Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Pháp luật về đầu tư vốn của nhà nước vào các doanh nghiệp ở Việt Nam Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG QUỲNH HOA

PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ VỐN CỦA NHÀ NƯỚC
VÀO CÁC DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN

HÀ NỘI – 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu
của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ
một cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hồng Quỳnh Hoa


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội, Bộ môn Luật kinh doanh, Q thầy cơ giáo đã nhiệt tình giảng dạy, tạo
điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hồn thành luận văn này.


Tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Văn Tuyến,
Trưởng Khoa sau đại học Trường Đại học Luật Hà Nội Hà Nội đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ, động viên, cung cấp tài liệu học tập và nghiên cứu,
mang lại những tri thức quý báu thiết thực giúp tơi hồn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã tạo điều
kiện thuận lợi và có những ý kiến đóng góp quý báu cho tơi trong việc hồn
thành luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do thời gian có hạn, vốn kiến thức và
kinh nghiệm thực tiễn của bản thân còn hạn chế nên khơng thể tránh khỏi
những thiếu sót trong luận văn. Kính mong nhận được sự góp ý của Q thầy
cơ, đồng nghiệp và các bạn.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hồng Quỳnh Hoa


MỤC LỤC
Trang

1.1
1.1.1.
1.1.1.1.
1.1.1.2.
1.1.1.3.
1.1.2.
1.1.2.1.
1.1.2.2.
1.1.2.3.
1.1.2.4.
1.2.

1.2.1
1.2.2.
1.2.2.1.
1.2.2.2.
1.2.2.3.
1.2.2.4.
1.2.2.5.

2.1.
2.1.1.
2.1.2.

Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ VỐN NHÀ
NƯỚC VÀO DOANH NGHIỆP VÀ MƠ HÌNH PHÁP LUẬT
VỀ ĐẦU TƯ VỐN NHÀ NƯỚC VÀO DOANH NGHIỆP
Những vấn đề lý luận về đầu tư vốn Nhà nước vào DN
Bản chất của hoạt động đầu tư vốn Nhà nước vào DN
Khái niệm đầu tư vốn của Nhà nước vào DN
Đặc điểm của đầu tư vốn Nhà nước vào DN
Vai trò của đầu tư vốn Nhà nước vào các DN
Các yếu tố cấu thành hoạt động đầu tư vốn Nhà nước vào DN
Chủ thể tham gia quan hệ đầu tư (gồm chủ thể đầu tư vốn Nhà
nước và chủ thể tiếp nhận vốn đầu tư)
Nguồn vốn đầu tư của Nhà nước vào DN
Cách thức chuyển vốn đầu tư của Nhà nước vào DN
Hệ quả pháp lý của việc đầu tư vốn Nhà nước vào DN và các

vấn đề phát sinh trong q trình đầu tư vốn vào DN
Mơ hình pháp luật về đầu tư vốn của Nhà nước vào DN
Bản chất mối quan hệ giữa Nhà nước và DN có vốn đầu tư của
Nhà nước
Mơ hình pháp luật về đầu tư vốn Nhà nước vào DN
Quy định về chủ thể có thẩm quyền đầu tư
Quy định về hình thức đầu tư
Quy định về quy trình đầu tư
Quy định về vấn đề quản lý vốn trong quá trình đầu tư
Quy định về thụ hưởng quyền lợi đầu tư
Kết luận Chương 1
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ VỐN NHÀ NƯỚC VÀO
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Thực trạng pháp luật về đầu tư vốn Nhà nước vào DN ở Việt Nam
Về khái niệm vốn Nhà nước tại DN
Chủ thể có thẩm quyền đầu tư vốn Nhà nước vào DN

1
6

6
6
6
7
9
11
11
12
15

17
19
19
20
21
21
22
23
27
28
29

29
29
32


2.1.2.1.
2.1.2.2.
2.1.3.
2.1.4.
2.1.5.
2.1.6.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.

3.1.
3.1.1.
2.1.2.

3.2.
3.2.1

3.2.2.
3.2.3.
3.2.4.
3.2.5.

Về thẩm quyền quyết định đầu tư vốn Nhà nước vào DN
Về thẩm quyền thực hiện đầu tư vốn Nhà nước vào DN
Quy định về hình thức đầu tư
Quy định về quy trình đầu tư
Quy định về quản lý vốn trong quá trình đầu tư
Quy định về thụ hưởng quyền lợi đầu tư
Thực tiễn áp dụng pháp luật đầu tư vốn Nhà nước vào các DN ở
Việt Nam
Những kết quả đạt được
Những hạn chế, bất cập
Kết luận Chương 2
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ
ĐẦU TƯ VỐN NHÀ NƯỚC VÀO DOANH NGHIỆP Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đàu tư vốn của Nhà nước
vào DN ở Việt Nam
Xây dựng và ban hành Luật quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu
tư vào DN

32
33

37
39
41
57
60

Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan
Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đầu tư
vốn Nhà nước vào DN
Xây dựng và vận hành các cơ chế, chính sách phù hợp trong
điều kiện kinh tế thị trường đối với các DN có vốn đầu tư của
Nhà nước
Nâng cao hiệu quả hoạt động của SCIC
Tăng cường công tác giám sát vốn Nhà nước đầu tư vào DN
Nâng cao chất lượng đội ngũ lãnh đạo DN, người ĐDCSH Nhà
nước tại DN
Xứ lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình đầu
tư vốn Nhà nước vào DN
Kết luận Chương 3

