Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Pháp luật về hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



PHẠM THỊ THU TRANG



PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN CỦA
TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC





Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



PHẠM THỊ THU TRANG




PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN CỦA
TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Võ Đình Toàn

Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN


Phạm Thị Thu Trang











MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 1
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT 2
DANH MỤC BIỂU ĐỒ 5
LỜI MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Phạm vi nghiên cứu 3
4. Phƣơng pháp nghiên cứu 3
5. Tình hình nghiên cứu và tính mới của kết quả luận văn 3
6. Bố cục của đề tài 4
CHƢƠNG 1- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BAO
THANH TOÁN CỦA TỐ CHỨC TÍN DỤNG 5
1.1. Những vấn đề chung về bao thanh toán 5
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm 5

1.1.2. Lợi ích của các bên khi sử dụng bao thanh toán 12
1.1.3. Các loại hình bao thanh toán 20

1.2. Sự cần thiết và nhận diện mô hình pháp luật điều chỉnh quanhệ bao

thanh toán 25
1.2.1. Sự cần thiết về pháp luật điều chỉnh quan hệ bao thanh toán 25

1.2.2. Nhận diện mô hình hoạt động bao thanh toán ở một số nước trên
thế giới và khái niệm pháp luật bao thanh toán 27

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 32
CHƢƠNG 2- THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN HOẠT
ĐỘNG VỀ BAO THANH TOÁN CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG TẠI
VIỆT NAM 33
2.1. Thực trạng pháp luật về hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín
dụng ở Việt Nam 33
2.1.1. Cơ sở pháp lý, các nguyên tắc, phân loại và phương thức bao
thanh toán theo pháp luật Việt Nam 33

2.1.2. Chủ thể của quan hệ bao thanh toán 36

2.1.3. Đối tượng của quan hệ bao thanh toán 39



2.1.4. Hợp đồng bao thanh toán 41

2.1.5. Quyền và nghĩa vụ của các bên 48

2.1.6. Quy trình hoạt động bao thanh toán 52

2.1.7. Phí dịch vụ bao thanh toán 54

2.2. Đánh giá thực trạng hoạt động Bao thanh toán ở nƣớc ta hiện nay . 56

2.3. Một số khó khăn vƣớng mắc trong pháp luật, nghiệp vụ bao thanh
toán của tổ chức tín dụng ở Việt Nam 59
2.3.1. Một số bất cập trong Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN và Quyết
định số 30/2008/QĐ-NHNN 59

2.3.2. Nhận thức về bao thanh toán còn tương đối mới mẻ 61

2.3.3. Chi phí bao thanh toán khá cao gây e ngại cho các doanh nghiệp 61

2.3.4. Sản phẩm bao thanh toán chưa có sức hấp dẫn đối với khách hàng
61

2.3.5. Hạn chế của trình độ hiểu biết về luật pháp, điều ước và tập quán
quốc tế 62

2.3.6. Quan hệ với thị trường nước ngoài còn hạn chế 63

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 64
CHƢƠNG 3 - GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN, NÂNG CAO HIỆU QUẢ
PHÁP LUẬT VÀ NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN CỦA TỔ CHỨC
TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM 65
3.1. Đánh giá những thuận lợi để phát triển hoạt động bao thanh toán ở
Việt Nam hiện nay 65
3.1.1. Bao thanh toán nội địa 65

3.1.2. Bao thanh toán quốc tế 66

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt
động bao thanh toán ở nƣớc ta 68
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật 68


3. 2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nghiệp vụ bao thanh toán
74

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 87
KẾT LUẬN CHUNG 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
BTT : Bao thanh toán (Factoring)
CIC : Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng nhà nước
D/A : Document against Acceptance (Nhờ thu trả chậm)
DN : Doanh nghiệp
D/P
:
Document against Payment (Nhờ thu)
ĐVBTT : Đơn vị bao thanh toán
FCI : Factors Chain International (Mạng lưới Bao thanh toán
quốc tế).
HĐ : Hợp đồng
KH : Khách hàng
KPT : Khoản phải thu
L/C
:
Letter
of
Credit (Thư tín dụng)
NH : Ngân hàng
NHNN : Ngân hàng nhà nước

NHTM
:
Ngân hàng thương mại
NHTMCP
:
Ngân hàng thương mại cổ phần
NK : Nhập khẩu
TSBĐ
:
Tài sản bảo đảm
T/T : Telegraphic Transfer (Chuyển tiền bằng điện)
XK : Xuất Khẩu



DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1. Doanh thu của BTT nước ta từ năm 2005 đến năm 2012
(đơn vị Triệu EUR)…………………………………………………………60
Biểu đồ 2.2. Doanh thu BTT nội địa và BTT quốc tế từ năm 2005 đến
năm 2012 (đơn vị Triệu EUR)…………………………………………… 61














