Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Mở thủ tục phá sản theo pháp luật Việt Nam Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 109 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







NGUYỄN PHƢƠNG ANH




MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60.38.50




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Ngô Huy Cƣơng






HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN


Nguyê
̃
n Phƣơng Anh

MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐÂ

̀
U 1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MỞ THỦ TỤC
PHÁ SẢN 7
1.1. Nhận thức chung về phá sản 7
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm phá sản 7
1.1.2. Khái quát pháp luật phá sản Việt Nam 14
1.1.3. Phân biệt hiện tượng phá sản với giải thể 18
1.2. Những đặc trưng cơ bản của mở thủ tục phá sản 21
1.2.1. Điều kiện mở thủ tục phá sản 21
1.2.1.1. Phạm vi đối tượng được áp dụng quy định mở thủ tục phá sản 21
1.2.1.2. Dấu hiệu xác định tình trạng phá sản 24
1.2.2. Đặc điểm của trình tự mở thủ tục phá sản 28
1.2.2.1. Thủ tục nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 28
1.2.2.2. Thủ tục thụ lý đơn yêu cầu 38
1.2.2.3. Giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản và hậu quả pháp lý 45
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN THEO LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2004 58
2.1. Tình hình thi hành Luật Phá sản ở nước ta trong thời gian qua 58
2.2. Những bất cập trong quy định pháp luật về mở thủ tục phá sản 62
2.2.1. Về phạm vi đối tượng được áp dụng quy định mở thủ tục phá sản 62
2.2.2. Về tiêu chí xác định tình trạng phá sản 64
2.2.3. Về chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 65
2.2.4. Về hậu quả pháp lý của việc thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 67
2.2.5. Về quyết định mở thủ tục phá sản 69
2.2.6. Về quản lý tài sản phá sản sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản 70
2.3. Nguyên nhân những bất cập 73
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN TRONG
PHÁP LUẬT VIỆT NAM 80

3.1. Các phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về mở thủ tục
phá sản với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản 80
3.2. Một số đề xuất kiến nghị góp phần nâng cao hiệu lực quy định
pháp luật về mở thủ tục phá sản 83
3.2.1. Các kiến nghị liên quan đến lập pháp 84
3.2.2. Các kiến nghị liên quan đến việc thực thi Luật Phá sản 94
KẾT LUẬN 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO 103

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới nền kinh tế ở nước ta từ Đại hội Đảng cộng sản
Việt Nam lần thứ VI (1986) đến nay đã đem lại những thành quả tốt đẹp. Từ
khi thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường, ở nước ta đã hình thành nhiều loại hình doanh
nghiệp khác nhau: doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần…Cùng với những thời cơ, nền kinh tế
thị trường đồng thời đã tạo ra những thách thức mới, buộc các doanh nghiệp
phải có kiến thức về kinh doanh cũng như pháp luật để trụ vững trong bối
cảnh kinh tế cạnh tranh đầy khốc liệt.
Trong quá trình cạnh tranh của thị trường, một mặt tạo ra các tiền đề
tích cực cho sự phát triển của nền kinh tế nhưng mặt khác cũng bộc lộ những
mặt trái của nền kinh tế thị trường. Nhiều doanh nghiệp hoạt động có hiệu
quả, là nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước nhưng cũng không ít
những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ đã lâm vào tình trạng
mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và dẫn đến phá sản.
Như vậy, phá sản doanh nghiệp là một hiện tượng thông thường trong
nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh khốc liệt, nó tạo điều kiện loại bỏ các
doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh hoạt động kém hiệu quả và thay vào đó

bằng các doanh nghiệp có hiệu quả hơn, làm lành mạnh và minh bạch môi
trường kinh doanh. Ở Việt Nam Luật phá sản doanh nghiệp được ban hành từ
năm 1993 và có hiệu lực từ năm 1994. Đó là văn bản pháp lý đầu tiên và có
hiệu lực pháp lý cao nhất để điều chỉnh một cách toàn diện, đầy đủ trình tự,
thủ tục phá sản doanh nghiệp. Song trái với mong đợi, Luật Phá sản doanh
nghiệp đã sớm bộc lộ những hạn chế, bất cập, vô tình cản trở việc “ khai tử”
cho các doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản, đi ngược lại mục tiêu
lành mạnh hóa môi trường kinh doanh của Nhà nước.

2
Để khắc phục những hạn chế đó, Luật Phá sản năm 2004 đã ra đời ghi
nhận thêm những cơ chế, chính sách mới nhằm giúp cho việc giải quyết phá
sản ở nước ta được tiến hành nhanh chóng, thuận lợi và đạt hiệu quả cao hơn.
Tuy nhiên, sau 9 năm thi hành trên thực tế cho thấy khả năng thực thi của
pháp luật về mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã cũng như
việc thi hành các quy định này còn hạn chế; tỷ lệ doanh nghiệp, hợp tác xã bị
yêu cầu mở thủ tục phá sản còn ít, chưa phản ánh đúng thực trạng tài chính
thực tế của các chủ thể kinh doanh.
Tình hình đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân
quan trọng nhất là nguyên nhân về mặt pháp lý. Mặc dù, Luật Phá sản năm
2004 có một bước tiến đáng kể về mặt lập pháp, song hiện nay còn thiếu
những văn bản hướng dẫn thi hành, đặc biệt là các quy định về mở thủ tục phá
sản. Thực tiễn cho thấy, việc mở thủ tục phá sản hiện nay ở nước ta còn đang
gặp nhiều vướng mắc, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc rút lui “có trật tự”
của doanh nghiệp ra khỏi thương trường. Vì vậy, việc sớm thực hiện các biện
pháp để hướng dẫn chi tiết Luật Phá sản năm 2004 nói chung và các quy định
về mở thủ tục phá sản nói riêng đã trở thành một yêu cầu cấp thiết trong nền
kinh tế nước ta hiện nay.
Để làm được điều đó trước hết cần nghiên cứu những vấn đề lí luận và
thực tiễn liên quan đến quy định về mở thủ tục phá sản; tìm hiểu những bất

cập trong quy định của pháp luật và kiến nghị một số giải pháp để quy định
pháp luật phá sản nói chung cũng như quy định về mở thủ tục phá sản hoàn
thiện hơn, thực sự phát huy hiệu quả trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Chính vì vậy, đó cũng chính là lý do khiến tác giả chọn vấn đề “Mở thủ tục
phá sản theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp với hy
vọng bằng kết quả của sự nghiên cứu, tìm tòi bước đầu của mình sẽ góp phần
nhỏ bé vào việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật phá sản Việt Nam mà cụ