76
80

KẾT LUẬN

90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

91


60
63
68
69

69
69

80

83
83
87
88
89


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CTCP

Công ty cổ phần

CTNN

Công ty Nhà nước

DN


Doanh nghiệp

DNNN

Doanh nghiệp Nhà nước

ĐDCSH

Đại diện chủ sở hữu

TĐKTNN

Tập đoàn kinh tế Nhà nước

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

UBND

Uỷ ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, việc nâng
cao vai trò quản lý của Nhà nước ngày càng là yêu cầu quan trọng. Bên cạnh
việc đưa ra chính sách, ban hành pháp luật để quản lý nền kinh tế, trực tiếp
đầu tư vốn để tham gia vào thị trường cũng là một kênh quan trọng để Nhà
nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế của mình, trong đó phải đặc biệt

chú ý đến hoạt động đầu tư vốn Nhà nước vào các DN.
Trong những năm gần đây, trước những yêu cầu của nền kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã có những thay đổi lớn
trong hoạt động đầu tư của Nhà nước, cùng với đó là việc từng bước xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật để điều chỉnh về vấn đề này. Bên cạnh
những “mảng sáng” đáng ghi nhận, phải thừa nhận rằng hiện tại hoạt động
đầu tư vốn Nhà nước vào các DN còn rất nhiều bất cập. Đặc biệt, thời gian
gần đây xã hội đang rất quan tâm đến tình hình kinh doanh thua lỗ của các
tập đồn, tổng CTNN. Tình trạng đầu tư vốn Nhà nước dàn trải, lãng phí,
khơng hiệu quả gây thất thốt lớn cho ngân sách Nhà nước đang đặt ra rất
nhiều vấn đề cần giải quyết.
Có thể thấy thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân do pháp luật điều chỉnh hoạt động này vừa “thiếu” vừa “yếu”,
chưa tạo ra được hành lang pháp lý vững chắc cho việc quản lý hoạt động đầu
tư vốn của Nhà nước vào các DN. Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả của
hoạt động đầu tư vốn Nhà nước vào các DN tại Việt Nam hiện nay, đòi hỏi
phải thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó việc hồn thiện các quy định
của pháp luật tạo cơ chế pháp lý hiệu quả là u cầu có tính tiên quyết.
Xét về phương diện pháp luật thực định, hiện nay vấn đề đầu tư vốn

1


Nhà nước vào các DN được điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật
khác nhau như: Luật DN, Luật Đầu tư, Quyết định số 151/2005/QĐ-TTg ngày
20/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Tổng cơng ty đầu tư và
kinh doanh vốn Nhà nước, Nghị định số 09/2009/NĐ-CP ngày 05/2/2009 của
Chính phủ ban hành Quy chế tài chính của CTNN và quản lý vốn Nhà nước
đầu tư vào DN khác, Nghị định số 99/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 của
Chính phủ về phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ

của chủ sở hữu Nhà nước đối với DNNN và vốn Nhà nước đầu tư vào DN,
Nghị định số 71/2013/NĐ-CP về đầu tư vốn Nhà nước vào DN và quản lý tài
chính đối với DN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ... Hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật này đã từng bước điều chỉnh những vấn đề cơ bản của
hoạt động đầu tư vốn Nhà nước song vẫn còn nhiều “khoảng trống” và bất
cập. Nhiều vấn đề chưa được quy định thống nhất, hợp lý hoặc chưa phù hợp
về mặt lý luận cũng như chưa đáp ứng được thực tiễn và hiệu quả điều chỉnh
khơng cao. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách thấu đáo pháp luật về đầu
tư vốn Nhà nước vào các DN nhằm đánh giá thực trạng pháp luật về lĩnh vực
này, để đưa ra những kiến nghị bổ sung pháp luật là vấn đề hết sức cần thiết
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước.
Từ những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Pháp luật về đầu
tư vốn của Nhà nước vào các DN ở Việt Nam” để làm luận văn tốt nghiệp
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể nhận thấy trong những năm gần đây, vấn đề cơ cấu lại DNNN,
đầu tư vốn của Nhà nước vào DN đang nhận được sự quan của nhiều nhà
nghiên cứu trên cả phương diện kinh tế học và luật học.
Một cách khái qt, có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu điển
hình đã được cơng bố như:

2


- Sở hữu Nhà nước và DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (sách chuyên khảo), Nguyễn Cúc (chủ biên),
Hà Nội, 2007;
- Quan hệ pháp lý giữa Nhà nước và DNNN ở Việt Nam hiện nay,
Phạm Minh Tuấn, Luận án tiến sĩ luật học, 2007;
- Đổi mới quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với DNNN ở Việt Nam

hiện nay, Lê Văn Trung, Luận án tiến sĩ luật học, 2006…
Ngoài ra, một số báo đăng trên các trang thông tin điện tử như: “Đầu
tư kinh doanh vốn Nhà nước: Thu hẹp đối tượng, siết vốn đầu tư”, Lưu
Thủy, đăng trên hay bài viết “Cơ chế giám sát tài
chính, đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiêp: Những vấn đề đặt ra”, đăng
trên Tạp chí tài chính...
Đánh giá một cách khái qt, các cơng trình trên phần lớn tập trung
vào phân tích hoạt động đầu tư vốn của Nhà nước dưới góc độ kinh tế hoặc
chỉ đề cập đến hoạt động đầu tư vốn Nhà nước vào DNNN, mà trọng tâm là
các TĐKTNN. Đến nay, chưa có nghiên cứu tổng thể nào về hoạt động đầu
tư vốn của Nhà nước vào DN (bao gồm cả DNNN và các DN khác) dưới góc
độ là một hành vi pháp lý, từ đó làm rõ các nội dung như: Mối quan hệ pháp
lý giữa Nhà nước và DN có vốn đầu tư của Nhà nước, các quy định của pháp
luật về chủ thể đầu tư, hình thức, quy trình đầu tư, vấn đề quản lý vốn, giám
sát và xử lý vi phạm… Chính vì vậy, việc tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài
“Pháp luật về đầu tư vốn của Nhà nước vào các DN ở Việt Nam” có thể
được xem như là một cơng trình nghiên cứu có tính mới ở cấp độ luận văn
thạc sĩ ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận và thực
tiễn về đầu tư vốn Nhà nước vào DN và cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với

3


hoạt động đầu tư vốn của Nhà nước vào các DN ở Việt Nam hiện nay, từ đó
chỉ ra những thiếu sót, bất cập trong quy định của pháp luật hiện hành cũng
như thực tiễn áp dụng các quy định này trên thực tế để đề xuất các giải pháp
hoàn thiện pháp luật về đầu tư vốn của Nhà nước vào các DN ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.

Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là các quy định của pháp luật
Việt Nam điều chỉnh hoạt động đầu tư vốn của Nhà nước vào các DN, đặt
trong tổng thể hệ thống pháp luật hiện hành như Luật DN, Luật Đầu tư, Quyết
định số 151/2005/QĐ-TTg, Nghị định số 09/2009/NĐ-CP, Nghị định số
99/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012, Nghị định số 71/2013/NĐ-CP... Ngoài ra,
đối tượng nghiên cứu của luận văn cũng bao gồm các quan điểm, học thuyết
về đầu tư vốn Nhà nước vào DN đã và đang được thừa nhận ở một số quốc
gia trên thế giới để từ đó rút ra các kết luận khoa học và những bài học kinh
nghiệm cho quá trình đầu tư vốn Nhà nước vào các DN ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào việc nghiên cứu hoạt động
đầu tư vốn của Nhà nước vào các DN dưới góc độ là hành vi của chủ thể đầu
tư cùng với những hệ quả xảy ra của việc thực hiện hành vi đó. Trong q
trình triển khai đề tài, luận văn sẽ kết hợp làm rõ thêm một số điểm đặc thù
trong cơ chế đầu tư vốn của Nhà nước đối với mỗi loại hình DN để tìm ra giải
pháp phù hợp.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu, luận văn sử dụng kết hợp các
phương pháp nghiên cứu phổ dụng trong khoa học xã hội như:
- Phương pháp diễn dịch, quy nạp, khái quát hóa được sử dụng để làm
rõ các vấn đề lý luận về đầu tư vốn Nhà nước vào các DN và mơ hình pháp
luật điều chỉnh hoạt động đầu tư vốn của Nhà nước vào các DN;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, giải thích, chứng minh, điều tra

4


khảo sát và so sánh đối chiếu pháp luật được sử dụng để phân tích và đánh giá
thực trạng pháp luật về đầu tư vốn Nhà nước vào các DN.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là cơng trình khoa học ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học đề

cập vấn đề lý luận, thực tiễn pháp lý về đầu tư vốn của Nhà nước vào các DN
ở Việt Nam hiện nay. Những đóng góp mới của luận văn được thể hiện ở
những khía cạnh cơ bản sau đây:
Thứ nhất, làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận về đầu tư vốn Nhà
nước vào các DN và cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động đầu tư vốn
của Nhà nước vào DN. Đề tài tập trung vào việc làm rõ các nội dung như khái
niệm và đặc điểm, bản chất của đầu tư vốn của Nhà nước vào các DN; khái
quát pháp luật về đầu vốn Nhà nước vào các DN.
Thứ hai, đánh giá các quy định của pháp luật, đặc biệt chỉ ra được
những thiếu sót, bất cập của pháp luật về vấn đề này để có hướng hồn thiện;
đánh giá được thực tiễn thi hành luật cũng như hiệu quả hoạt động thực tế của
các DN có vốn đầu tư của Nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, luận văn đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu tư
vốn của Nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn kết cấu thành 3 chương, bao gồm:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về đầu tư vốn của Nhà nước vào DN
và pháp luật về đầu tư vốn của Nhà nước vào DN.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về đầu
tư vốn của Nhà nước vào DN ở Việt Nam hiện nay.
- Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đầu vốn
của Nhà nước vào DN ở Việt Nam.

5


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƢ VỐN NHÀ NƢỚC
VÀO DOANH NGHIỆP VÀ MƠ HÌNH PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƢ

VỐN NHÀ NƢỚC VÀO DOANH NGHIỆP
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ VỐN NHÀ NƯỚC
VÀO DOANH NGHIỆP
1.1.1. Bản chất của hoạt động đầu tƣ vốn của Nhà nƣớc vào DN
1.1.1.1. Khái niệm đầu tư vốn của Nhà nước vào DN
Để đưa ra được khái niệm đầu tư vốn của Nhà nước vào DN, trước hết
cần làm rõ các khái niệm có liên quan là “đầu tư”, “vốn” và “vốn đầu tư”.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “đầu tư” là việc bỏ nhân lực, vật lực, tài lực
vào công việc đó, trên cơ sở tính tốn hiệu quả kinh tế, xã hội [16, tr291].
Cũng theo Từ điển Tiếng Việt, “vốn” được hiểu là tổng thể nói chung những
tài sản bỏ ra lúc đầu, thường biểu hiện bằng tiền, dùng trong sản xuất kinh
doanh nói chung, trong hoạt động sinh lợi [16, tr1087].
Theo một tài liệu khác, “vốn đầu tư” là nguồn lực tích luỹ được cuả xã
hội, cơ sở sản xất kinh doanh dịch vụ, tiết kiệm của dân, huy động từ nước
ngoài được biểu hiện dưới các dạng tiền tệ, các loại hoặc hàng hố hữu hình,
hàng hố vơ hình và hàng hố đặc biệt khác [25].
Từ các khái niệm này, có thể hiểu đầu tư vốn của Nhà nước vào DN là
việc Nhà nước bỏ vốn (thường là tiền) đầu tư thành lập, góp vốn vào các DN
nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Về lý thuyết, Nhà nước có
thể đầu tư vốn vào các DN dưới nhiều hình thức như: Đầu tư thực hiện dự án
tại DN; đầu tư 100% vốn thành lập DN; góp vốn cùng với các chủ thể khác để
thành lập DN hoặc góp vốn để trở thành thành viên, cổ đông của DN; đầu tư
bổ sung vốn cho các DN do Nhà nước thành lập, mua lại DN khác. Trong đó,

6


hai hình thức chủ yếu là đầu tư 100% vốn thành lập DN và góp vốn, liên
doanh liên kết thành lập DN.
Trước ngày 01/7/2010, ở Việt Nam tồn tại loại hình DN hoạt động theo