1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ, mục tiêu phát
triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đây là con đường đầy
gian nan và khó khăn, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hoá thì cơ hội và
thách thức càng lớn. Đứng trước những đòi hỏi của nền kinh tế năng động là
sự đòi hỏi một cơ chế hoạt động nhạy bén và chuẩn mực. Do đó, Việt Nam
nói riêng và các nước đang phát triển nói chung cần đưa ra những chính sách
hợp lý và khả thi. Nhất là phải theo kịp các nước phát triển về công nghệ và
dịch vụ.
Đồng thời, với việc mở rộng các mối quan hệ quốc tế song phương và
đa phương, tham gia các tổ chức quốc tế tạo điều kiện cho Việt Nam trong
việc phát triển kinh doanh hàng hóa dịch vụ ngoại thương. Mặt khác, việc
tham gia các tổ chức, các nhóm, khối tài chính quốc tế cũng tạo cho Việt Nam
những áp lực nhất định về nhiều mặt như: hiện đại hóa hệ thống ngân hàng,
lành mạnh hệ thống tài chính,…Hiện tại ở Việt Nam, dịch vụ bao thanh toán
mới được hình thành và chủ yếu là bao thanh toán trong nước. Chính vì thế,
trong quá trình hội nhập, bao thanh toán là một trong những sản phẩm mà
chúng ta phải áp dụng để bắt kịp với tốc độ phát triển chung, đặc biệt là mảng
bao thanh toán quốc tế.
Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng
cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ
việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ đã được bên bán hàng và bên mua
hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Đây

được xem như một hình thức trợ vốn cho người bán hàng nhằm đảm bảo


quyền lợi cũng như nguồn vốn luân chuyển để tiếp tục sản xuất, tránh tình
trạng ứ đọng vốn làm giảm khả năng kinh doanh của bên bán hàng. Với hình
thức cấp tín dụng mới mẻ này, cho phép bên bán hàng có được những quyền
lợi nhất định.
Tuy nhiên, hình thức bao thanh toán manh nha xuất hiện ở nước ta từ
đầu thập niên 90 nhưng phải đến năm 2004 mới chính thức hoạt động ở Việt
Nam sau khi Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước ban hành Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức
tín dụng có hiệu lực, đến nay hình thức này còn khá mới và lạ lẫm đối với
nhiều doanh nghiệp cũng như người dân Việt Nam. Thêm vào đó, các quy
định của pháp luật về phương thức này còn gặp nhiều hạn chế. Vì vậy, sau
khi tìm hiểu tôi xin mạnh dạn nghiên cứu về vấn đề bao thanh toán với đề tài:
“Pháp luật về hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng ở Việt Nam
hiện nay”.
Với trình độ và nhận thức còn hạn chế, đề tài sẽ còn rất nhiều khuyết
điểm, do đó, kính mong Quí thầy cô và các bạn cùng tham gia góp ý để đề tài
được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn./.
2. Mục đích nghiên cứu
Một là, trung nghiên cứu làm rõ lý luận về hoạt đông bao thanh toán
như nguồn gốc, bản chất, quy tắc hoạt động của bao thanh toán. Đây là nền
tảng quan trọng để thực hiện và phát triển hoạt động dịch vụ bao thanh toán ở
nước ta nói riêng và trên thế giới nói chung. Đồng thời, tập trung nghiên cứu
tình hình phát triển hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng trên thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng, từ đó đưa ra được những bài học kinh
nghiệm áp dụng vào nước ta.
Hai là, căn cứ lý luận về bao thanh toán và pháp luật về bao thanh toán



3
đánh giá pháp luật Việt Nam hiện hành về hình thức bao thanh toán, thực
trạng phát triển hoạt động bao thanh toán ở nước ta và tìm ra nguyên nhân,
hạn chế trong hoạt động này ở Việt Nam. Đánh giá khách quan về chính sách
pháp luật điều chỉnh bao thanh toán ơ nước ta, làm rõ những khó khăn, hạn
chế và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bao thanh toán.
Ba là, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
pháp luật về bao thanh toán ở Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ luật học về lý luận và dựa trên các
quy định pháp luật hiện hành gắn với tình hình phát triển dịch vụ bao thanh
toán cũng như pháp luật về bao thanh toán ở một số nước trên thế giới, rút ra
bài học kinh nghiệm áp dụng thực tiễn nước nhà. Đồng thời, luận văn chỉ tập
trung nghiên cứu bao thanh toán tại Ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện
nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được xây dựng dựa trên tổng hoà của các phương pháp nghiên
cứu sau: Phương pháp luận duy vật biện chứng kết hợp với phương pháp
phân - tổng hợp, phương pháp so sánh, thống kê dựa trên tư tưởng Mac -
LêNin.
5. Tình hình nghiên cứu và tính mới của kết quả luận văn
Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng được đưa vào hoạt động
ở Việt Nam chính thức từ năm 2004 đến nay. Với 10 năm ra đời, hoạt động
và phát triển, hoạt động này đã bước đầu thu được những thành quả đáng ghi
nhận và nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả. Ví dụ như
Luận văn thạc sĩ Kinh tế của Nguyễn Thị Thu Hiền với “Phát triển nghiệp vụ
bao thanh toán của ngân hàng công thương tại Việt Nam”, hay đề tài “Tình



