. Phạm vi của hoạt động
bảo hiểm TDXK ngày càng được mở rộng, rất nhiều hoạt động xuất khẩu
của các doanh nghiệp trên thế giới đã được bảo hiểm, điều đó góp phần hỗ
trợ sự phát triển của nhiều ngành tại nhiều quốc gia [42, tr. 280].
Bảo hiểm TDXK đầu tiên vẫn được điều hành bởi chính phủ. Đến
thập kỷ 90, khi các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm TDXK đã có đủ
kinh nghiệm và thị trường bảo hiểm TDXK đã có bước phát triển đáng kể
thì xu hướng tư nhân hóa và thương mại hóa hoạt động bảo hiểm TDXK ở
các quốc gia phát triển đã tăng rất nhanh. Bảo hiểm tín dụng thương mại
đã dần trở thành khuynh hướng chủ đạo của toàn bộ hệ thống bảo hiểm
TDXK. Bảo hiểm tín dụng định hướng chính sách chủ yếu bảo hiểm cho
các rủi ro mà bảo hiểm thương mại không có khả năng và không bảo hiểm.
Hoạt động này có ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng xuất khẩu và sẽ giữ vai
trò không thể thay thế trong tương lai [42,tr. 281].
1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
1.2.1. Khái niệm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu

Căn cứ vào bản thân tên gọi của mình, bảo hiểm TDXK liên quan
đến ba lĩnh vực là xuất khẩu, tín dụng và bảo hiểm. Do đó, hoạt động bảo
hiểm TDXK có đặc thù về mục tiêu, đối tượng và phương thức hoạt động
của cả ba lĩnh vực này.
Tín dụng là mối quan hệ kinh tế phát sinh trong điều kiện sản xuất
hàng hóa và lưu thông tiền tệ dưới dạng hàng hóa với hình thức là thanh
toán trả chậm hoặc các khoản vay và các khoản giá trị này sẽ được thanh
toán sau. Tín dụng ra đời cùng với sự ra đời của hàng hóa và sở hữu cá
nhân. Với điều kiện kinh tế và xã hội phát triển, một số người có nhiều tiền
dư thừa trong khi những người khác không có tiền để phục vụ cho các nhu


8
cầu sinh hoạt, sản xuất kinh doanh của mình. Trong bối cảnh này, tín dụng
đã được ra đời. Chức năng lưu thông của tiền tệ tách biệt việc chuyển giao
quyền sở hữu hàng hóa và thanh toán [45, tr. 89].
Khác với tín dụng, bảo hiểm tín dụng xuất hiện rất lâu kể từ khi
hệ thống tín dụng được hình thành và phát triển. Nhất là sau cuộc
khủng hoảng tín dụng xuất hiện, rất nhiều khoản tín dụng không được
thanh toán. Do đó, việc xây dựng một hệ thống kinh tế để bồi thường
những tổn thất cho các chủ nợ là cần thiết. Trên cơ sở này, bảo hiểm tín
dụng trở thành một chính sách bảo hiểm gắn với từng khoản vay cụ thể
hoặc một loạt các khoản tín dụng nhằm mục đích bồi hoàn lại một phần
hoặc tất cả tổn thất của chủ nợ, khi có những rủi ro xảy ra cho khách nợ
như bệnh tật, mất mát hoặc thất nghiệp. Tín dụng xuất hiện trước hết ở
trong các quốc gia trong khi bảo hiểm tín dụng xuất hiện cùng với sự
phát triển của thương mại quốc tế.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của thương mại quốc tế, hoạt
động tín dụng toàn cầu trở thành hoạt động vô cùng cần thiết và là mối
quan tâm của tất cả các bên liên quan trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa,