Luật DNNN năm 2003 và DN hoạt động theo Luật DN năm 2005. Đối với
loại hình DN hoạt động theo Luật DN Nhà nước 2003, có tên gọi chung là
DN Nhà nước (DNNN), với đặc trưng cơ bản là vốn điều lệ của loại DN này
do Nhà nước đầu tư 100% hoặc Nhà nước có cổ phần chi phối [7, Điều 1].
Tuy nhiên, kể từ sau ngày 1/7/2010, với chủ trương cải cách mạnh mẽ
các DN thuộc khu vực cơng để tăng cường tính hiệu quả cho hoạt động đầu
tư và sử dụng vốn Nhà nước, các DNNN có 100% vốn Nhà nước đầu tư đã
được chuyển đổi thành cơng ty TNHH một thành viên, cịn các DNNN trong
đó Nhà nước có cổ phần chi phối thì được chuyển đổi thành CTCP có vốn
góp của Nhà nước. Ngoài ra, một số CTNN được cơ cấu lại thành các tổng
CTNN, TĐKTNN và đều mang bản chất pháp lý là CTCP. Như vậy, hiện
nay những DN có vốn đầu tư của Nhà nước được tổ chức dưới các hình thức
pháp lý là CTCP, cơng ty TNHH một thành viên, công ty trách nhiệm hai
thành viên trở lên.
1.1.1.2. Đặc điểm của đầu tư vốn Nhà nước vào DN
Từ những phân tích trên, có thể rút ra một số điểm đặc trưng của hoạt
động đầu tư vốn Nhà nước vào DN như sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hoạt động đầu tư vốn của Nhà nước vào
DN chính là Nhà nước - với tư cách là một tổ chức đặc biệt của quyền lực
chính trị [11, tr30] đồng thời cũng là một nhà đầu tư lớn trên thị trường
nhằm các mục đích điều tiết nền kinh tế và ổn định xã hội. Điểm khác biệt
giữa chủ thể đầu tư là Nhà nước với chủ thể đầu tư là các tổ chức, cá nhân
khác là ở chỗ, tuy là người trực tiếp bỏ vốn đầu tư vào DN nhưng Nhà nước
không trực tiếp tự mình quản lý DN mà thơng qua các tổ chức, cá nhân là

7


người đại diện cho Nhà nước (ĐDCSH) để thực hiện các quyền của chủ sở
hữu đối với DN [4, tr17]. Đặc trưng này khiến cho chủ thể đầu tư là Nhà

nước khó kiểm sốt nguồn vốn đầu tư, dẫn đến nguy cơ có khả năng thất
thốt vốn trong q trình đầu tư vào DN.
Thứ hai, mục đích đầu tư vốn của Nhà nước vào DN khơng chỉ là tìm kiếm
lợi nhuận (giống như các chủ thể đầu tư khác) mà điều quan trọng hơn là thông
qua hoạt động này, Nhà nước thực hiện được vai trị điều tiết vĩ mơ đối với nền
kinh tế và ổn định xã hội. Điều này xuất phát từ nhu cầu thực hiện các chức
năng cơ bản của Nhà nước, bao gồm chức năng kinh tế và chức năng xã hội.
Thật vậy, thông qua việc đầu tư vốn vào những ngành, nghề, lĩnh vực
then chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ cơng ích thiết yếu cho xã hội và quốc phòng,
Nhà nước thực hiện điều tiết nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mơ [3, tr28].
Điều đó có nghĩa là hoạt động đầu tư, sử dụng vốn của Nhà nước luôn gắn với
nhiệm vụ cụ thể, vai trò định hướng nền kinh tế của quốc gia trong từng giai
đoạn, nhiệm vụ này không nằm ngồi chính sách phát triển kinh tế-xã hội,
chính sách đầu tư, chính sách tài chính tiền tệ quốc gia
Bên cạnh đó, thực hiện việc kinh doanh thơng qua hoạt động đầu tư vốn
vào DN, Nhà nước còn mong muốn giảm bớt gánh nặng đóng góp của dân
chúng đối với Nhà nước thông qua các khoản thuế và các khoản cho vay. Các
quốc gia hiện đại đều có xu hướng gia tăng chi tiêu thường xuyên trong khi áp
lực giảm các khoản thu từ công chúng ngày càng lớn. Mặt khác, Nhà nước
nắm nguồn tài chính to lớn của quốc gia, vì vậy dẫn đến việc Nhà nước phải
tìm kiếm nguồn thu từ chính năng lực tài chính vốn có của mình bằng việc
đầu tư vốn vào hoạt động sản xuất, kinh doanh để gia tăng lợi nhuận.
Thứ ba, nguồn vốn đầu tư của Nhà nước vào các DN dù thuộc sở hữu
Nhà nước nhưng suy cho cùng thì nguồn gốc hình thành nguồn vốn này chính
là từ sự đóng góp của cơng chúng, thơng qua các khoản thuế, lệ phí, phí hay

8


các khoản cho vay của công chúng đối với Nhà nước. Đối với bất cứ Nhà

nước nào, nếu khơng có sự phụ thuộc vào nguồn tài chính từ bên ngồi thì
năng lực tài chính quốc gia chỉ có thể được hình thành từ tổng giá trị hàng
hóa, dịch vụ xã hội (GDP hoặc GNP) do công chúng tạo ra và được đóng góp
một phần cho Nhà nước (chủ yếu là thuế). Điều này cũng cho thấy một vấn đề
là, Nhà nước thực hiện việc đầu tư với tư cách là chủ thể được nhân dân trao
quyền. Do vậy, nhân dân phải có quyền giám sát việc đầu tư, sử dụng vốn của
Nhà nước với tư cách là chủ thể đã tạo nên nguồn vốn đó. Đây cũng là điểm
khác biệt giữa hoạt động đầu tư vốn của Nhà nước so với các loại hình đầu tư
của các chủ thể đầu tư khác là tổ chức, cá nhân.
1.1.1.3. Vai trò của đầu tư vốn Nhà nước vào các DN
Trước hết phải khẳng định rằng, đối với bất kỳ quốc gia nào, hoạt động
đầu tư vốn của Nhà nước vào các DN cũng có vai trị hết sức quan trọng. Đối
với Việt Nam – quốc gia đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, hoạt
động này càng có ý nghĩa đặc biệt vì trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế,
Nhà nước chưa thể rút lui khỏi thị trường để cho thị trường - “bàn tay vơ
hình” tự điều tiết theo cơ chế của riêng nó, mà vai trị của Nhà nước - “bàn tay
hữu hình” vẫn rất quan trọng.
Việc làm rõ vai trò của hoạt động đầu tư vốn Nhà nước vào các DN sẽ
trả lời được câu hỏi vì sao Nhà nước phải thực hiện việc đầu tư vốn Nhà nước
vào các DN?
Để thấy rõ điều này, cần làm rõ vai trò của hoạt động đầu tư vốn Nhà
nước vào DN trên tứng khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, đối với chính chủ thể đầu tư - Nhà nước: Như đã nói ở trên,
đầu tư vốn vào các DN là một kênh đặc biệt để Nhà nước thực hiện chức
năng kinh tế và chức năng xã hội của mình. Thơng qua việc đầu tư, Nhà
nước chính thức trở thành một chủ thể tham gia thị trường. Với tiềm lực