hình thực hiện bao thanh toán ở Việt Nam và một số giải pháp để đưa sản
phẩm bao thanh toán ứng dụng vào Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thái Bảo Luân, Tuy nhiên, các tác giả thường
tập trung nghiên cứu nghiệp vụ kinh tế về bao thanh toán của các ngân hàng
thương mại ở nước ta mà chưa chú trọng đến pháp luật điều chỉnh hoạt động
này ở Việt Nam. Trong khi hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh về
nghiệp vụ này còn nhiều hạn chế, chưa thực sự linh động và nhất quán. Chính
vì thế, ở đề tài này tác giả muốn tìm hiểu một cách thống nhất tạo cơ sở tiền
đề nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nghiệp vụ bao thanh toán.
Kết quả nghiên cứu chủ yếu của luận văn là:
Thứ nhất, hệ thống hóa và làm rõ lý luận về bao thanh toán và pháp
luật về bao thanh toán trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm khoa học và kinh
nghiệm xây dựng và thi hành pháp luật về bao thanh toán ở một số nước trên
thế giới.
Thứ hai, đánh giá thực trạng pháp luật về bao thanh toán ở Việt Nam,
làm rõ những bất cập, hạn chế và nguyên nhân cần khắc phục.
Thứ ba, xác định những quan điểm chung và đề xuất giải pháp hoàn
thiện pháp luật về bao thanh toán ở Việt Nam.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Nội dung, Kết luận đề tài được chia làm 3
chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hoạt động bao thanh toán của tổ
chức tín dụng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động bao thanh
toán của tổ chức tín dụng ở Viêt Nam.
Chương 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu


5
quả về nghiệp vụ bao thanh toán của tổ chức tín dụng.

CHƢƠNG 1- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BAO
THANH TOÁN CỦA TỐ CHỨC TÍN DỤNG
1.1. Những vấn đề chung về bao thanh toán
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm
1.1.1.1. Khái niệm
Bao thanh toán (BTT) xuất phát từ đại lý hưởng hoa hồng, những người
thực hiện việc mua bán và luân chuyển hàng hóa khoảng 2000 năm trước
dưới thời đế chế La Mã. Với sự phát triển toàn cầu của ngành công nghiệp
Anh vào thế kỷ 14 và thế kỷ 15 là sự lớn mạnh trong tầm quan trọng của đại
lý BTT. Khi họ dần dần tin cậy vào khả năng trả nợ của người mua trong
nước mà họ giao dịch cùng, họ bắt đầu cấp tín dụng cho người ủy nhiệm mình
để lấy hoa hồng cao hơn. Thực tế là, với khoản hoa hồng nhiều hơn, đại lý
BTT bắt đầu bảo đảm khả năng trả nợ của người mua bằng cách hứa trả cho
người ủy nhiệm trong tương lai, nếu người mua không thể trả nợ đúng hạn do
khả năng tài chính không cho phép. Không lâu trước đó, là kết quả tự nhiên
của việc bảo lãnh tín dụng, đại lý thanh toán có đủ vốn bắt đầu trả trước một
phần (tạm ứng) cho người ủy nhiệm của mình dựa trên khoản thanh toán của
người mua trong tương lai hoặc là của đại lý BTT, nếu người mua không trả
tiền và nếu nó bảo lãnh khoản tín dụng đó của người mua. Do có những
khoản tạm ứng này mà đại lý BTT tính thêm phí hoa hồng hay lãi suất. Thông
thường, để tránh khỏi tình trạng không thanh toán hay thanh toán không đủ do
những vấn đề không thuộc phạm trù tín dụng như là người mua khiếu nại
nguời bán về số lượng, chất lượng hàng hóa hay thời gian giao hàng không
đúng hạn, đại lý BTT không tạm ứng toàn bộ số tiền doanh thu bán hàng.
Thay vào đó, họ sẽ giữ lại một phần để dự trữ phải trả cho người bán cho tới


khi tất cả những sự việc không thanh toán không còn tồn tại nữa. Người mua
thường được thông báo là đại lý BTT đã mua quyền nhận thanh toán của họ.
Vào thời điểm Columbus phát hiện ra Châu Mỹ năm 1492, đại lý BTT đã phát