dịch vụ. Bảo hiểm TDXK (Export Credit Insurance – ECI) là hình thức bảo
hiểm phi lợi nhuận được hỗ trợ bởi nguồn tài chính quốc gia, nhằm thúc
đẩy sự phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, công nghệ, lao
động và vốn đầu tư của quốc gia đó, góp phần tạo công việc làm, kích thích
tăng trưởng kinh tế, thu hút được ngoại tệ từ nước ngoài và bảo vệ sự an
toàn cho các doanh nghiệp xuất khẩu có thể thu hồi vốn đầu tư của mình.
Bảo hiểm TDXK hay còn được gọi là bảo hiểm ngoại thương ở một
số nước, là một thỏa thuận bảo hiểm giữa người bảo hiểm (các doanh
nghiệp bảo hiểm hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm TDXK) và người được
bảo hiểm (nhà xuất khẩu, người cung cấp tín dụng cho người mua nước


9
ngoài) trong việc xuất khẩu hàng hóa, công nghệ và lao động, trong các
hợp đồng kỹ thuật với nước ngoài và trong một số hoạt động kinh tế có liên
quan khác. Theo thỏa thuận này, người được bảo hiểm trả một khoản phí
cho người bảo hiểm và người bảo hiểm sẽ bồi thường cho các tổn thất kinh
tế của người được bảo hiểm mà nguyên nhân là do rủi ro tín dụng của
người mua hoặc các rủi ro chính trị hoặc do các nhân tố vượt ngoài tầm
kiểm soát của người mua sau khi người được bảo hiểm bán, xuất khẩu hàng
hóa và chấp nhận cho người mua mua chịu [56, tr. 84 – 85].
Tóm lại, có thể hiểu đơn giản Bảo hiểm TDXK là dịch vụ bảo vệ và
bồi thường cho người xuất khẩu khi họ cấp tín dụng thương mại (bán trả
chậm) hoặc bảo vệ và bồi thường cho các ngân hàng khi ngân hàng cho
vay trung – dài hạn.
Một điểm đáng chú ý ở đây là bảo hiểm TDXK rất dễ nhầm lẫn với
hoạt động bảo lãnh TDXK. Bảo lãnh TDXK có thể hiểu là một doanh
nghiệp nhất định được thành lập bởi chính phủ đảm bảo cho các khoản vay
nợ của nhà xuất khẩu hoặc ngân hàng thương mại nước mình cấp cho nhà
nhập khẩu hoặc ngân hàng của nước nhập khẩu. Sau này do các doanh

nghiệp đứng ra cung cấp dịch vụ bảo lãnh phần lớn là các doanh nghiệp
bảo hiểm TDXK nên hoạt động bảo lãnh TDXK dần trở thành một trong
các hoạt động chính của bảo hiểm TDXK. Trong quá trình hoạt động,
người bảo hiểm cung cấp dịch vụ bảo lãnh 100% cho các ngân hàng thương
mại, hay nói cách khác là để khuyến khích các ngân hàng phát hành các
khoản vay cho nhà nhập khẩu. Nhưng hoạt động bảo lãnh này đảm bảo khả
năng thu hồi vốn của nhà xuất khẩu nên về ý nghĩa nó chính là hoạt động
bảo hiểm TDXK. Tuy nhiên, bảo lãnh TDXK thường dùng chung với hoạt
động bảo hiểm TDXK trong các hợp đồng xuất khẩu nên do đó rất khó để
phân biệt được chúng [56, tr. 87].