3
thể là các quy định về mở thủ tục phá sản, làm tiền đề tạo dựng một môi
trường kinh doanh lành mạnh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi được ban hành đến nay, Luật Phá sản đã được nghiên cứu, tìm
hiểu dưới rất nhiều góc độ khác nhau. Các công trình nghiên cứu này thường
hay đề cập, bàn luận đến một số khía cạnh nhất định liên quan đến pháp luật
phá sản như: các vấn đề pháp lý cơ bản về phá sản hoặc nghiên cứu các thủ
tục cụ thể về quản lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, xử
lý nợ của các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản…Trong số đó, có thể
kể đến một vài công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
- Công trình nghiên cứu “ Phá sản và xử lý phá sản ở các nước và Việt
Nam” của Hoàng Công Trí, Viện Khoa học Tài chính, năm 1993;
- Công trình nghiên cứu “Pháp luật phá sản của Việt Nam” của PGS.TS
Dương Đăng Huệ, Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2005;
- Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Thực trạng pháp luật về phá
sản và hoàn thiện môi trường pháp luật kinh doanh tại Việt Nam”;
- Luận án Tiến sỹ Luật Kinh tế của Vũ Thị Hồng Vân với đề tài “Quản
lý và xử lý tài sản phá sản theo quy định của pháp luật Việt Nam”, được bảo
vệ thành công tại Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội năm 2006.
- Luận văn Thạc sỹ Luật Kinh tế của Đặng Văn Huy với đề tài “Quy
chế pháp lý của Tổ quản lý và thanh lý tài sản theo pháp luật Việt Nam”,

được bảo vệ thành công tại Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội năm 2010.
Ngoài ra còn rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí, báo cáo chuyên
đề, hội thảo chuyên đề về phá sản và pháp luật phá sản như: Chuyên đề khoa
học xét xử “Tìm hiểu pháp luật phá sản- Tập 1” của Viện Khoa học xét xử
Tòa án nhân dân tối cao, Nhà xuất bản Tư pháp 2010, bài viết “Luật phá sản
năm 2004 – Những tiến bộ và hạn chế” của Nguyễn Thái Phúc (2004), “Một
số bất cập trong Luật Phá sản 2004” của Nguyễn Quý Trọng (2006), “ Cơ sở

4
khoa học của các quy định về tình trạng phá sản trong Luật Phá sản năm
2004” của Nguyễn Trọng Điệp (2007)…
Như vậy, có thể thấy hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu
chuyên sâu nào về giai đoạn mở thủ tục phá sản- giai đoạn đầu tiên và cũng là
giai đoạn tạo tiền đề pháp lý cho hàng loạt thủ tục giải quyết việc phá sản của
doanh nghiêp, hợp tác xã về sau này. Do đó, phạm vi nghiên cứu của luận văn
chủ yếu là tập trung vào nghiên cứu giai đoạn mơ
̉
thu
̉
tu
̣
c pha
́
sản mà không đi
nghiên cứu tất cả ca
́
c giai đoa
̣
n trong thủ tục phá sản nói chung.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là về quy định mở thủ tục phá sản theo
pháp luật phá sản Việt Nam. Trên cơ sở việc nghiên cứu những vấn đề lí luận
cơ bản cùng với những thực trạng xảy ra trong thực tiễn, tác giả sẽ chỉ ra
những điểm mới, tiến bộ so với Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 cũng
như những bất cập còn tồn tại trong quy định về mở thủ tục phá sản của Luật
Phá sản 2004.
Chính vì vậy, phạm vi nghiên cứu của luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu và
xoay quanh nội dung các quy định về mở thủ tục phá sản- một giai đoạn trong
thủ tục phá sản mà không đi nghiên cứu tất cả vấn đề pháp lý liên quan đến
quá trình giải quyết một vụ việc phá sản đầy đủ.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận liên quan
đến việc mở thủ tục phá sản, từ đó làm sáng tỏ những quy định của Luật Phá
sản năm 2004 và đặc biệt là những quy định về mở thủ tục phá sản. Bên cạnh
đó, luận văn cũng kết hợp với tìm hiểu thực tiễn áp dụng những quy định
pháp luật về mở thủ tục phá sản ở Việt Nam, trên cơ sở đó nêu ra những đề
xuất, kiến nghị nhằm sớm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả các quy định về
mở thủ tục phá sản tạo cơ sở pháp lý bảo đảm môi trường kinh doanh bình
đẳng, lành mạnh.

5
Với mục đích đó, luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu sự tồn tại tất yếu khách quan của phá sản trong nền kinh tế
thị trường và những đặc điểm của nó trong sự phân biệt với hiện tượng khác.
- Nghiên cứu những những vấn đề lí luận cơ bản về trình tự mở thủ tục
phá sản theo pháp luật Việt Nam trên cơ sở chỉ ra những đặc trưng, điểm tiến
bộ và những bất cập của trình tự này.
- Tìm hiểu thực tiễn thi hành Luật Phá sản 2004 mà cụ thể là việc áp
dụng các quy định về mở thủ tục phá sản trên thực tế.
- Đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định về mở thủ tục phá sản

theo pháp luật hiện hành và việc thực thi các quy định này trong thực tiễn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả đã sử dụng phép duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin như chỉ rõ sự ra đời tất yếu của
Luật Phá sản. Các phương pháp nghiên cứu truyền thống trong khoa học pháp
lý cũng được sử dụng như: phân tích, tổng hợp, so sánh Bên cạnh những
nghiên cứu về điểm mạnh, yếu cũng như bất cập trong các quy định của pháp
luật phá sản Việt Nam, tác giả có sử dụng phương pháp khảo sát thực tế để
xem xét, đánh giá những mặt tích cực và hạn chế trong việc thực thi các quy
định về mở thủ tục phá sản. Từ đó, nhằm đề xuất những giải pháp, kiến nghị
nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về mở thủ tục phá sản.
6. Những đóng góp của luận văn
Từ khi Luật Phá sản ra đời cho đến nay, đã có rất nhiều bài viết, các
công trình nghiên cứu đề tài này ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, trong
phạm vi luận văn này tác giả nghiên cứu trên cơ sở một hướng tiếp cận mới.
Nghiên cứu quy định về mở thủ tục phá sản trong một chỉnh thể thống nhất cả
về lý luận và thực tiễn áp dụng, trên cơ sở những tư duy pháp lý hiện đại,
thông dụng và phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam.