triển từ vai trò duy nhất với chức năng marketing thành đóng hai vai trò vừa
có chức năng marketing vừa có chức năng tài chính.
Đến cuối thế kỷ 19, một sự thay đổi quan trọng trong thế giới thương
mại đã xảy ra. Mỹ phát triển thành một quốc gia chủ quyền và trở nên ít bị
phụ thuộc vào hàng hóa nước ngoài. Sự phát triển của ngành công nghiệp
trong nước là do dân số và lực luợng lao động trong nước tăng rất nhanh, tài
nguyên thiên nhiên dư thừa, và sự áp đặt biểu thuế gắt gao đối với hàng hóa
nước ngoài. Đồng thời, những nhà sản xuất Mỹ phát triển đội ngũ kinh doanh
(marketing) của mình và vì vậy, nhu cầu chức năng marketing mà trước đây
các đại lý BTT thường thực hiện giảm đi. Tuy nhiên, môt lần nữa, các đại lý
BTT lại phát triển và điều chỉnh theo nhu cầu của nền kinh tế mới trong nước,
tập trung vào tín dụng, thu nợ, kế toán và các chức năng tài chính (thường là
thông báo cho người mua việc bán các khoản phải thu). Việc giao cho các đại
lý BTT thực hiện các chức năng này cho phép các nhà sản xuất ngành dệt của
Mỹ tập trung vào sản xuất và tiếp thị trong thời kỳ phát triển rất nhanh này.
Khi các nhà sản xuất Mỹ mở rộng vào đầu thế kỷ 20 sang các sản phẩm may
mặc và phụ kiện, đồ nội thất và thảm thì các đại lý BTT của Mỹ cũng mở
rộng chuyên môn và dịch vụ sang ngành công nghiệp này.
Đến giữa thế kỷ 20, BTT của Mỹ phát triển sang những ngành công
nghiệp mới đang phát triển như điện, hoá chất, và sợi tổng hợp. Ngày nay, để
làm dịu bớt nhu cầu kiểm soát hàng hóa về mặt vật lý, BTT đã mở rộng sang
nhiều ngành nghề khác như giao nhận, cung cấp nhân sự tạm thời, quảng cáo,
thiết kề đồ họa, Tuy có những tình cảnh đặc biệt này, nhưng chúng ta cũng


7
sẽ thấy một số lượng giới hạn các đại lý BTT cung cấp những dịch vụ của
mình trong những ngành công nghiệp có ảnh hưởng liên quan. [3]
Từ khi manh nha xuất hiện đến nay, hoạt động BTT đã trải qua nhiều
thế kỷ tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, đến năm 1963, cơ quan kiểm soát tiền

tệ công bố bao thanh toán là một hoạt động ngân hàng hợp pháp và các ngân
hàng chính thức đi vào lĩnh vực này và bắt đầu từ năm 1974 thì nghiệp vụ này
mới được công nhận bởi hầu hết ở các nước trên thế giới. Tại Việt Nam từ khi
có Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN về Quy chế hoạt động bao thanh toán
của các tổ chức tín dụng thì hoạt động bao thanh toán mới chính thức được
triển khai tại một số NHTM Việt Nam.Có rất nhiều định nghĩa về bao thanh
toán, sau đây là một số định nghĩa tiêu biểu:
Theo Hiệp hội bao thanh toán thế giới (FCI-Factors Chain
International) bao thanh toán được định nghĩa là một dịch vụ tài chính trọn
gói bao gồm sự kết hợp giữa tài trợ vốn hoạt động, bảo hiểm rủi ro tín dụng,
theo dõi các khoản phải thu và dịch vụ thu hộ. Đó là sự thỏa thuận giữa đơn
vị bao thanh toán và bên bán, trong đó bên bán hàng sẽ chuyển nhượng các
khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán để nhận tiền ứng trước cho các
khoản phải thu đó đồng thời đơn vị bao thanh toán sẽ quản lý và thu hộ các
khoản phải thu đó. Trong trường hợp bao thanh toán miễn truy đòi, nếu bên
mua phá sản hay mất khả năng chi trả thì đơn vị bao thanh toán sẽ thay bên
mua trả tiền cho bên bán. Khi bên mua và bên bán ở hai nước khác nhau thì
dịch vụ này được gọi là bao thanh toán quốc tế. Điều 1 Quy tắc chung về Bao
thanh toán quốc tế của Hiệp hội bao thanh toán quốc tế - General Rules For
International Factoring - FCI nêu khái niệm “Hợp đồng bao thanh toán là hợp
đồng theo đó người bán có thể hoặc sẽ chuyển nhượng các khoản phải thu cho
một đơn vị bao thanh toán có thể với mục đích nhận tài trợ thương mại hoặc


không để nhận được ít nhất một trong các chức năng sau: theo dõi sổ sách
các khoản phải thu, thu hộ các khoản phải thu, bảo hiểm rủi ro nợ xấu”.
Theo Công ước UNIDROIT về Bao thanh toán quốc tế được thông qua
ngày 28/05/1988 tại Ottawa - Canada tại Khoản 2 Điều 1 định nghĩa:
Hợp đồng bao thanh toán là hợp đồng giữa đơn vị bán và đơn vị bao
thanh toán, theo đó người bán có thể hoặc sẽ chuyển nhượng cho các đơn vị