10
Bảo hiểm TDXK là một loại bảo hiểm thiệt hại (tức là bảo hiểm tài
sản theo nghĩa rộng). Bảo hiểm thiệt hại là loại bảo hiểm có đối tượng bảo
hiểm là tài sản và những lợi ích có liên quan tới tài sản. Loại bảo hiểm này
chủ yếu nhằm mục đích bồi thường tổn thất thực tế của tài sản cho người
tham gia bảo hiểm, nên còn được gọi là “bảo hiểm tài sản”. Có rất nhiều
loại bảo hiểm thiệt hại. Thông thường có thể chia ra thành bảo hiểm thiệt
hại hữu hình và bảo hiểm thiệt hại vô hình. Bảo hiểm thiệt hại hữu hình là
loại bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là tài sản vật chất có hình dáng, kích
thước và trọng lượng như bảo hiểm hỏa hoạn, bảo hiểm tàu biển…Bảo
hiểm thiệt hại vô hình là loại bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là lợi ích vô
hình như bảo hiểm trách nhiệm, bảo hiểm tín dụng…[30, tr. 50, 125 – 126].
1.2.2. Đặc điểm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
Đầu tiên, bảo hiểm TDXK có đặc điểm là rủi ro cao và khó kiểm
soát. Đặc điểm này do đặc thù của các rủi ro mà bảo hiểm TDXK bảo hiểm
quyết định. Với các rủi ro thương mại, do các rủi ro diễn ra ở nước ngoài,
nên bảo hiểm TDXK có nhiều rủi ro hơn bảo hiểm tín dụng và hàng hóa
trong nước. Ngoài ra, các rủi ro chính trị thường diễn ra bất ngờ và vượt

quá tầm kiểm soát của nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu. Do đó, các rủi ro
của bảo hiểm TDXK thường bất định và không theo một quy tắc cụ thể. Vì
vậy, bảo hiểm TDXK là ngành có độ rủi ro cao.
Đặc điểm thứ hai của bảo hiểm TDXK là hoạt động liên quan
đến chính sách và không nhằm mục tiêu tạo ra lợi nhuận. Các nước đều
ngầm hiểu là hoạt động này không để tạo ra lợi nhuận và nguyên tắc của nó
là giúp cả hai bên xuất khẩu và nhập khẩu đều được đảm bảo quyền lợi.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các doanh nghiệp cấp bảo hiểm
TDXK bỏ qua hiệu quả kinh tế, ngược lại chính đặc thù rủi ro cao buộc các


11
doanh nghiệp này phải kiểm soát các rủi ro một cách chặt chẽ, đẩy mạnh
quản lý và đảm bảo hoạt động bảo hiểm này vận hành hiệu quả.
Đặc điểm thứ ba của bảo hiểm TDXK là chính phủ tham gia vào
việc quản lý hoạt động này. Mục tiêu hoạt động, phạm vi bảo hiểm và đối
tượng được bảo hiểm của hoạt động bảo hiểm TDXK yêu cầu có sự hỗ trợ
và tham gia của chính phủ. Chính phủ quản lý và hỗ trợ hoạt động bảo
hiểm này thông qua việc hỗ trợ về tài chính, điều chỉnh và quản lý hoạt
động bảo hiểm TDXK thông qua việc thực thi luật và quy định cụ thể, tham
gia vào việc đưa ra các quyết định hoạt động quan trọng, đưa ra các chính
sách ưu tiên…
Hoạt động bảo hiểm TDXK mang tính định hƣớng thị trƣờng.
Mặc dù các giao dịch của các doanh nghiệp bảo hiểm cấp bảo hiểm TDXK
là dựa trên chính sách, chính phủ vẫn yêu cầu có sự quản lý của các doanh
nghiệp bảo hiểm. Đây là một lợi thế của bảo hiểm TDXK. Hoạt động mang
tính định hướng thị trường có thể cải thiện khả năng chống lại các rủi ro
của các doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh bảo hiểm TDXK, cải thiện cơ
chế quản lý rủi ro của các doanh nghiệp này, giúp doanh nghiệp giảm hoặc
tránh được các tổn thất không cần thiết. Khi lợi ích kinh tế của các doanh

nghiệp bảo hiểm kinh doanh bảo hiểm TDXK tăng, phí bảo hiểm có thể
giảm và hoạt động bảo hiểm này hỗ trợ hiệu quả hơn cho các hoạt động
xuất khẩu. Ngoài ra, nguyên tắc hoạt động thị trường có thể giúp các doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm TDXK cải thiện ý thức dịch vụ trong các
doanh nghiệp này, nhằm đưa ra các dịch vụ với chất lượng cao hơn cho nhà
xuất khẩu.
1.2.3. Phân loại bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
Trong gần một thế kỷ, bảo hiểm TDXK đã có những bước phát triển
đáng kể. Các hình thức bảo hiểm trở nên đa dạng hơn, phạm vi bảo hiểm