9



kinh tế và các công cụ quản lý kinh tế, Nhà nước tác động, định hướng, điều
tiết nền kinh tế thông qua việc đầu tư vào các ngành, lĩnh vực đóng vai trị
thiết yếu, then chốt của nền kinh tế. Nói cách khác, đầu tư vốn là một hoạt
động cụ thể để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình đối với nền
kinh tế và đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, là một chủ thể đầu tư kinh doanh, Nhà nước không thể
không quan tâm đến yếu tố lợi nhuận. Lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư
vốn vào các DN sẽ là nguồn thu bổ sung cho ngân sách Nhà nước để từ đó
giúp Nhà nước có năng lực tài chính tốt hơn nhằm thực hiện các chính sách
phát triển kinh tế, an sinh xã hội.
Thứ hai, đối với các chủ thể tiếp nhận vốn đầu tư – các DN: Việc Nhà
nước đầu tư vốn vào DN là cách để những DN này tăng cường năng lực tài
chính của mình, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Hơn nữa,
thực tế cũng đã chứng minh rằng trong nhiều năm qua, những DN có vốn đầu
tư của Nhà nước thường có nhiều lợi thế hơn trong việc tiếp cận các nguồn
vốn tín dụng từ hệ thống ngân hàng, cũng như lợi thế từ việc tiếp cận các
chính sách ưu đãi của Nhà nước về tài chính, lao động, đất đai và tài ngun
mơi trường so với các DN khơng có vốn đầu tư của Nhà nước. Đây cũng
chính là ảnh hưởng khơng mong muốn của việc đầu tư vốn Nhà nước vào các
DN vì nó có thể tạo ra tình trạng bất cơng bằng giữa các DN có vốn đầu tư
của Nhà nước với các DN khơng có vốn đầu tư của Nhà nước trên thị trường;
đồng thời, cũng đặt ra vấn đề cho các nhà quản trị chính sách cơng là phải làm
thế nào để cho Nhà nước vẫn có thể thực hiện đầu tư vốn hiệu quả vào DN mà
không gây ra hiệu ứng “bóp méo” thị trường, khơng tạo ra tình trạng bất cơng
bằng và khơng bình đẳng về vị thế, cơ hội giữa các DN trong nền kinh tế.
Thứ ba, đối với nền kinh tế và đời sống xã hội, việc đầu tư vốn của Nhà
nước vào DN là cách để Nhà nước thực hiện chủ trương giữ vững vai trò chủ

10



đạo của khu vực kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân, dù rằng chủ
trương này có thể khơng cịn phù hợp trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu
và sức ép của dư luận xã hội, dư luận quốc tế về việc phải đảm bảo sự bình
đẳng giữa các DN thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong nhiều giai đoạn lịch
sử đã chứng minh rằng, kinh tế Nhà nước không chỉ được coi trọng ở các
quốc gia thuộc khối XHCN trước đây, mà còn tồn tại ngay ở cả những quốc
gia theo đuổi nền kinh tế thị trường từ rất sớm như Anh, Pháp, Đức, Hoa
Kỳ… [3, tr16]. Bởi lẽ, không phải khi nào “bàn tay vô hình” của thị trường
cũng có khả năng tự điều tiết nền kinh tế một cách hiệu quả, khi đó, Nhà nước
phải xuất hiện để can thiệp kịp thời nhằm điều tiết hoạt động kinh tế và khắc
phục các “thất bại” của thị trường.
1.1.2. Các yếu tố cấu thành hoạt động đầu tƣ vốn Nhà nƣớc vào DN
Về phương diện lý thuyết, hoạt động đầu tư vốn của Nhà nước vào DN là
một hoạt động kinh tế - hoạt động có ý thức thông qua việc xác lập quan hệ đầu
tư vốn giữa chủ thể đầu tư (Nhà nước) và chủ thể tiếp nhận vốn đầu tư (DN).
Hoạt động này được cấu thành bởi nhiều yếu tố như: Chủ thể tham gia quan hệ
đầu tư (gồm chủ thể đầu tư và chủ thể tiếp nhận vốn đầu tư); nguồn vốn đầu tư;
cách thức đầu tư; hệ quả pháp lý của việc đầu tư vốn Nhà nước vào DN.
Các phân tích dưới đây sẽ cho thấy rõ hơn bản chất và mối quan hệ tác
động qua lại giữa các yếu tố này với nhau trong tổng thể hoạt động đầu tư vốn
Nhà nước vào DN.
1.1.2.1. Chủ thể tham gia quan hệ đầu tư (gồm chủ thể đầu tư vốn
Nhà nước và chủ thể tiếp nhận vốn đầu tư)
Trong quan hệ đầu tư, chủ thể có vai trị quyết định hình thành quan hệ
đầu tư chính là chủ thể thực hiện việc đầu tư vốn – chủ thể đầu tư. Từ khái
niệm đầu tư, có thể hiểu nhà đầu tư là người bỏ vốn, tài sản để trực tiếp thực
hiện hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi hoặc đầu tư để chủ thể khác