6
Đề tài “ Mở thủ tục phá sản theo pháp luật Việt Nam” nghiên cứu một
vấn đề hết sức cụ thể và cần thiết các doanh nghiệp trong môi trường cạnh
tranh khốc liệt của nền kinh tế. Luận văn được hoàn thành trên cơ sở phân
tích, so sánh những điểm mới, tiến bộ của Luật Phá sản 2004 so với Luật Phá
sản doanh nghiệp năm 1993 về quy định mở thủ tục phá sản; từ đó chỉ ra
những bất cập trong quy định của Luật mới và tình hình thi hành các quy định
này trên thực tế. Thông qua những vấn đề lí luận và thực tiễn, tác giả đã đưa
ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định về mở thủ tục phá
sản nhằm nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc phá sản, để các chủ thể
kinh doanh có những nhận thức đúng đắn và tìm đến thủ tục này như biện

pháp phục hồi cuối cùng của doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu với 3 Chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận cơ bản về mở thủ tục phá sản
Chương 2: Thực trạng bất cập quy định pháp luật về mở thủ tục phá
sản theo Luật Phá sản năm 2004
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật
về mở thủ tục phá sản trong pháp luật Việt Nam.









7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN

1.1. Nhận thức chung về phá sản
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm phá sản
1.1.1.1. Khái niệm phá sản
Phá sản là một hiện tượng hết sức bình thường, tồn tại tất yếu và phổ
biến trong nền kinh tế thị trường nơi sự cạnh tranh lẫn nhau luôn tồn tại.
Trong nền kinh tế này, quyền tự do kinh doanh được đề cao, tôn trọng và bảo
vệ. Và nội dung của quyền này thể hiện ở nhiều khía cạnh như tự do lựa chọn

ngành nghề kinh doanh, tự do lựa chọn loại hình doanh nghiệp, tự do thiết lập
các quan hệ hợp đồng, tự do cạnh tranh… theo quy định của pháp luật [9,
tr.7]. Có thể thấy tự do cạnh tranh là một yếu tố thuộc phạm trù tự do kinh
doanh; trong quá trình kinh doanh, các doanh nghiệp sẽ cạnh tranh nhau để
giành giật thị phần, thị trường, khách hàng để thu được lợi nhuận cao nhất.
Chính trong quá trình cạnh tranh khốc liệt để tối đa hóa lợi nhuận đó những
doanh nghiệp nhỏ, không đáp ứng được nhu cầu thị trường sẽ bị doanh nghiệp
quy mô lớn, kinh doanh có hiệu quả chiếm lĩnh thị phần; và tất yếu sẽ diễn ra
quy luật đào thải buộc những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, làm ăn
thua lỗ phải rời khỏi thị trường. Ngoài yếu tố cạnh tranh, nguyên nhân dẫn
đến kinh doanh thua lỗ có rất nhiều như sự quản lý yếu kém của doanh
nghiệp; do thay đổi chính sách pháp luật của Nhà nước; là sự thiếu khả năng
thích ứng với những biến động trên thương trường như biến động giá của yếu
tố đầu vào trong nước và quốc tế hay sự biến động của tỉ giá hối đoái. Việc
làm ăn thua lỗ này sẽ khiến cho doanh nghiệp không thực hiện được nghĩa vụ
tài chính như mất khả năng chi trả các khoản nợ đến hạn đồng nghĩa với việc
doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản.
Hiện tượng phá sản phát sinh từ khá sớm, đạo luật phá sản được khai
sinh đầu tiên ở Italia từ thời kì La Mã với tên gọi Actof Bankrep Tcy. Về sau

8
hiện tượng này trở nên phổ biến trong thời kì tư bản chủ nghĩa, nó là một
trong những nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển kinh tế, hình thành nên
những tập đoàn kinh tế độc quyền. Trên thế giới, có khá nhiều thuật ngữ để
thể hiện khái niệm phá sản, “phá sản” hay còn gọi là "Bankruptcy" hoặc
"Banqueroute" được bắt nguồn từ từ "Banca Rotta" (có nghĩa là “chiếc ghế bị
gãy”) của La Mã- một quốc gia có nền kinh tế phát triển từ sớm. Ở La Mã,
thuật ngữ phá sản đã được hình thành, bắt nguồn từ chữ “ruin” trong tiếng
Latinh - có nghĩa là sự khánh tận - tức là mất khả năng thanh toán. Thời kì
đầu ở La Mã, khi các thương gia mắc nợ nhau và không trả được nợ thì thông

thường người mắc nợ sẽ bị bắt làm nô lệ, mất quyền tham gia đại hội thương
gia và chiếc ghế ngồi của họ cũng bị đem rời khỏi hội trường; một số người
khác thì bỏ trốn gây mất ổn định xã hội. Về sau để khắc phục tình trạng này,
Nhà nước La Mã đã ban hành những quy định pháp luật theo đó Toà án địa
phương nơi cư trú của người mắc nợ khi được yêu cầu sẽ đứng ra quản lý số
tài sản của người mắc nợ, sau đó phân chia tài sản này cho các chủ nợ tuỳ
theo vốn cho vay và lãi tương ứng của từng người [13, tr.5].
Ở Việt Nam, thực tế không phải thuật ngữ “phá sản” mà là thuật ngữ
“khánh tận” được sử dụng đầu tiên để chỉ tình trạng mất khả năng thanh toán
của một thương nhân, thuật ngữ “phá sản” chỉ được biết đến ở Việt Nam từ
thời kỳ Pháp thuộc do người Pháp mang đến cùng với quá trình thực dân hóa.
Mãi đến năm 1990, thuật ngữ “phá sản” được thừa nhận như hậu quả tất yếu
của nền kinh tế thị trường và được ghi nhận trong hai văn bản pháp lý quan
trọng là Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty (ban hành ngày 21-12-
1990). Thực tế Luật phá sản của Việt Nam không xác định khái niệm phá sản
mà chỉ nêu ra khái niệm "doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản". Theo Từ
điển tiếng Việt, “phá sản” là lâm vào tình trạng tài sản chẳng còn gì và thường
là vỡ nợ, do kinh doanh bị thua lỗ, thất bại; “vỡ nợ” là lâm vào tình trạng bị
thua lỗ, thất bại liên tiếp trong kinh doanh, phải bán hết tài sản mà vẫn không
đủ để trả nợ [37, tr.762].