12
rộng hơn và cơ chế hoạt động linh hoạt hơn nhiều. Theo cách phân loại
chung của quốc tế thì bảo hiểm TDXK có thể gồm có các hình thức sau:
 Căn cứ vào thời hạn tín dụng, bảo hiểm TDXK được chia thành: (i)
Bảo hiểm TDXK ngắn hạn; (ii) bảo hiểm TDXK trung và dài hạn.
Bảo hiểm TDXK ngắn hạn có thời hạn tín dụng dưới 180 ngày, loại
hình này áp dụng chủ yếu cho hoạt động xuất khẩu hàng hóa là nguyên vật
liệu, hàng hóa tiêu dùng.
Bảo hiểm TDXK trung hạn có thời hạn từ 180 ngày đến 3 năm trong
khi bảo hiểm TDXK dài hạn có thời hạn dài hơn 3 năm. Cả hai loại hình
bảo hiểm này áp dụng cho các hàng hóa là công cụ sản xuất như máy móc,
thiết bị…
 Căn cứ vào thời điểm bắt đầu và kết thúc của phạm vi trách nhiệm
bảo hiểm, bảo hiểm TDXK có thể chia thành: (i) Bảo hiểm TDXK
trước khi giao hàng; (ii) Bảo hiểm TDXK sau khi giao hàng.
Bảo hiểm TDXK trước khi giao hàng hay cũng được gọi là bảo
hiểm TDXK trong quá trình sản xuất có đặc điểm là phạm vi trách nhiệm
bảo hiểm của nó bắt đầu vào ngày hợp đồng có hiệu lực và kết thúc vào
ngày giao hàng hóa. Hình thức này chủ yếu bảo hiểm cho các chi phí

thiết kế, sản xuất, vận chuyển hàng hóa của người xuất khẩu sau khi ký
hợp đồng bảo hiểm.
Bảo hiểm TDXK sau khi giao hàng có phạm vi trách nhiệm bảo hiểm
bắt đầu vào ngày giao hàng hóa và kết thúc vào ngày kết thúc của hợp đồng
bảo hiểm, và nó chủ yếu bảo hiểm cho việc không nhận được thanh toán từ
phía nước ngoài của nhà xuất khẩu do các rủi ro về chính trị và rủi ro
thương mại sau khi hàng hóa đã được giao.
 Căn cứ theo phạm vi bảo hiểm, thì bảo hiểm TDXK gồm: (i) Bảo
hiểm TDXK toàn diện; (ii) Bảo hiểm TDXK theo từng trường hợp


13
cụ thể; (iii) Bảo hiểm TDXK theo hình thức thanh toán L/C; (iv) Bảo
hiểm TDXK theo đơn được chọn.
Bảo hiểm TDXK toàn diện bảo hiểm cho toàn bộ hoạt động xuất
khẩu của nhà xuất khẩu và nó được áp dụng cho hầu hết các loại hàng hóa
và các hoạt động xuất khẩu thường xuyên trong một thời gian ngắn.
Bảo hiểm TDXK theo từng tường hợp cụ thể áp dụng chủ yếu cho
hoạt động xuất khẩu các hàng hóa là công cụ sản xuất của một giao dịch
hoặc hoạt động xuất khẩu của một người mua cụ thể.
Bảo hiểm TDXK theo hình thức thanh toán L/C chỉ các loại bảo hiểm
cho các rủi ro của các ngân hàng phát hành L/C.
Bảo hiểm TDXK theo đơn được chọn bảo hiểm cho các hoạt động
xuất khẩu mà không thanh toán bằng L/C và trả trước.
 Căn cứ vào hình thức tài trợ của ngân hàng cho các hoạt động
thương mại thì bảo hiểm TDXK bao gồm: (i) Bảo hiểm tín dụng cho
người bán; (ii) Bảo hiểm tín dụng cho người mua.
Bảo hiểm tín dụng cho người bán áp dụng cho các hợp đồng xuất
khẩu mà người bán sử dụng các khoản vay ngân hàng.
Bảo hiểm tín dụng cho người mua áp dụng cho các hợp đồng xuất