11



thực hiện hoạt động kinh doanh để chia lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh đó.
Với tư cách là chủ thể đầu tư, Nhà nước phải quan tâm đến việc đảm
bảo các lợi ích mà mình cần theo đuổi khi thực hiện hoạt động đầu tư vốn vào
DN, bao gồm: lợi ích từ việc thu lợi nhuận do đầu tư; lợi ích từ việc kiểm
sốt, điều tiết và dẫn dắt các ngành kinh tế phát triển theo định hướng của
mình thông qua hoạt động đầu tư vốn trực tiếp vào những DN có vị trí thiết
yếu, then chốt trong nền kinh tế.
Với tư cách là chủ thể tiếp nhận vốn đầu tư của Nhà nước, các DN cũng
phải quan tâm đến các lợi ích cũng như các chi phí của mình khi tiếp nhận
vốn đầu tư từ Nhà nước, bao gồm các lợi nhuận có thể thu được từ việc tiếp
nhận và sử dụng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước; các cơ hội và thách thức
mới phát sinh do tiếp nhận nguồn vốn đầu tư của Nhà nước; các chi phí bỏ ra
do việc tiếp nhận vốn đầu tư của Nhà nước như chi phí về trả lãi góp vốn cho
chủ thể đầu tư, chi phí do phải chịu sự kiểm soát trực tiếp của Nhà nước đối
với hoạt động quản lý và sử dụng vốn trong DN.
Lẽ đương nhiên, quan hệ đầu tư chỉ có thể hình thành trên cơ sở sự đồng
thuận của cả hai bên (bên đầu tư và bên tiếp nhận vốn đầu tư) mà nền tảng để
có được sự đồng thuận này chính là sự thống nhất về lợi ích giữa các bên khi
thiết lập quan hệ đầu tư. Vì vậy, để hoạt động đầu tư vốn của Nhà nước vào
DN trở nên dễ dàng và hiệu quả, được xã hội chấp nhận thì điều rất quan trọng
là Nhà nước khơng chỉ tính đến lợi ích của riêng mình mà cần phải tính đến và
quan tâm đến lợi ích của cả DN (với tư cách là đối tác tiếp nhận vốn đầu tư),
cũng như lường trước những tác động không mong muốn đến lợi ích của cộng
đồng xã hội và các DN khác không nhận được vốn đầu tư của Nhà nước.
1.1.2.2. Nguồn vốn đầu tư của Nhà nước vào DN
Nguồn vốn đầu tư nói chung được hiểu là các kênh tập trung và phân
phối vốn cho đầu tư phát triển đáp ứng nhu cầu chung của Nhà nước và xã


12


hội [25]. Từ đó có thể hiểu, nguồn vốn đầu tư của Nhà nước vào các DN là
các kênh tập trung và phân phối vốn của Nhà nước cho DN nhằm các mục
tiêu mà Nhà nước mong muốn.
Về phương diện lý thuyết, vốn đầu tư của Nhà nước vào các DN có thể
hình thành từ các nguồn sau đây:
Thứ nhất, nguồn vốn đầu tư từ quỹ ngân sách Nhà nước (thuộc nhóm
chi đầu tư phát triển). Đây là nguồn tài chính chủ yếu để tạo nên vốn đầu tư của
Nhà nước vào hoạt động kinh tế, trong đó có hoạt động đầu tư vốn vào DN. Sở
dĩ Nhà nước sẵn sàng sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước để thực hiện hoạt động
đầu tư vốn cho các DN vì Nhà nước nhận thấy thơng qua hoạt động này thì
Nhà nước sẽ đạt được các mục tiêu, lợi ích quan trọng mà mình mong muốn.
Chẳng hạn: Ở Việt Nam, theo quy định của Luật ngân sách Nhà nước năm
2002 thì việc Nhà nước đầu tư vốn vào DN chính là chi ngân sách Nhà nước
cho đầu tư phát triển. Tại điểm b khoản 1 Điều 3 Nghị định số 60/2003/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 6/6/2003 về hướng dẫn thi hành Luật ngân sách Nhà
nước cũng quy định cụ thể về khoản chi này, theo đó chi đầu tư phát triển bao
gồm khoản chi đầu tư và hỗ trợ cho các DN, các tổ chức kinh tế, các tổ chức
tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần, liên doanh vào các DN thuộc lĩnh
vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, nguồn vốn đầu tư từ các quỹ tập trung khác của Nhà nước
(ngoài quỹ ngân sách Nhà nước). Đây là nguồn tài chính bổ sung cho hoạt
động đầu tư vốn của Nhà nước vào DN, ngồi nguồn vốn chính hình thành từ
các khoản chi đầu tư phát triển của ngân sách Nhà nước.
Ví dụ: Hiện nay ở Việt Nam, ngồi quỹ ngân sách Nhà nước thì Nhà
nước cịn có trên 50 quỹ tài chính tập trung khác cũng thuộc phạm vi tài chính
Nhà nước, bộ phận cấu thành của tài chính quốc gia [25]. Một số quỹ được
xác định là nguồn đầu tư vốn Nhà nước vào DN như Quỹ hỗ trợ sắp xếp và


13


phát triển DN. Ví dụ: Theo các khoản 3, 4 Quy chế quản lý và sử dụng Quỹ
hỗ trợ sắp xếp và phát triển DN được ban hành kèm theo Quyết định số
21/2012/QĐ-TTg ngày 10/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ, các nội dung chi
của Quỹ bao gồm:
- Bổ sung vốn điều lệ cho các Cơng ty mẹ của Tập đồn kinh tế, Tổng
CTNN, DN 100% vốn sở hữu Nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính
phủ trên cơ sở đề nghị của Bộ Tài chính theo quy định của pháp luật;
- Đầu tư bổ sung vốn để duy trì hoặc tăng tỷ lệ phần vốn Nhà nước
đang tham gia tại các DN khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ trên
cơ sở đề nghị của Bộ Tài chính và cơ quan được giao thực hiện quyền
ĐDCSH vốn Nhà nước.
Ngồi hai nguồn tài chính nói trên, theo một số tài liệu [25] và một số
văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Việt Nam, nguồn vốn đầu tư của
Nhà nước còn bao gồm các nguồn khác như: Vốn vay (vốn tín dụng do Nhà
nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước…), vốn đầu tư
của chính các DNNN… Tuy nhiên, theo ý kiến của tác giả thì khơng nên coi
những nguồn vốn này là vốn đầu tư của Nhà nước, bởi vì:
Một là, đối với nguồn vốn vay. Cùng với quá trình mở cửa, nguồn vốn
tín dụng của Nhà nước càng có vai trị quan trọng. Với việc sử dụng nguồn
vốn này, giúp giảm việc bao cấp trực tiếp ngân sách Nhà nước cho các DN.
Về nguyên tắc, vốn vay được thực hiện theo cơ chế tín dụng, tức các
đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo hoàn trả vốn vay. Quan hệ giữa
Nhà nước và các DN sẽ là quan hệ tín dụng. Trong quan hệ này, Nhà nước
đóng vai trị là bên cho vay, DN là bên vay và có nghĩa vụ đảm bảo hoàn trả
cho Nhà nước theo thời hạn đã định. Đây không phải quan hệ đầu tư như khái
niệm đầu tư đã phân tích ở trên.