9
Dưới góc độ kinh tế, phá sản là một hiện tượng tất yếu khách quan của
nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản do rất
nhiều nguyên nhân khác nhau và biểu hiện ra như một sự thất bại trầm trọng
về kinh tế mang tính quyết định đến sự tồn tại của doanh nghiệp, doanh
nghiệp ở trong tình trạng bi đát về tài chính đến mức không thanh toán được
các khoản nợ đến hạn.
Dưới góc độ pháp lý, phá sản là hiện tượng người mắc nợ lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và bị cơ quan nhà nước

có thẩm quyền (thường là Toà án) tuyên bố phá sản và phân chia tài sản còn
lại của người mắc nợ cho các chủ nợ theo thủ tục pháp luật quy định.
Như vậy, có thể thấy ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển
thì chế định “phá sản” là chế định không thể thiếu trong pháp luật kinh doanh;
và để xác định một doanh nghiệp đã thực sự khó khăn và rơi vào tình trạng
không thanh toán được nợ hay chưa, pháp luật các nước đều đưa ra khái niệm
“tình trạng phá sản”.
1.1.1.2. Khái niệm tình trạng phá sản
Trên thế giới pháp luật phá sản của các quốc gia khác nhau định nghĩa
về tình trạng phá sản là khác nhau tuy nhiên đều có điểm chung là đề cập đến
tình trạng bị mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Việc xác định chính
xác thời điểm một doanh nghiệp bị mất khả năng thanh toán là rất quan trọng
trong việc tạo tiền đề cho một loạt thủ tục pháp lý liên quan sau này. Ở hầu
hết các nước, thời điểm này được xác định phụ thuộc vào một trong hai hoặc
cả hai tiêu chí là tiêu chí dòng tiền (cash flow) và tiêu chí bảng cân đối tài
khoản (balance sheet).
a. Tiêu chí dòng tiền (cash flow)
Tiêu chí dòng tiền là tiêu chí xác định một doanh nghiệp bị phá sản khi
doanh nghiệp đó không thanh toán được các khoản nợ đến hạn.

10
Ví dụ ở Nhật Bản, Luật Phá sản năm 1922 không đưa ra khái niệm tình
trạng phá sản cụ thể mà đưa ra cơ sở của việc phá sản nói chung dựa trên tiêu
chí con nợ không trả được nợ khi đến hạn thanh toán: “1. Khi một người mắc
nợ không thể trả được nợ thì Tòa án sẽ ra quyết định tuyên bố người đó phá
sản theo đơn đề nghị. 2. Khi một người mắc nợ ngừng trả tiền thì người đó bị
coi là không trả được nợ”.
Tiêu chí này có ưu điểm là mang tính phòng ngừa rất cao khi cho phép
sớm áp dụng thủ tục phá sản đối với các doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó
khăn về tài chính có thể dẫn đến thanh lý doanh nghiệp; nó còn giúp tăng

cường đạo đức kinh doanh khi con nợ buộc phải có trách nhiệm hơn đối với
các khoản nợ của mình vì thủ tục phá sản là biện pháp đòi nợ có thể thực hiện
được ngay khi con nợ không trả được nợ đến hạn, từ đó góp phần ngăn chặn
việc đầu tư mạo hiểm hay lạm dụng nguồn vốn của người khác để đầu tư thu
lợi cho mình.
Tuy nhiên tiêu chí này cũng có nhược điểm đó là nó chưa phản ánh
đúng thực chất tình hình tài chính của doanh nghiệp. Trên thực tế doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán tức thời các khoản nợ đến hạn không đồng
nghĩa với việc không còn tài sản, mà có thể doanh nghiệp còn ít tài sản hoặc
còn rất nhiều tài sản nhưng không bán ngay được để trả nợ. Ngoài ra, với cơ
chế hết sức dễ dàng cho một vụ kiện thì có thể cũng là sơ hở cho đối thủ hoặc
chủ nợ lạm dụng gây tổn hại đến uy tín, thanh danh, lợi ích của doanh nghiệp
mắc nợ [29, tr.349].
b. Tiêu chí bảng cân đối tài khoản (balance sheet)
Tiêu chí bảng cân đối tài khoản lại xác định một doanh nghiệp bị phá
sản khi tổng tài sản của nó ít hơn tổng các khoản nợ mà không phụ thuộc việc
các khoản nợ này đã đến hạn trả hay chưa.
Nhược điểm của tiêu chí này là việc định giá các tài sản vô hình của
doanh nghiệp như quyền tác giả, bằng sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa… là điều