bao thanh toán các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng
hóa/dịch vụ giữa người bán và người mua hàng. Đơn vị bao thanh toán phải
thực hiện ít nhất hai trong bốn chức năng sau:
- Tài trợ cho bên bán bao gồm các khoản vay và thanh toán trước.
- Quản lý các tài khoản liên quan tới các khoản phải thu.
- Thu hộ các khoản phải thu.
- Bảo hiểm rủi ro không thanh toán của con nợ. [17]
Như vậy, so với định nghĩa của Quy tắc chung về Bao thanh toán quốc
tế của Hiệp hội bao thanh toán quốc tế thì Công ước UNIDROIT bổ sung
thêm một chức năng nữa của bao thanh toán là tài trợ cho người bán, bao gồm
việc cho vay lẫn việc ứng tiền thanh toán trước.
Theo Từ điển kinh tế (Dictionary of Economic - Christopher Pass &
Bryan Lones) th ì bao thanh toán là một sự dàn xếp tài chính, qua đó một
công ty tài chính chuyên nghiệp mua lại các khoản nợ của một công ty với số
tiền ít hơn giá trị của khoản nợ đó. Lợi nhuận phát sinh từ sự chênh lệch giữa
tiền thu được của số nợ đã mua và giá mua thực tế của món nợ đó. Lợi ích của
công ty bán nợ là nhận được tiền ngay thay vì phải chờ đến lúc con nợ trả nợ
hơn nữa lại tránh được những phiền toái và các chi phí trong việc theo đuổi
các con nợ chậm trả. [15]


9
Khái niệm này có nội hàm hạn hẹp hơn các khái niệm trên do chưa chỉ
hết được các chức năng của bao thanh toán do đó chưa thấy được hết các tiện
ích mang lại cho người sử dụng bao thanh toán.
Còn theo Từ điển thuật ngữ Ngân hàng - Hans Klaus cho rằng bao
thanh toán là một loại hình tài trợ dưới dạng tín dụng chuyển nhượng nợ. Một
công ty chuyển toàn bộ hay một phần khoản nợ cho một công ty tài chính
chuyên nghiệp (công ty mua nợ, thông thường là một công ty trực thuộc ngân
hàng). Công ty này đảm nhận việc thu các khoản nợ và theo dõi các khoản

phải thu để hưởng thủ tục phí và có lúc ứng trước các khoản nợ. Thông
thường công ty mua nợ phải chịu rủi ro mất khả năng thanh toán của món nợ.
Tại Việt Nam hiện nay văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động bao
thanh toán của tổ chức tín dụng, theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN
ngày 06 tháng 09 năm 2004 về Quy chế hoạt động bao thanh toán của các
TCTD và Quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN sửa đổi bổ sung một số điều của
Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng, định nghĩa: “Bao
thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán
hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa
thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ”[7]. Cũng theo
các Quyết định này các TCTD được thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán là các
tổ chức tín dụng thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng bao
gồm:
- Ngân hàng thương mại nhà nước;
- Ngân hàng thương mại cổ phần;
- Ngân hàng liên doanh;
- Ngân hàng 100% vốn nước ngoài;


- Công ty tài chính;
- Công ty cho thuê tài chính;
- Ngân hàng nước ngoài được mở chi nhánh tại Việt Nam theo Luật
Các tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên, sau khi Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 được ban hành,
tại khoản 17 Điều 4 có quy định “Bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng
cho bên bán hàng hoặc bên mua hàng thông qua việc mua lại có bảo lưu
quyền truy đòi các khoản phải thu hoặc các khoản phải trả phát sinh từ việc
mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo hợp đồng mua, bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ” [1, Điều 4]. Đây được xem như là khái niệm chung nhất

hiện nay tại Việt Nam. Khái niệm này đã mở rộng phạm vi chủ thể trong
BTT, không chỉ gói gọn về “bên mua hàng” mà cả “bên bán hàng” đều có thể
là chủ thể đề nghị, đồng thời đã nêu rõ bản chất của BTT.
Mặc dù có nhiều cách diễn đạt song qua các khái niệm ở trên ta thấy
được một số nét đặc trưng của hoạt động bao thanh toán.
i, Đối tượng của bao thanh toán là các khoản phải thu phát sinh từ việc
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
ii, Trong hoạt động bao thanh toán thông thường sẽ có sự xuất hiện của
ít nhất ba bên là: đơn vị bao thanh toán là NHTM, khách hàng được NHTM
bao thanh toán (bên bán) và con nợ của tổ chức được bao thanh toán (bên
mua). Đối với hoạt động bao thanh toán xuất nhập khẩu, mối quan hệ này sẽ
phức tạp hơn do có hai đơn vị bao thanh toán sẽ đứng ra thực hiện bao thanh
toán, một đơn vị ở nước của nhà xuất khẩu và một đơn vị ở nước của nhà
nhập khẩu. Ngoài ra, khi một khách hàng ký kết hợp đồng bao thanh toán họ
sẽ bán không phải một mà là một số các khoản phải thu từ nhiều khách hàng