khẩu mà người mua sử dụng các khoản vay ngân hàng để thực hiện hợp
đồng này.
 Căn cứ vào loại rủi ro được bảo hiểm thì bảo hiểm TDXK gồm: (i)
Bảo hiểm chỉ cho rủi ro chính trị; (ii) Bảo hiểm chỉ cho rủi ro thương
mại; (iii) Bảo hiểm cho cả rủi ro chính trị và thương mại; (iv) Bảo
hiểm cho rủi ro trao đổi ngoại tệ.
 Căn cứ vào mục đích khác nhau của hợp đồng ngoại thương, bảo
hiểm TDXK gồm: (i) Bảo hiểm cho hàng hóa giữ tại kho ở nước
ngoài; (ii) Bảo hiểm cho việc gia công ở nước ngoài; (iii) Bảo hiểm


14
cho hoạt động triển lãm tại nước ngoài; (iv) Bảo hiểm cho hoạt dộng
đầu tư nước ngoài.
Cùng với sự phát triển của hoạt động bảo hiểm TDXK, các sản phẩm
bảo hiểm TDXK đã được cải tiến và thay đổi cho phù hợp hơn. Chính phủ
và các doanh nghiệp ngày càng nhận thức vai trò quan trọng của bảo hiểm
TDXK này trong hoạt động ngoại thương.
1.3. Vai trò của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
Bảo hiểm TDXK là một giải pháp phòng ngừa rủi ro, đảm bảo an
toàn tài chính cho doanh nghiệp xuất khẩu khi thực hiện xuất khẩu hàng
hóa và dịch vụ, qua đó góp phần đảm bảo an toàn tài chính trong hoạt động
thương mại của quốc gia.
Đối với các doanh nghiệp, bảo hiểm TDXK giúp bảo vệ tài chính
cho nhà xuất khẩu trong trường hợp nhà nhập khẩu mất khả năng thanh
toán; tăng khả năng tiếp cận và đa dạng hóa thị trường tiêu thụ trên thế
giới. Bảo hiểm TDXK đặc biệt cần thiết đối với doanh nghiệp xuất khẩu
sang các thị trường mới, đối tác mới, thị trường có tính rủi ro cao như bất
ổn về chính trị, hệ thống luật pháp chưa rõ ràng, có xung đột vũ trang [1].
Đối với các quốc gia, bảo hiểm TDXK đóng vai trò thúc đẩy tăng

trưởng kim ngạch xuất khẩu từ sự phát triển hoạt động tín dụng xuất khẩu
an toàn, hiệu quả nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, tạo ra việc làm, tăng thu ngoại
hối để cải thiện cán cân thương mại quốc tế [1].
1.4. Các loại rủi ro bảo hiểm
Bảo hiểm TDXK giúp các doanh nghiệp cũng như ngân hàng cấp tín
dụng tránh được các rủi ro xảy ra đối với khoản tín dụng, đó là các loại rủi
ro: (i) Rủi ro thương mại; (ii) Rủi ro chính trị.
Rủi ro thương mại là các rủi ro phát sinh nợ khó đòi cho nhà xuất
khẩu và ngân hàng nhà xuất khẩu gây ra bởi việc mất khả năng thanh toán