11
không hề dễ dàng. Ngoài ra đối với tài sản mà không có tài sản cùng loại
được giao dịch trên thị trường thì việc định giá tài sản lại càng là điều không
thể thực hiện được.
Có thể thấy, cả hai tiêu chí trên đều có nhược điểm liên quan đến việc
định giá và phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Chính vì vậy một số
quốc gia đã bổ sung chỉ tiêu định lượng khoản nợ và thời gian không đáp ứng
được yêu cầu chủ nợ để xác định tình trạng phá sản như Luật mất khả năng
thanh toán của Anh năm 1986 quy định rõ một doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán một khi có một chủ nợ số tiền trên 750 bảng gửi đơn đòi nợ doanh

nghiệp sau 3 tuần lễ thì coi như lâm vào tình trạng phá sản; hay điều 3 Luật mất
khả năng thanh toán của Cộng hòa Liên bang Nga năm 2002 thì các thể nhân,
pháp nhân chỉ bị coi là lâm vào tình trạng phá sản nếu sau 3 tháng kể từ ngày
đến hạn phải trả mà không trả được các khoản nợ đến hạn đó (đối với cá nhân
là không dưới 10.000 rúp và pháp nhân là không dưới 100.000 rúp) [29].
Tóm lại, tùy từng điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia mình mà mỗi
nước áp dụng một tiêu chí khác nhau khi xác định tình trạng phá sản. Tuy
nhiên doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản không đồng nghĩa với việc nó
bị phá sản, một doanh nghiệp chỉ bị coi là phá sản thực sự khi có quyết định
tuyên bố phá sản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1.1.1.3. Đặc điểm của phá sản
Thứ nhất, phá sản là một hiện tượng kinh tế xã hội phức tạp, tác động
đến nhiều mặt của đời sống xã hội.
Đối với doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản đồng
nghĩa với hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ bị chấm dứt. Khi doanh nghiệp
không tiếp tục hoạt động sản xuất, kinh doanh, điều này không chỉ ảnh hưởng
đến chính bản thân doanh nghiệp mà còn tác động dây chuyền đến nhiều chủ
thể khác trong xã hội. Ví dụ như doanh nghiệp đối tác chuyên cung cấp hàng
hóa, nguyên vật liệu…cho doanh nghiệp bị phá sản cũng bị trì trệ, ảnh hưởng

12
đến hoạt động kinh doanh; về phía doanh nghiệp tiêu thụ cũng không được
cung cấp nguồn hàng từ đó làm cho hoạt động kinh doanh của một loạt chủ
thể bị giảm sút gây tác động tiêu cực cho nền kinh tế. Ngoài ra, khi doanh
nghiệp bị phá sản, người lao động trong doanh nghiệp sẽ bị mất việc làm, từ
đó nạn thất nghiệp trong xã hội cũng gia tăng, đây cũng là một trong những
nguyên nhân gây nhiều bất ổn trong xã hội.
Phá sản cũng là một hiện tượng hết sức phức tạp, tính phức tạp của nó
thể hiện ở chỗ nó liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật. Trước hết, việc xác
định một doanh nghiệp có thực sự lâm vào tình trạng phá sản hay không phải

dựa trên các báo cáo tài chính, các kết quả kiểm kê tài sản của doanh nghiệp.
Xét về mặt này, Luật Phá sản liên quan đến lĩnh vực pháp luật về hoạt động
tài chính kế toán. Ngoài ra trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, cơ quan
nhà nước mà phát hiện các dấu hiệu vi phạm có tính chất nghiêm trọng thì các
chủ thể vi phạm còn có thể bị áp dụng các quy định của Luật Hình sự như tội
cố ý gian lận hoặc tẩu tán tài sản. Ngoài các Luật kể trên, Luật Phá sản cũng
có mối quan hệ với nhiều Luật khác như Luật Thương mại, Luật Dân sự. Luật
Thuế, Luật An sinh xã hội…[30, tr.16].
Thứ hai, phá sản là một thủ tục tư pháp đặc biệt và tính chất đặc biệt
của nó được thể hiện cụ thể ở các nội dung như sau:
Một là, phá sản là một thủ tục đòi nợ và thanh toán nợ có tính tập thể
[28, tr.343].
Đối với thủ tục đòi nợ thông thường mà cụ thể là đòi nợ trong tố tụng
dân sự thì khi con nợ có sự vi phạm, chủ nợ có thể tiến hành việc đòi nợ một
cách riêng rẽ, độc lập và không phải phụ thuộc vào bất cứ thủ tục nào. Khác
với tố tụng dân sự, trong thủ tục phá sản việc đòi nợ và thanh toán nợ đều
mang tính tập thể. Tính tập thể thể hiện ở việc tất cả các chủ nợ đều có quyền
tham gia vào quá trình đòi nợ và thanh toán nợ. Nhưng họ không thể đòi nợ
một cách tùy tiện, mạnh ai nấy làm mà phải tập hợp lại thành một chủ thể duy

13
nhất là Hội nghị chủ nợ- đại diện cho tất cả các chủ nợ tham gia vào việc giải
quyết phá sản. Các chủ nợ cũng được phân chia thành các nhóm khác nhau và
các yêu cầu của họ cũng sẽ được xem xét công bằng theo một thủ tục nhất
định, tại cùng một địa điểm, thời điểm và theo thứ tự ưu tiên nhất định. Ngoài
ra, việc thanh toán nợ trong thủ tục phá sản cũng khác với thủ tục thông
thường. Thủ tục thanh toán nợ thông thường có thể diễn ra bất cứ lúc nào,
theo phương thức mà hai bên lựa chọn, kể cả khi cần sự can thiệp của Tòa án
thì Tòa án vẫn tôn trọng ý kiến của đương sự; khác với thủ tục trong dân sự,
thanh toán nợ trong thủ tục phá sản chỉ diễn ra sau khi có quyết định của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền.
Hai là, phá sản là một thủ tục đòi nợ được tiến hành trong hoàn cảnh
đặc biệt, như là một biện pháp cuối cùng của quá trình đòi nợ.
Khác với thủ tục đòi nợ thông thường có thể được tiến hành bất cứ lúc
nào khi con nợ có sự vi phạm nghĩa vụ trả nợ, thủ tục đòi nợ trong phá sản chỉ
được tiến hành khi có điều kiện là doanh nghiệp, hợp tác xã phải lâm vào tình
trạng phá sản có nghĩa là đang rơi vào tình trạng tài chính bi đát đến mức
không có khả năng thanh toán được nợ đến hạn. Con nợ chỉ bị áp dụng thủ tục
đòi nợ theo pháp luật phá sản khi mà các biện pháp đòi nợ khác không còn
mang lại hiệu quả.
Ba là, mục đích của việc áp dụng thủ tục phá sản không phải chỉ là
chấm dứt hoạt động của một doanh nghiệp, hợp tác xã mà còn mở ra cho nó
cơ hội khôi phục lại hoạt động sản xuất, kinh doanh nếu có thể.
Việc tuyên bố phá sản một doanh nghiệp không những ảnh hưởng xấu
đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ, con nợ, người lao động mà còn kéo
theo nhiều tác động tiêu cực cho đời sống kinh tế xã hội. Chính vì vậy, pháp
luật phá sản của các nước trên thế giới khi xây dựng đều tính đến việc làm sao
để con nợ sớm tiếp cận thủ tục phá sản không phải để nhanh chóng chia chác
tài sản cho chủ nợ mà còn vì mục đích cao cả hơn là để con nợ được phép