11
khác nhau nên hoạt động bao thanh toán có thể có rất nhiều con nợ của tổ
chức được bao thanh toán.
iii, Trong hoạt động bao thanh toán miễn truy đòi, toàn bộ rủi ro của
việc thu tiền hàng từ bên mua đã được chuyển giao từ bên bán sang đơn vị
bao thanh toán.
1.1.1.2. Đặc điểm của bao thanh toán
Dịch vụ bao thanh toán thông thường sẽ có sự xuất hiện của ít nhất ba
bên:
* Đơn vị bao thanh toán: là ngân hàng, công ty tài chính chuyên thực
hiện việc mua bán nợ và các dịch vụ khác liên quan đến mua bán nợ.
Trong nghiệp vụ bao thanh toán quốc tế sẽ có hai đơn vị bao thanh toán, một
đơn vị bao thanh toán tại nước của nhà xuất khẩu và một đơn vị bao thanh

toán tại nước của nhà nhập khẩu.
* Người bán hay nhà xuất khẩu: các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa
hoặc kinh doanh dịch
vụ


những khoản nợ của khách hàng nhưng chưa
đến hạn thanh
toán.

* Người mua hàng hay nhà nhập khẩu: hay còn gọi là người phải trả
tiền, đó chính là người mua hàng hóa hay nhận các dịch vụ cung ứng.
BTT có 3 đặc điểm như sau:
- Đơn vị BTT ứng trước tiền dựa trên các khoản phải thu.
- Đơn vị BTT thu hồi các khoản nợ thay cho khách hàng của mình.
- Đơn vị BTT chịu các rủi ro tín dụng về người mua (trường hợp miễn
truy đòi).


1.1.2. Lợi ích của các bên khi sử dụng bao thanh toán
1.1.2.1. Đối với người bán
Khi tham gia quan hệ bao thanh toán người bán được cải thiện dòng
tiền mặt, được cung cấp nguồn tài chính để đảm bảo hoạt động sản xuất
kinh doanh ổn định. BTT truyền thống cho phép khách hàng vay tiền ngay
lập tức dựa trên số lượng bán hàng của họ, trong khi đồng thời cũng cho
phép khách hàng giữ thời hạn bán hàng bình thường. Kết quả là, dòng tiền
mặt của bên bán hàng tăng do thời hạn bán hàng được duy trì. Điều này
cho phép bên bán được tận dụng lợi thế chiết khấu khi bán hàng, đương đầu
với nhu cầu hàng hóa lưu kho tăng cao và đáp ứng được
những


yêu
cầu tài
trợ mang tính thời vụ. Người bán cũng loại trừ được những khoản nợ xấu.
Nguyên nhân là do đơn vị BTT luôn dự trù một khoản tổn thất tín dụng
phòng trừ khả năng không trả được nợ của bên mua, và có trách nhiệm tư
vấn những rủi ro trong quan hệ mua bán cho bên bán, theo dõi sổ sách thu
hồi công nợ, Vì vậy, bên bán sẽ được bảo vệ khỏi những rủi ro nợ xấu.
Việc này rất có lợi cho bên bán hàng khi quan hệ mua bán được thực hiện ra
khỏi phạm vi một quốc gia hay là đối với những ngành công nghiệp mới.
Người bán có thể giảm chi phí quản lý trong việc theo dõi sổ sách công nợ.
BTT đánh đổi chi phí cố định cao do duy trì hoạt động dự phòng tín dụng và
thu nợ, lấy chi phí bất biến dựa trên khối lượng doanh thu. Ngoài ra, các đơn
vị BTT còn có thể lập các báo cáo quản lý thu nợ và bán hàng mà không
phải khách hàng được bao thanh tóan nào cũng có thể thực hiện được.Người
bán có được những lợi thế nhất định trong kinh doanh và quan hệ thương
mại. Khoản ứng trước của đơn vị BTT trong việc cấp tín dụng và dự trù rủi
ro tín dụng thường cho phép khách hàng giao thêm nhiều hàng hóa cho
người mua hơn. Cũng như vậy, khách hàng có thể chọn lựa gia hạn thời
gian bán hàng cho người mua, cho phép họ tiến hành công việc kinh doanh


13
mới hoặc là tiến hành nhiều phi
vụ
kinh doanh hơn với các khách hàng hiện
tại. Điều đó đồng nghĩa với việc bên bán có thể tận dụng cơ hội kinh doanh
của mình một cách hiệu quả nhất, tạo được nhiều lợi thế trong kinh doanh
và nâng cao tầm ảnh hưởng, uy tín của mình đối với các đối tác. Người bán
có thể giải quyết được nhu cầu cấp bách về vốn nhưng bị hạn chế về tài sản