15
của nhà nhập khẩu, hay do sự trì hoãn hoặc từ chối thanh toán các khoản nợ
đến hạn có chủ đích của nhà nhập khẩu. Rủi ro thương mại phần lớn là do
sự mất khả năng trả nợ của nhà nhập khẩu do nhà nhập khẩu bị phá sản,
doanh thu không có, hoặc do quản lý kém, không có khả năng trả nợ kéo
dài và không có khả năng thực hiên nghĩa vụ hợp đồng mà nguyên nhân là
do các tranh chấp hợp đồng gây ra [46, tr.102].
Rủi ro chính trị là các rủi ro gây ra bởi diễn biến chính trị của chính
phủ của các bên trong hoạt động thương mại đầu tư tài chính quốc tế và nó
không phải là lỗi của các bên tham gia hợp đồng. Rủi ro chính trị chủ yếu
là sự hạn chế trong việc trao đổi ngoại tệ của chính phủ, sự thay đổi chính
sách thuế, quốc hữu hóa, trưng thu tài sản, chiến tranh, tình trạng bất ổn
chính trị, khủng hoảng kinh tế, thay đổi tỷ lệ trao đổi ngoại tệ, và những
thay đổi khác trong môi trường kinh doanh của một nước. Những rủi ro này
sẽ dẫn đến việc nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán và hậu quả là làm
phát sinh các khoản nợ khó đòi cho nhà xuất khẩu và ngân hàng của nhà
xuất khẩu [46, tr.101].
1.5. Nguyên tắc bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
Bảo hiểm TDXK trước hết là một hình thức bảo hiểm, do đó nguyên

tắc quản lý của nó trước hết tuân theo các nguyên tắc cơ bản của quản lý
bảo hiểm. Ngoài ra, bảo hiểm TDXK là một loại bảo hiểm theo định hướng
chính sách đặc biệt nên nó cũng có các nguyên tắc riêng của mình.
1.5.1. Các nguyên tắc cơ bản
Nguyên tắc “trung thực tuyệt đối”, “quyền lợi có thể bảo hiểm”, “bồi
thường” và “nguyên nhân trực tiếp” được coi như bốn nguyên tắc chung
của bảo hiểm. Chúng là cơ sở của mọi hoạt động bảo hiểm [20, tr. 133 –
137]. Những nguyên tắc này cũng phù hợp với hoạt động bảo hiểm TDXK
và nó giúp hình thành nên nền tảng quản lý của hoạt động này.


16
Nguyên tắc “trung thực tuyệt đối”
Do các rủi ro được bảo hiểm có tính bất thường, nhà bảo hiểm phải
quyết định có nên bảo hiểm hay không và đưa ra các mức phí bảo hiểm
theo thông tin và mức độ đảm bảo lên đối tượng được bảo hiểm mà người
được bảo hiểm cung cấp. Liên quan đến chức năng này của quan hệ bảo
hiểm, Luật yêu cầu sự trung thực tuyệt đối chặt chẽ hơn bất kỳ hoạt động
dân sự nào khác. Là nguyên tắc cơ bản của hợp đồng bảo hiểm, nguyên tắc
này có thể hiểu là tất cả các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm phải được
thỏa thuận dựa trên cơ sở “trung thực tuyệt đối” của cả hai phía, người
được bảo hiểm và người cung cấp dịch vụ bảo hiểm. Người được bảo hiểm
phải có nghĩa vụ thông báo cho nhà bảo hiểm thông tin có ảnh hưởng đến
quyết định của nhà bảo hiểm có chấp nhận các rủi ro này không hoặc có
sửa đổi các điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm không.
Nguyên tắc “quyền lợi có thể bảo hiểm”
Quyền lợi có thể bảo hiểm là quyền lợi đã được thừa nhận của người
được bảo hiểm với đối tượng được bảo hiểm. Quyền lợi này là đối tượng
của hợp đồng bảo hiểm, và người được bảo hiểm phải có được quyền lợi
này nếu đơn bảo hiểm có giá trị. Nguyên tắc “quyền lợi có thể bảo hiểm”