14
phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh giúp nó có thể thoát khỏi tình trạng
phá sản. Ngoài ra, thông thường khi bị áp dụng các thủ tục đòi nợ thông
thường, sau khi có quyết định của Tòa án con nợ phải chấp hành và sau khi
trả nợ xong thì hoạt động kinh doanh của nó vẫn diễn ra bình thường. Tuy
nhiên trong thủ tục phá sản thì sau khi có quyết định thanh lý, tài sản con nợ
sẽ bị mang đấu giá hết để trả nợ và con nợ sẽ phải chấm dứt sự tồn tại của nó
trên thương trường.
Bốn là, thủ tục phá sản là một thủ tục pháp lý có tính chất tổng hợp.
Tố tụng phá sản so với tố tụng dân sự luôn phức tạp hơn rất nhiều, sự

phức tạp thể hiện ở cả tính chất và quy mô pháp luật phá sản phải giải quyết.
Trong một vụ việc phá sản Tòa án không chỉ đơn giản là giải quyết các mối
quan hệ có tính chất tài sản như việc xác định tài sản doanh nghiệp là bao
nhiêu, mắc nợ ai, đã mất khả năng thanh toán hay chưa mà còn phải xem xét
áp dụng giải quyết cả những vấn đề khác như việc có ra quyết định phục hồi
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay không, ra quyết định
thành lập thiết chế quản lý và thanh lý tài sản hay ra quyết định việc triệu tập
Hội nghị chủ nợ…[9, tr.16].
1.1.2. Khái quát pháp luật phá sản Việt Nam
Pháp luật phá sản là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết yêu
cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Pháp luật phá sản còn được hiểu là sự
can thiệp có ý thức của Nhà nước vào hiện tượng phá sản nhằm hạn chế tối đa
những hậu quả tiêu cực và khai thác những mặt tích cực của nó.
Ở các quốc gia khác nhau, vào những thời điểm khác nhau thì cách thức
can thiệp, xử lý của nhà nước đối với con nợ và các khoản nợ là hết sức khác
nhau. Ban đầu, con nợ có thể bị chủ nợ cưỡng bức trả nợ, phá sản hay vỡ nợ
còn đồng nghĩa với một loại tội phạm và có thể phải chịu án tử hình. Về sau
này, Nhà nước đã can thiệp đến hiện tượng này một cách linh động hơn dựa

15
trên các yếu tố xã hội, chính trị, đạo đức hơn là tối đa hóa các khoản nợ cho
chủ nợ. Nhà nước đã tạo ra hành lang pháp lý để doanh nghiệp buộc phải chấm
dứt hoạt động không được tiếp tục tham gia thị trường, tổ chức các biện pháp
tập thể vừa giúp các chủ nợ thu hồi nợ vừa giúp vực lại hoạt động của doanh
nghiệp. Có thể thấy, pháp luật phá sản là một bộ phận không thể tách rời của
pháp luật kinh tế và nó có mối quan hệ mật thiết với các lĩnh vực pháp luật
khác như pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật thương mại và pháp luật dân sự.
Luật Phá sản được ra đời từ rất lâu trên thế giới tuy nhiên ở Việt Nam
hệ thống pháp luật phá sản hình thành và phát triển khá muộn so với các nước

trên thế giới cũng như trong khu vực. Khái niệm phá sản chỉ xuất hiện ở nước
ta sau thời kỳ đổi mới cơ chế kinh tế, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
(12/1986) đã thừa nhận nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế và
có những chính sách mới thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển. Văn bản
pháp lý đầu tiên liên quan đến gải quyết tình trạng doanh nghiệp thua lỗ
không có khả năng thanh toán đó là Quyết định số 315/HĐBT ngày
01/09/1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Tuy nhiên những doanh nghiệp thuộc
diện này chỉ được phép giải thể theo quyết định trên, khái niệm phá sản lúc
này vẫn chưa được đặt ra. Đến Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty
được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1990 thì khái niệm phá sản mới chính
thức được đề cập tới. Theo tinh thần quy định tại Điều 24 Luật Công ty ngày
21/12/1990 và Điều 17 Luật doanh nghiệp tư nhân ngày 21/12/1990 thì khi
doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt
động kinh doanh đến mức tại một thời điểm tổng số giá trị tài sản còn lại của
doanh nghiệp không đủ thanh toán các khoản nợ đến hạn là doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản. Quan niệm về doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản như cách tiếp cận của Luật này không đảm bảo sự bao quát cần thiết.
Thực tiễn cho thấy nhiều doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó có tổng tài
sản còn lại nhỏ hơn tổng số nợ đến hạn nhưng chưa chắc đã bị đưa đến tình

16
trạng phá sản vì doanh nghiệp vẫn thanh toán nợ đều đặn. Hoặc một doanh
nghiệp có tổng tài sản lớn hơn tổng số nợ đến hạn nhưng vẫn bị tuyên bố phá
sản nếu không thanh toán được nợ đến hạn.
Để khắc phục những bất cập này, Luật Phá sản doanh nghiệp được
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ tư
thông qua ngày 30/12/1993, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/1994 là văn
bản đầu tiên có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh toàn diện, đầy đủ các vấn
đề về thủ tục phá sản đối với các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu
khi lâm vào tình trạng phá sản. Nó đã đánh dấu sự ra đời của hệ thống pháp