Hai là, đối với nguồn vốn đầu tư của chính các DNNN. Là các DN có

14


phần vốn góp chi phối của Nhà nước, các DNNN nắm giữ lượng vốn khá lớn
và là một chủ thể tham gia đầu tư tích cực trên thị trường. Các DNNN tham
gia đầu tư vào các dự án, thành lập các cơng ty con, góp vốn đầu tư cùng các
loại hình DN khác… Song nếu coi vốn đầu tư của các DNNN cũng là vốn đầu
tư của Nhà nước là không hợp lý. Bởi lẽ, cơ cấu vốn của DNNN khơng chỉ
bao gồm vốn chủ sở hữu mà có cả vốn vay (từ tổ chức tín dụng, từ việc phát
hành trái phiếu…).
Từ những phân tích trên, tác giả đồng ý với ý kiến cho rằng vốn Nhà
nước đầu tư cần được hiểu thống nhất với hai đặc điểm cơ bản:
(i) Vốn Nhà nước được NSNN đầu tư một lần khi thành lập DN hoặc
tăng vốn trong quá trình hoạt động kinh doanh, từ nguồn quỹ ngân sách Nhà
nước và các quỹ ngoài ngân sách Nhà nước (quỹ đầu tư phát triển tại DN,
quỹ hỗ trợ sắp xếp DN…) mà không bao gồm vốn vay (vốn tín dụng ưu đãi,
vốn tín dụng từ NHTM, vốn tín dụng đầu tư phát triển, vốn tín dụng do Nhà
nước bảo lãnh);
(ii) Vốn Nhà nước chỉ đầu tư vào DN cấp I (công ty mẹ), không coi
việc sử dụng nguồn vốn công ty mẹ đầu tư vào DN khác là vốn đầu tư của
Nhà nước vào DN [18].
1.1.2.3. Cách thức chuyển vốn đầu tư của Nhà nước vào DN
Về lý thuyết, hoạt động đầu tư vốn của Nhà nước vào DN khơng có sự
khác biệt nhiều so với việc các tổ chức, cá nhân khác đầu tư vốn vào DN.
Điều này có nghĩa là, trong quá trình đầu tư vốn vào DN, Nhà nước chỉ nên
hành xử đúng như tư cách của một nhà đầu tư, với đầy đủ các quyền và nghĩa
vụ của nhà đầu tư theo quy định của pháp luật đầu tư. Nói cách khác, khi đầu
tư vốn vào DN, Nhà nước - với tư cách là chủ thể đầu tư, phải chuyển giao

quyền sở hữu vốn cho DN nhận vốn góp và do đó trở thành chủ sở hữu hoặc
đồng chủ sở hữu DN. Cịn DN nhận vốn góp sẽ có quyền sở hữu đối với phần

15


vốn góp/vốn đầu tư của Nhà nước và có tồn quyền chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt đối với phần vốn này, với tư cách của một chủ sở hữu thực sự. Khi
đó, mối quan hệ giữa Nhà nước với DN nhận vốn đầu tư sẽ có bản chất là
quan hệ đầu tư, trong đó Nhà nước là chủ sở hữu DN, còn DN sở hữu phần
vốn của Nhà nước và các nhà đầu tư khác đã đầu tư vào DN (nếu có).
Ở Việt Nam trước đây, do nhận thức rằng DNNN phải thuần túy thuộc
sở hữu Nhà nước nên Nhà nước đã chủ động tạo ra mối quan hệ có tính chất
bao cấp giữa Nhà nước và DN có vốn Nhà nước. Khi đó, vốn đầu tư của Nhà
nước được chuyển giao cho DN theo hình thức cấp phát. Nhà nước khơng
đóng vai trị là một nhà “đầu tư” theo đúng nghĩa trong mối quan hệ với DN
mà là bên “giao vốn”. Nhà nước giao cho DN trực tiếp quản lý, sử dụng vốn,
tài sản nhưng DN khơng có quyền sở hữu đối với tài sản đó. Chính vì sử dụng
tài sản không phải với tư cách là chủ sở hữu nên DN thiếu trách nhiệm, thiếu
chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn được Nhà nước giao cho. Đồng thời
để quản lý việc sử dụng vốn của DN, Nhà nước cũng phải can thiệp quá nhiều
vào hoạt động của DN, dẫn đến tình trạng quan hệ giữa Nhà nước và DNNN
bị hành chính hóa.
Hiện nay, với việc thay đổi nhận thức về DNNN, việc đầu tư vốn của
Nhà nước vào các DN đang dần dần được chuyển hóa theo xu hướng xác lập
quan hệ đầu tư. Thật vậy, với việc cho ra đời mơ hình Tổng cơng ty đầu tư và
kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC), trong những năm gần đây việc đầu tư của
Nhà nước đã dần được chuyển từ cơ chế cấp phát vốn sang cơ chế đầu tư vốn.
Với cơ chế này, vốn đầu tư của Nhà nước vào DN sẽ được chuyển quyền sở
hữu cho DN theo nguyên tắc chung của Luật DN. Cụ thể là:

- Đối với tài sản có đăng ký hoặc giá trị quyền sử dụng đất thì nhà đầu
tư phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất
cho DN tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;

16


- Đối với tài sản khơng đăng kí quyền sở hữu thì việc đầu tư vốn phải
được thực hiện bằng việc giao nhận tài sản có xác nhận bằng biên bản; tài sản
đầu tư phải được định giá theo quy định của pháp luật.
Như vậy, với tư cách là chủ sở hữu vốn của DN, DN có quyền chủ động
trong việc sử dụng vốn, nâng cao tính lợi nhuận. Là nhà đầu tư, Nhà nước sẽ
tham gia quản lý, giám sát nguồn vốn với tư cách là chủ sở hữu DN, thành
viên hoặc cổ đông của DN.
1.1.2.4. Hệ quả pháp lý của việc đầu tư vốn Nhà nước vào DN và các
vấn đề phát sinh trong quá trình đầu tư vốn vào DN
Về nguyên tắc, khi chủ thể bất kì đầu tư lượng vốn nhất định vào DN
thì chủ thể đó sẽ có quyền sở hữu, quản lý DN và hưởng lợi nhuận tương ứng
với phần vốn của mình đã đầu tư vào DN.
Đối với hoạt động đầu tư vốn của Nhà nước vào các DN, mỗi hình thức
đầu tư sẽ dẫn đến các hệ quả pháp lý khác nhau. Chẳng hạn như:
- Nếu Nhà nước đầu tư vốn thành lập DN mới hoặc Nhà nước đầu tư
vốn mua lại tồn bộ DN khác, khi đó vốn đầu tư của Nhà nước sẽ là 100%
vốn điều lệ của DN và do đó Nhà nước có tư cách là chủ sở hữu duy nhất của
DN. Loại hình DN này được gọi là công ty TNHH 1 thành viên do Nhà nước
làm chủ sở hữu.
- Nếu Nhà nước liên doanh, liên kết với các chủ thể khác để thành lập
DN là các cơng ty TNHH có 2 thành viên trở lên, CTCP hoặc Nhà nước góp
vốn vào các DN này thì khi đó, Nhà nước sẽ có tư cách là đồng sở hữu đối với
DN nhận vốn góp, cùng với các thành viên khác.