dựa trên quan điểm: một người khi có nhu cầu ký kết một hợp đồng bảo
hiểm là nhằm mục đích tìm kiếm sự bảo vệ trước các tổn thất hơn là để
nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận từ sự tồn tại của đơn bảo hiểm. Khi áp
dụng cho hoạt động bảo hiểm TDXK, nguyên tắc này yêu cầu các quyền
lợi được bảo hiểm phải phù hợp với quyền lợi quốc gia và là quyền lợi kinh
tế chưa thực hiện của nhà xuất khẩu do bị nhà nhập khẩu vi phạm hợp đồng
trong thương mại quốc tế.
Nguyên tắc “bồi thường tổn thất”


17
Bồi thường là sự đền bù cho các mất mát hoặc tổn thất nhất định nào
đó. Nguyên tắc này có thể hiểu là khi người được bảo hiểm chịu các tổn
thất do các rủi ro quy định trong hợp đồng bảo hiểm thì nhà bảo hiểm sẽ
bồi thường cho các tổn thất thực tế của người được bảo hiểm trong một
phạm vi trách nhiệm cụ thể. Theo nguyên tắc này thì bên được bảo hiểm sẽ
được bồi thường cho các tổn thất và đưa người được bảo hiểm sau khi bị
tổn thất trở vệ tình hình tài chính tương tự như trước khi bị tổn thất. Khi áp
dụng cho hoạt động bảo hiểm TDXK, nếu có rủi ro xảy ra, trách nhiệm bồi
thường cao nhất sẽ giới hạn từ 80 đến 90% của các tổn thất thực tế phải
chịu [56, tr. 86].
Nguyên tắc “nguyên nhân trực tiếp”
Trong hợp đồng bảo hiểm, trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm
cho các tổn thất phải dựa vào nguyên nhân duy nhất nào là chính yếu và có
tác động lớn nhất gây ra tổn thất. Nguyên nhân này không nhất thiết là
nguyên nhân gần nhất vào thời điểm xảy ra tổn thất thật sự. Trong bảo
hiểm TDXK, việc bồi thường cho các tổn thất của người được bảo hiểm
của nhà bảo hiểm phụ thuộc đáng kể vào việc xem xét có phải là nguyên
nhân trực tiếp hay không. Theo nguyên tắc này, và trừ khi đơn bảo hiểm
quy định khác, nhà bảo hiểm phải chịu trách nhiệm cho bất cứ tổn thất nào

có nguyên nhân trực tiếp gây ra bởi hiểm họa được bảo hiểm, nhưng, nhà
bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm cho bất cứ tổn thất nào không có
nguyên nhân trực tiếp do hiểm họa được bảo hiểm gây ra.
1.5.2. Các nguyên tắc riêng
Ngoài các nguyên tắc chung của bảo hiểm thương mại, bảo hiểm
TDXK còn có các nguyên tắc riêng sau:
Nguyên tắc tập trung phân bổ và giảm thiểu rủi ro


18
Nguyên tắc này được hiểu là doanh nghiệp bảo hiểm TDXK sẽ áp
dụng một tỷ lệ bồi thường nhất định cho các hoạt động xuất khẩu được bảo
hiểm và áp dụng tái bảo hiểm cho các hoạt động xuất khẩu được bảo hiểm
từng phần. Mặc dù các doanh nghiệp bảo hiểm TDXK là các tổ chức quản
lý rủi ro chuyên sâu, nhưng họ cũng không thể đảm bảo được độ an toàn
chắc chắn trong thanh toán. Để tránh tình trạng các doanh nghiệp xuất khẩu
lệ thuộc hoàn toàn vào các doanh nghiệp bảo hiểm TDXK, hoạt động bảo
hiểm này tuân theo quy tắc tập trung phân bổ và giảm thiểu rủi ro.
Việc áp dụng nguyên tắc này trong hoạt động bảo hiểm TDXK có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Nó là chất xúc tác cho nhà xuất khẩu và các
doanh nghiệp bảo hiểm TDXK hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm kiểm soát
rủi ro và ngăn ngừa các tổn thất.
Nguyên tắc nhận đơn bảo hiểm dựa trên giới hạn về tín dụng của
người mua
Theo nguyên tắc này, rủi ro được bảo hiểm của hoạt động bảo hiểm
TDXK đều do các nguyên nhân chủ quan, trong khi bảo hiểm hàng hóa thì
rủi ro phần lớn là do các yếu tố tự nhiên là nguyên nhân gây nên. Do đó,
bằng sự kiểm soát và quản lý chặt chẽ, những rủi ro có thể được hạn chế
hoặc thậm chí là phòng tránh trước. Các doanh nghiệp bảo hiểm TDXK có
xu hướng xem xét cẩn thận khi chấp nhận các đơn bảo hiểm để có thể kiểm