đảm bảo. Đây có thể được xem là vấn đề rất quan trọng đối với những
quốc gia mà công nghệ NH chưa phát triển đến trình độ cao, việc quyết định
cấp tín dụng hay không phần lớn phụ thuộc vào tài sản đảm bảo
của

khách

hàng. Ở những nước đang phát triển, nhu cầu về vốn họat động đối với các
doanh nghiệp luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên, do trình độ phát
triển NH ở những quốc gia này và không phải
doanh

nghiệp
nào cũng có tài
sản đảm bảo, nên việc NH cấp tín dụng cho doanh nghiệp hoạt động còn
nhiều hạn chế và kéo dài, đôi khi bỏ phí những cơ hội kinh doanh của
doanh nghiệp. Vì vậy, BTT phần nào giải
quyết

được
những hạn chế nêu
trên, các đơn vị BTT sẽ thẩm định các quan hệ mua bán và quyết định có
cấp số tiền ứng trước hay không một cách nhanh chóng. Nguyên nhân là do
các đơn vị BTT thường liên quan nhiều đến khả năng trả nợ của bên mua,
chất lượng của hàng hóa dịch vụ của bên bán hơn là khả năng tài chính của
bên bán và tài sản đảm bảo của họ. [3]
Ngoài ra, người bán có cơ hội tiếp cận với những giao thương quốc
tế mới khi bao thanh tóan được áp dụng rộng rãi, được sự tư vấn của đơn vị
BTT để hạn chế những rủi ro trong quan hệ mua bán với các nước khác tới
mức thấp nhất.

1.1.2.2. Đối với người mua/nhà nhập khẩu
Hiện nay L/C vẫn là phương thức thanh toán được chấp nhận phổ
biến nhất trên toàn cầu,
bảo

đảm
rằng nhà xuất khẩu sẽ cung cấp hàng đúng


như quy định trong L/C và nhà nhập khẩu sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán
của mình. Nhưng nếu hàng đến chậm hay ghé vào nơi không định trước,
không theo lệ thường thì L/C sẽ gây khó khăn rất lớn cho nhà nhập khẩu.
Nói tóm lại, sử dụng bao thanh toán quốc tế, nhà nhập khẩu có những lợi ích
sau đây:
- Được mua chịu hàng dễ dàng; không cần phải mở L/C;
- Tăng sức mua hàng mà vẫn không vượt quá hạn mức tín dụng cho
phép;
- Có thể nhanh chóng đặt hàng mà không bị trì hoãn, không tốn phí
mở L/C, hay phí thương lượng;
- Các cản ngại về ngôn ngữ được giải quyết bởi đơn vị bao thanh
toán, [4]
1.1.2.3. Đối với đơn vị bao thanh toán
Thực hiện nghiệp vụ BTT, các khoản tiền thu được như lãi suất,
phí, là một phần quan trọng giúp doanh thu hoạt động hàng năm của đơn
vị thực hiện BTT tăng lên nhanh chóng. Việc gia tăng doanh thu đồng
nghĩa với việc gia tăng lợi nhuận hoạt động. Trên cơ sở đó, các quỹ trích
lập được gia tăng và nguồn vốn họat động ngày càng được mở rộng. Đây
là điều rất quan trọng đối với các định chế tài chính trung gian. Trên cơ sở
nguồn vốn hoạt động gia tăng, dòng tiền mặt của
đơn


vị
BTT được củng cố,
khả năng đầu tư kinh doanh và tính thanh khoản cao giúp đơn vị BTT có
nhiều chọn lựa trong kinh doanh. Thực hiện nghiệp vụ BTT góp phần tạo
nên sự đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ cho các đơn vị BTT (thông
thường là các NHTM, công ty tài chính,…). Giúp đơn vị thực hiện BTT
không những có nhiều nguồn thu mà còn nâng cao hình ảnh thương hiệu,
tăng sức cạnh tranh của mình. Có thể nhận thấy rằng, hiện tại sản phẩm


15
BTT đã không đơn thuần là một sản phẩm dịch vụ tạo nguồn thu cho NH
mà còn là một yếu tố quan trọng, mang tính “marketing” giúp các NH
nâng cao khả năng cạnh tranh, mục tiêu rất
quan
trọng của ngành nghề NH.
Các đơn vị BTT có thể lọai trừ được các khoản nợ xấu thông qua
việc thực hiện BTT có quyền truy đòi. Ngoài ra, quy trình thực hiện sản
phẩm BTT đều yêu cầu đơn vị BTT xem xét đến khả năng tài chính của
bên bán và bên mua, hoạt động mua bán phải thực hiện đúng những thỏa
thuận và không trái pháp luật; đây là cơ sở vững chắc trong việc thu hồi các
khoản phải thu sau khi đơn vị BTT đã mua lại từ bên bán.
Trên cơ sở ước tính các khoản chi phí liên quan đến sản phẩm dịch
vụ, lợi nhuận mong đợi, kiểm tra tín dụng và chấp nhận rủi ro tín dụng;
các NH sẽ quyết định một tỷ lệ ứng trước phù hợp với từng lần BTT. Điều
này cho phép NH có thể hạn chế những rủi ro tín dụng đến mức có thể.
Thực hiện nghiệp vụ BTT đồng nghĩa với việc NH cung cấp tài chính
để đổi lấy các khoản
phải