Việc xác định tư cách pháp lý của Nhà nước trong mỗi loại hình DN là
cơ sở để xác định quyền, nghĩa vụ tương ứng của chủ sở hữu là Nhà nước.
Ở Việt Nam trước đây, khi Luật DNNN còn hiệu lực, những DNNN
nắm giữ phần vốn chi phối (trên 50%) sẽ được gọi là DNNN và hoạt động

17


theo quy định của Luật DNNN năm 2003. Các DN khác có vốn góp của Nhà
nước (từ 50% trở xuống) sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật DN năm 2005.
Tương ứng, quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu Nhà nước cũng sẽ được xác
định theo các văn bản này. Tuy nhiên, kể từ ngày 01/7/2010, Luật DNNN hết
hiệu lực, mọi loại hình DN khơng phụ thuộc vào cơ cấu vốn của Nhà nước
đều hoạt động theo quy định của Luật DN năm 2005. Quyền của chủ đầu tư là
Nhà nước sẽ được xác định theo quy định của Luật DN và các văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan tương ứng với quyền của chủ sở hữu công ty
TNHH một thành viên, thành viên cơng ty TNHH có hai thành viên trở lên
và/hoặc cổ đông của CTCP.
Về phương diện lý thuyết, trong quá trình đầu tư vốn của Nhà nước vào
DN, có thể phát sinh một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, tăng vốn đầu tư: Trong quan hệ đầu tư nói chung, chủ thể đầu
tư có quyền tăng, giảm vốn đầu tư để phù hợp với mục đích và tình hình kinh
doanh của DN. Trong q trình đầu tư, Nhà nước có thể quyết định tăng vốn
đầu tư thông qua việc bổ sung vốn điều lệ trong q trình hoạt động của DN
hoặc tăng phần vốn góp của Nhà nước tại các DN khác. Về nguyên tắc, chủ
thể nào có quyền quyết định đầu tư vốn vào DN thì sẽ có quyền đầu tư tăng
hoặc giảm vốn đầu tư tại DN. Để đảm bảo việc tăng, giảm vốn đúng mục
đích, tạo điều kiện để DN phát triển, phải có phương án tăng vốn được cơ
quan có thẩm quyền quyết định.
Thứ hai, giảm vốn đầu tư, thu hồi toàn bộ vốn Nhà nước đầu tư tại DN.

Đối với những lĩnh vực, ngành nghề mà Nhà nước không cần duy trì 100%
vốn điều lệ hoặc khơng cần duy trì vốn góp, Nhà nước có thể thối vốn đầu tư
thơng qua việc giảm vốn hoặc thu hồi toàn bộ vốn đầu tư. Đây cũng là biện
pháp để thu hút thêm nguồn vốn đầu tư của các nhà đầu tư chiến lược khác.
Để đảm bảo việc giảm vốn, thu hồi vốn được minh bạch, không làm ảnh hưởng

18


đến sự tồn tại, hoạt động của DN thì việc giảm vốn, thu hồi vốn phải được
thực hiện thông qua cơ chế chuyển nhượng vốn theo quy định của pháp luật.
1.2. MƠ HÌNH PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ VỐN CỦA NHÀ NƯỚC
VÀO DOANH NGHIỆP
1.2.1. Bản chất mối quan hệ giữa Nhà nƣớc và DN có vốn đầu tƣ
của Nhà nƣớc
Xác định bản chất mối quan hệ giữa chủ đầu tư là Nhà nước với DN
tiếp nhận vốn đầu tư là vấn đề phức tạp, cần được tiếp cận cả từ góc độ kinh
tế và góc độ pháp lý.
Dưới góc độ kinh tế, khi xem xét bản chất mối quan hệ giữa chủ thể đầu
tư là Nhà nước và DN nhận vốn đầu tư của Nhà nước, cần nhận thức rằng đây
chính là mối quan hệ giữa các chủ thể kinh tế trên cơ sở hành vi đầu tư vốn.
Đối với trường hợp Nhà nước đầu tư thành lập DN hoặc liên doanh, liên
kết thành lập DN, rõ ràng hành vi đầu tư của Nhà nước là cơ sở cho sự ra đời
của DN. Tuy nhiên cần phải thấy rằng, khi DN được thành lập, bản thân nó có
sự độc lập về tài sản so với chủ sở hữu DN. Nói cách khác, khi đó DN nhân danh
chính mình tham gia vào các quan hệ pháp luật. Cần phải nhận rõ, Nhà nước là
chủ sở hữu DN, còn DN là chủ sở hữu tài sản của DN [10, tr18]. Tài sản đó
chính là vốn đầu tư của Nhà nước đã được chuyển quyền sở hữu cho DN.
Dưới góc độ pháp lý, bản chất mối quan hệ giữa Nhà nước và DN có vốn
đầu tư của Nhà nước có thể được nhìn nhận như là một quan hệ pháp luật về

đầu tư, bao gồm ba yếu tố: chủ thể, khách thể và nội dung của quan hệ pháp luật.
- Về chủ thể: Quan hệ pháp luật đầu tư vốn Nhà nước vào DN có thành
phần chủ thể tham gia gồm một bên là Nhà nước - chủ thể đầu tư vốn, còn
bên kia là DN - chủ thể tiếp nhận vốn đầu tư. Hai chủ thể này bình đẳng với
nhau về địa vị pháp lý, do bản chất của quan hệ pháp luật này có tính chất của
quan hệ dân sự - thương mại.

19


×