luật phá sản với tư cách là một bộ phận quan trọng của hệ thống pháp luật
kinh doanh trong bối cảnh nước ta thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần
định hướng xã hội chủ nghĩa. Luật Phá sản năm 1993 có 6 chương và 52 điều,
tuy nhiên do được xây dựng trong điều kiện mới chuyển sang cơ chế quản lý
kinh tế mới nên kỹ thuật lập pháp còn yếu kém, thực tế việc phá sản và giải
quyết phá sản hầu như chưa xảy ra do sự tồn tại của nền kinh tế tập trung bao
cấp trước đó. Ngoài ra do tâm lý e ngại đưa nhau ra Tòa để giải quyết cũng
như nhận thức chưa đầy đủ về thủ tục phá sản của các chủ thể nên Luật Phá
sản doanh nghiệp 1993 chưa thực sự đi vào cuộc sống, đã bộc lộ những hạn
chế, bất cập, làm cản trở việc giải quyết phá sản doanh nghiệp ở nước ta.
Chính vì vậy, Luật Phá sản mới với nhiều điểm tiến bộ, đã được Quốc
hội thông qua ngày 15/6/2004 (có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2004) thay
thế Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Luật phá sản năm 2004 gồm 9
chương với 95 điều được xem như là một cố gắng mới của các nhà lập pháp
nước ta trong việc nâng cao việc điều chỉnh của pháp luật một cách hiệu quả
đối với hiện tượng kinh tế khách quan tồn tại trong đời sống kinh tế thông qua
việc khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật Phá sản doanh nghiệp 1993,
bổ sung những nội dung mới trên cơ sở tổng kết thực tiễn 10 năm áp dụng
Luật này, đồng thời tham khảo kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế

17
giới, thể chế hóa chính sách kinh tế của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn phát
triển mới của đất nước. Luật phá sản năm 2004 đã mang lại một diện mạo hoàn
toàn mới cho hệ thống pháp luật phá sản ở Việt Nam với những quy định đầy
đủ và tiến bộ hơn về: điều kiện mở thủ tục phá sản; điều kiện áp dụng thủ tục
phục hồi, thủ tục thanh lý, thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp; trình tự, thủ
tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản; địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia
tố tụng phá sản; việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản và các vấn đề khác
có liên quan đến việc giải quyết một vụ việc phá sản.
Điểm mới căn bản và dễ nhận ra ở Luật Phá sản 2004 so với Luật Phá

sản doanh nghiệp 1993 là thời điểm xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản đã được quy định sớm hơn và thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
được quy định rõ ràng, cụ thể hơn.
Cùng với việc ra đời của Luật Phá sản năm 2004 thì hệ thống văn bản
hướng dẫn cũng được ban hành khá đầy đủ và đồng bộ như:
- Nghị quyết số 03/2005/NQ-TANDTC ngày 28 tháng 4 năm 2005 của
Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy
định của Luật Phá sản;
- Quyết định số 01/2005/QĐ-TANDTC ngày 27 tháng 4 năm 2005 của
Chánh án Toà án nhân dân tối cao về Quy chế làm việc của Thẩm phán phụ
trách tiến hành thủ tục phá sản;
- Nghị định số 94/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15 tháng 7 năm
2005 về giải quyết quyền lợi của người lao động ở doanh nghiệp và HTX bị
phá sản;
- Nghị định số 67/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11 tháng 7 năm
2006 hướng dẫn việc áp dụng Luật Phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và
tổ chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản.
- Nghị định số 114/2008/NĐ-CP ngày 03 tháng11 năm 2008 của
Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phá sản đối với doanh

18
nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và tài
chính khác;
- Thông tư liên tịch số 19/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 19 tháng 02
năm 2008 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp về hướng dẫn việc lập, quản lý, sử
dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan thi hành án dân
sự và Tổ qua
̉
n ly
́

, thanh ly
́
ta
̀
i sa
̉
n của doanh nghiê
̣
p , hơ
̣
p ta
́
c xa
̃
lâm vào tình
trạng phá sản;
- Nghị định 10/2009/NĐ-CP về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực phá sản .
- Nghị định 05/2010/NĐ-CP quy định việc áp dụng Luật Phá sản đối
với các tổ chức tín dụng;
Như vậy, pháp luật phá sản ở nước ta tuy hình thành muộn hơn so với
các nước trên thế giới và trong khu vực nhưng đã góp phần tạo cơ chế cho
hoạt động xử lý nợ của doanh nghiệp, góp phần làm minh bạch, lành mạnh
hoá môi trường kinh doanh.
1.1.3. Phân biệt hiện tượng phá sản với giải thể
Phá sản và giải thể là hai hiện tượng rất dễ gây nhầm lẫn vì chúng đều
có những điểm tương đồng nhất định. Việc phân biệt phá sản và giải thể là hết
sức cần thiết để làm cơ sở cho việc áp dụng đúng các trình tự, thủ tục, bảo
đảm quyền lợi cho các chủ thể liên quan.
1.1.3.1. Điểm giống nhau

Thứ nhất, về mục đích áp dụng
Thủ tục phá sản và giải thể được áp dụng để xử lý các doanh nghiệp
gặp khó khăn về tài chính. Theo đó các doanh nghiệp mắc nợ có thể bị thanh
lý, tài sản bị phân chia cho các chủ nợ.
Thứ hai,về tính công khai của thủ tục
Thủ tục phá sản và giải thể đều đòi hỏi phải thông báo cho các bên liên quan.

19
Thứ ba, về xử lý tài sản của các doanh nghiệp mắc nợ
Trong cả hai trường hợp, tài sản của doanh nghiệp được gộp vào một
quỹ chung để chi trả cho các chủ nợ. Họ được phân chia thành từng nhóm nợ.
Các chủ nợ đều có quyền ngang nhau trong mỗi nhóm nợ về việc đòi nợ,
thanh toán nợ và mọi yêu cầu của các chủ nợ đều được đưa ra xem xét và
được thanh toán theo thứ tự nhất định trên cơ sở xét đến thứ tự ưu tiên cho
người lao động.
Thứ tư, về hậu quả pháp lý
Phá sản và giải thể đều dẫn đến hậu quả là chấm dứt sự tồn tại của
doanh nghiệp, doanh nghiệp ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh; bị thu hồi
con dấu và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và phải thực hiện các nghĩa
vụ tài sản thông qua thủ tục thanh lý tài sản và giải quyết nợ nần trên cơ sở
xét đến thứ tự ưu tiên cho người lao động.
1.1.3.2. Điểm khác nhau
Khi xét về bản chất phá sản và giải thể lại là hai hiện tượng hoàn toàn
khác nhau ở những nét cơ bản như:
Thứ nhất, về lý do dẫn đến phá sản và giải thể
Theo điều 3 Luật Phá sản năm 2004 quy định: “Doanh nghiệp, hợp tác
xã không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu
là lâm vào tình trạng phá sản”. Như vậy, chỉ có duy nhất một lý do dẫn đến
phá sản là doanh nghiệp không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn
khi chủ nợ có yêu cầu.