thu,
lưu giữ sổ cái bán hàng và tiến hành thu nợ
các hóa đơn bán hàng chưa thanh toán. Nếu thực hiện hoạt động BTT
thường xuyên, NH có thể kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các
khách hàng hiện có, mở rộng quy mô hoạt động và có thể tiếp thị được
những khách hàng tiềm năng trong tương lai. [3]
* Lợi thế của bao thanh toán so với một số hình thức cấp tín dụng
khác:
- Lợi thế của bao thanh toán so với chiết khấu hóa đơn:
Bao Thanh Toán
Chiết khấu hóa đơn
Đối tượng của bao thanh toán
là các khoản phải thu.
Đối tượng của chiết khấu hóa
đơn là hối phiếu và giấy tờ có giá.


Bao Thanh Toán
Chiết khấu hóa đơn
Quan hệ có sự ràng buộc của ba
bên: bên mua, bên bán,và đơn vị bao
thanh toán.
Quan hệ tài trợ mang tính độc
lập có sự ràng buộc giữa hai bên: bên
bán và bên mua.
Bên bán gửi thông báo về hợp
đồng bao thanh toán cho bên mua,
bên mua phải xác nhận đồng ý thanh
toán khoản nợ đó cho Ngân Hàng.

Bên mua thường không được
thông báo về ngân hàng tài trợ khoản
phải thu cho người bán. Người bán
không cần xác nhận đồng ý thanh toán
qua ngân hàng.
Ngân hàng sẽ quản lý sổ sách
bán hàng theo dõi và thu khoản phải
thu cho bên bán hàng
Ngân hàng không quản lý sổ
sách của bên bán, bên bán hàng sẽ trực
tiết quản lý số sách.
Ngân hàng quản lý bên mua
hàng chặt chẽ và ngân hàng sẽ thu hộ
tiền từ bên mua, hoặc phải chịu rủi ro
tín dụng.
Ngân hàng không quản lý bên
mua,vì người bán là người chịu trách
nhiệm cuối cùng về thu nợ từ người
mua.
Việc tài trợ cho bên bán có thể
xét theo hạn mức hoặc từng lần.
Việc tài trợ cho bên bán thường
được áp dụng theo phương thức từng
lần.
Bên bán phải có tài khoản tại
ngân hàng.
Bên bán không cần có tài khoản tại
ngân hàng.
Đối với chiết khấu hóa, ngân hàng không quản lý sổ sách của bên bán,
bên bán hàng sẽ trực tiết quản lý số sách. Do vậy, bên bán phải tốn thêm chi

phí quản lý sổ sách, trong khi đó đối với nghiệp vụ bao thanh toán thì ngân
hàng trực tiếp quản lý sổ sách, theo dõi và thu khoản phải thu cho bên bán


17
hàng, vừa giảm chi phí quản lý số sách mà còn đảm bảo có thể thu hồi được
các khoản phải thu, hạn chế rủi ro tín dụng. Ngoài ra, đối với nghiệp vụ chiết
khấu hóa đơn ngân hàng không quản lý bên mua,vì người bán là người chịu
trách nhiệm cuối cùng về thu nợ từ người mua, trong khi đó đối với nghiệp vụ
bao thanh toán ngân hàng quản lý bên mua hàng chặt chẽ và ngân hàng sẽ thu
hộ tiền từ bên mua, hoặc phải chịu rủi ro tín dụng. Với khoản ứng trước có thể
đạt 80-90% giá trị khoản phải thu, nên đáp ứng nhu cầu tái sản xuất cho người
bán , tiết kiệm được thời gian, tăng nguồn vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh
doanh. Bên cạnh đó khách hàng có thể chủ động trong việc lập kế hoạch tài
chính vì dự đoán được dòng tiền vào. Chiết khấu hóa đơn tính trên giá trị khoản
phải thu, thời gian tài trợ và lãi suất tái chiết khấu nên lãi suất hiệu dụng cao
hơn lãi suất chiết khấu. Còn bao thanh toán lãi tính trên số tiền ứng trước, thời
gian tài trợ và lãi suất. Phí tính trên giá trị khoản phải thu. Chiết khấu được
quyền truy đòi theo pháp luật. Còn bao thanh toán có thể truy đòi hoặc miễn
truy đòi tùy thỏa thuận.
- Lợi thế của bao thanh toán so với đi vay thông thường:
Bao Thanh Toán
Cho vay thông thƣờng
Có với hai chủ thể gắn liền với
khoản tín dụng: Bên bán và bên mua.
Có một chủ thể gắn liền với
khoản tín dụng đó là người đi vay.
Việc cấp hạn mức tín dụng
dựa trên năng lực giữa bên bán và
bên mua.

Việc cấp hạn mức tín dụng
dựa vào năng lực của người đi vay.
Ngân hàng ứng trước tiền cho
người bán dựa trên hóa đơn bán
hàng.
Ngân hàng cấp vốn cho người
đi vay dựa trên tài sản đảm bảo.

×