soát các rủi ro và bảo vệ quyền lợi của cả nhà xuất khẩu và chính mình.
Các doanh nghiệp bảo hiểm TDXK luôn nghiên cứu về tín dụng của người
mua để quyết định liệu có cấp bảo hiểm cho người được bảo hiểm không
và mức độ rủi ro mà mình phải chịu nếu cấp.
Giới hạn về tín dụng của người mua có hai đặc điểm. Một là, giới
hạn tín dụng quyết định mức bồi thường cao nhất, nếu nhà xuất khẩu xuất
khẩu hàng hóa dịch vụ với giá trị vượt quá giới hạn này, thì nhà xuất khẩu


19
phải chịu trách nhiệm cho phần vượt quá này nếu như có tổn thất. Đặc
điểm thứ hai là giới hạn này có thể được sử dụng nhiều lần. Giới hạn tín
dụng người mua được áp dụng bởi nhà xuất khẩu có thể được sử dụng
nhiều lần mà không giới hạn về thời gian, loại hàng hóa được xuất khẩu khi
doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận đơn của nhà xuất khẩu.
Nguyên tắc bảo hiểm toàn bộ
Nguyên tắc này cũng được gọi là “bảo hiểm tất cả”. Theo nguyên tắc
này thì nhà xuất khẩu có nghĩa vụ mua bảo hiểm cho tất cả các hàng hóa
của mình trong phạm vi bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm. Trong hoạt
động bảo hiểm TDXK, mức độ rủi ro cao và sự khó kiểm soát đối tượng
được bảo hiểm là yếu tố quyết định của nguyên tắc này.
Trong thực tế, nguyên tắc này đôi khi vẫn bị vi phạm, do nguyên
nhân từ sự gian lận và che giấu thông tin của nhà xuất khẩu hoặc do sự cố ý
không bảo hiểm của nhà xuất khẩu. Nhà xuất khẩu đôi khi chỉ bảo hiểm
cho những thứ có nguy cơ rủi ro mà không bảo hiểm cho những thứ tương
đối an toàn hơn. Điều đó là nguyên nhân làm phát sinh các tranh chấp trong
hợp đồng bảo hiểm TDXK.
Nguyên tắc thu hồi khoản nợ ở nước ngoài
Nguyên tắc này có nghĩa là khi có tổn thất xảy ra, các doanh nghiệp
bảo hiểm TDXK sẽ thu hồi các khoản nợ từ nhà nhập khẩu, với điều kiện

người chủ nợ không từ bỏ quyền thu hồi khoản nợ với nhà nhập khẩu.
Trong hoạt động bảo hiểm TDXK nếu người được bảo hiểm hay người
mua từ bỏ quyền thu hồi các khoản vay từ người mua của nhà bảo hiểm bị
vi phạm (nếu người bảo hiểm đã bảo hiểm cho tổn thất của người được bảo
hiểm) mà còn quyền lợi của nước xuất khẩu bị ảnh hưởng do chính nước
đó phải gánh chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp bảo hiểm TDXK. Do

×