Còn giải thể doanh nghiệp được hiểu như một doanh nghiệp chấm dứt
kinh doanh, không còn tồn tại trên thị trường như một chủ thể kinh doanh
nữa. Lý do dẫn đến giải thể không đồng nhất đối với các loại hình doanh
nghiệp và rộng hơn nhiều so với lý do dẫn đến phá sản. Một doanh nghiệp khi
giải thể có thể là do bắt buộc hoặc hoặc dưới hình thức tự nguyện khi: do kết
thúc thời hạn hoạt động mà không được gia hạn, đối với công ty không có đủ

20
số thành viên tối thiểu trong thời hạn 6 tháng liên tục; do bị thu hồi giấy phép
kinh doanh hay do quyết định của chủ sở hữu doanh nghiệp.
Thứ hai, về thủ tục giải quyết và cơ quan có thẩm quyền giải quyết
Thủ tục giải quyết đối với đa số vụ việc phá sản là thủ tục tư pháp do cơ
quan nhà nước duy nhất là Tòa án có thẩm quyền giải quyết và thủ tục này chịu
sự điều chỉnh chặt chẽ của Luật Phá sản. Trong khi đó thủ tục giải thể doanh
nghiệp là thủ tục hành chính do chủ sở hữu doanh nghiệp tự mình quyết định
hoặc do cơ quan có thẩm quyền cho phép thành lập quyết định và chịu sự điều
chỉnh của Luật Doanh nghiệp. Ngoài ra, việc giải quyết một vụ phá sản thông
thường sẽ kéo dài thời gian hơn so với thủ tục giải thể thông thường.
Thứ ba, về cách thức thanh toán tài sản
Khi giải thể chủ doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp, hợp tác xã trực tiếp
thanh toán tài sản, giải quyết mối quan hệ nợ nần với chủ nợ. Còn khi phá
sản, việc thanh toán tài sản, phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp,
hợp tác xã được thực hiện thông qua một cơ quan trung gian là tổ chức thanh
toán tài sản sau khi có quyết định tuyên bố phá sản hay còn gọi là Tổ quản lý,
thanh lý tài sản.
Thứ tư, về đối tượng có quyền đề nghị áp dụng thủ tục
Đối với phá sản, đối tượng có quyền yêu cầu giải quyết phá sản đối với
doanh nghiệp, hợp tác xã là chủ nợ, người lao động, bản thân chủ doanh
nghiệp, hợp tác xã hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã đó.
Trong khi đó, đối tượng có quyền nộp đơn yêu cầu giải thể chỉ có thể là chủ

sở hữu doanh nghiệp, thành viên công ty hoặc đại hội cổ đông.
Thứ năm, vai trò của các chủ nợ
Đối với giải thể, các chủ nợ hoàn toàn bị động khi mà toàn bộ thủ tục
giải thể do hội đồng giải thể kinh doanh tiến hành. Trong khi đó, đối với thủ
tục phá sản thì các chủ nợ đóng vai trò tích cực hơn khi tham gia vào quyết
định hầu hết các quá trình của thủ tục như: nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá

21
sản doanh nghiệp, tham gia Hội nghị chủ nợ, thông qua phương án hòa giải,
phân chia tài sản của doanh nghiệp.
Thứ sáu, phá sản và giải thể khác nhau về hậu quả pháp lý
Giải thể bao giờ cũng dẫn đến sự chấm dứt tồn tại của một doanh
nghiệp, hợp tác xã nào đó và đồng thời bị xóa tên khỏi sổ đăng ký kinh doanh.
Trong khi đó doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản không đồng nghĩa với việc
chấm dứt tồn tại mà nó vẫn có thể được tiếp tục hoạt động nếu như có người
nào đó mua lại toàn bộ doanh nghiệp, trong trường hợp này chỉ có sự thay đổi
chủ sở hữu của doanh nghiệp mà không hề chấm dứt hoạt động của nó.
Thứ bảy, về thái độ của pháp luật đối với chủ sở hữu hay người quản
lý, điều hành doanh nghiệp.
Doanh nghiệp giải thể sau khi thực hiện xong các nghĩa vụ tài sản vẫn có
thể chuyển sang một ngành nghề kinh doanh khác nếu có thể, giám đốc doanh
nghiệp giải thể có thể đứng ra thành lập, điều hành công ty mới. Trong khi đó
đối với các vụ việc phá sản, những người lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp bị
tuyên bố phá sản sẽ bị cấm làm công việc tương tự trong một thời gian nhất
định; giám đốc, chủ tịch Hội đồng Quản trị, thành viên hội đồng quản trị của
Công ty bị phá sản bị hạn chế quyền tự do kinh doanh thể hiện ở chỗ bị cấm
giữ chức vụ đó từ 1 đến 3 năm ở bất kỳ Doanh nghiệp nào [32, tr.349].
1.2. Những đặc trƣng cơ bản của mở thủ tục phá sản
1.2.1. Điều kiện mở thủ tục phá sản
1.2.1.1. Phạm vi đối tượng được áp dụng quy định mở thủ tục phá sản

Phá sản là một hiện tượng kinh tế khá phổ biến trong đời sống xã hội
mà biểu hiện là tình trạng con nợ mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến
hạn của mình. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc phá sản có thể hiện hữu, xảy
đến với bất kỳ ai, bất kỳ đối tượng nào trong bất kỳ lĩnh vực nào của xã hội
như lĩnh vực kinh doanh, lĩnh vực tiêu dùng, lĩnh vực dân sự. Trong bất kỳ
đạo luật nào thì việc quy định phạm vi đối tượng áp dụng là hết sức cần thiết

×