ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN ĐỨC THƢỞNG
THỦ TỤC PHỤC HỒI TRONG PHÁP LUẬT PHÁ
SẢN – NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN ĐỨC THƢỞNG
THỦ TỤC PHỤC HỒI TRONG PHÁP LUẬT PHÁ
SẢN – NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Ngô Huy Cƣơng
Hà Nội – 2013
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tự do cạnh tranh và phá sản là những thuộc tính vốn có của kinh tế thị
trường. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nào không đáp ứng được
những đòi hỏi nghiệt ngã của thương trường, của sức ép cạnh tranh sẽ bị đào
thải. Để loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, mất khả năng
thanh toán các khoản nợ đến hạn, đồng thời phòng ngừa, khắc phục những
hậu quả, rủi ro mà những doanh nghiệp này có thể gây ra cho nền kinh tế, mỗi
quốc gia đều phải xây dựng và thực thi một cơ chế phá sản có hiệu quả. Tuy
nhiên, do tính chất nhạy cảm và mức độ ảnh hưởng rộng tới nhiều đối tượng
khác nhau trong đời sống kinh tế nên cơ chế phá sản luôn đòi hỏi sự can thiệp
mềm dẻo, linh hoạt của Nhà nước, phù hợp với những yêu cầu thực tiễn mà
hoạt động kinh doanh đặt ra. Tuyên bố phá sản một con nợ chỉ là giải pháp
cuối cùng nếu việc tái cấu trúc lại con nợ không đạt được kết quả thông qua
thủ tục phá sản.
Trong hệ thống pháp luật về phá sản hiện đại, thủ tục phục hồi doanh
nghiệp, hợp tác xã mắc nợ là một nội dung quan trọng. Sự ra đời của thủ tục
phục hồi nhằm đem lại cho con nợ đang lâm vào tình trạng phá sản những
điều kiện và cơ hội tiếp tục kinh doanh. Điều này không chỉ cứu vãn doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thoát khỏi tình trạng bị thanh lý tài sản,
phục hồi lại được hoạt động sản xuất kinh doanh của mình mà còn có thể đảm
bảo quyền lợi cho chính bản thân các chủ nợ cũng như duy trì trật tự, ổn định
xã hội, duy trì công ăn việc làm cho người lao động trong doanh nghiệp mắc
nợ.
Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh công cuộc hội nhập kinh tế
quốc tế. Pháp luật phá sản Việt Nam cũng đang từng bước được hoàn thiện để
phù hợp với công cuộc hội nhập này. Lần đầu tiên được ban hành vào năm
1993, Luật phá sản doanh nghiệp cũng đã có những quy định khá chi tiết, thể
hiện đầy đủ nội dung của thủ tục phục hồi nhằm cứu vãn doanh nghiệp gặp khó
khăn về tài chính trong hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng phá sản. Sự
thay thế của Luật phá sản 2004 cho Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 với
việc sửa đổi, bổ sung một số quy định của đạo luật này đã làm cho pháp luật
phá sản ngày càng phát triển hoàn thiện hơn và thủ tục phục hồi doanh nghiệp,
hợp tác xã mắc nợ tiến thêm một bước mới đã khuyến khích nhiều hơn nữa
việc tham gia áp dụng thủ tục này. Có thể nói sự ra đời của Luật phá sản 2004
còn nhằm mục đích đưa đạo luật này phát triển theo chiều hướng phục hồi
doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ. Tuy nhiên, thực tế thi hành Luật phá sản
trong thời gian qua đã cho chúng ta thấy nhiều điểm bất cập, nhiều quy định
không phù hợp với thực tiễn, việc phục hồi doanh nghiệp đạt hiệu quả thấp.
Từ những lý do kể trên, tác giả luận văn mạnh dạn lựa chọn đề tài “Thủ
tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho
luận văn của mình với mục đích góp phần vào việc nâng cao hiệu quả của thủ
tục phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Đây là một
chủ đề nghiên cứu vừa có ý nghĩa sâu sắc về mặt lý luận vừa có tính thực tiễn
cao ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã từ lâu, việc nghiên cứu về phá sản và pháp luật phá sản không
còn là một hướng nghiên cứu xa lạ ở Việt Nam. Đã có rất nhiều các công
trình nghiên cứu công phu về chùm chủ đề này được công bố, trong đó có
những công trình tiêu biểu như: “Giáo trình Luật Kinh tế”, “Giáo trình Luật
thương mại” của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Luật Hà
Nội, Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Mở Hà Nội, Đại học Công nghiệp
thành phố Hồ Chí Minh,… và các sách tham khảo như: “Pháp luật phá sản
của Việt Nam 2005” của PGS.TS Dương Đăng Huệ; “Báo cáo rà soát,
đánh giá thực tiễn thi hành Luật phá sản năm 2004” do Bộ Tư pháp xây
dựng; hoặc các bài viết như: “Đi tìm triết lý của Luật phá sản” của
PGS.TS Phạm Duy Nghĩa; “Luật phá sản năm 2004 với việc cải thiện môi
trường kinh doanh tại Việt Nam” của PGS.TS Dương Đăng Huệ; “Một số ý
kiến về dự thảo Luật phá sản (sửa đổi)” của PGS.TS Dương Đăng Huệ -
Cao Đăng Vinh…; cho tới các khóa luận tốt nghiệp bậc cử nhân, luận văn
thạc sĩ và luận án tiến sĩ đã bảo vệ thành công.
Tuy nhiên, các công trình và bài viết này chỉ đề cập đến những nội
dung cơ bản của thủ tục phá sản nói chung mà chưa nghiên cứu một cách
chuyên sâu, toàn diện và hệ thống về các khía cạnh pháp lý của thủ tục
phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ với tư cách là một thủ tục độc
lập cũng như đánh giá toàn diện thực trạng của các quy định về thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về thủ tục phục hồi.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chính của luận văn là nghiên cứu một cách hệ thống, toàn
diện các vấn đề lý luận về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, thực trạng
quy định và áp dụng pháp luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh để
trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả của thủ tục
phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ.
Để thực hiện được mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ cụ thể sau:
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về thủ tục phục hồi thương nhân
vỡ nợ trong pháp luật phá sản;
Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay về thủ tục
phục hồi đối với thương nhân vỡ nợ;
Nghiên cứu so sánh pháp luật phá sản của một số quốc gia trên thế giới về
thủ tục phục hồi;
Đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của pháp
luật phá sản ở nước ta hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một Luật văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học, tác giả
Luận văn chỉ tập trung khai thác và nghiên cứu đề tài ở phạm vi những vấn đề
pháp lý liên quan đến thủ tục phục hồi thương nhân vỡ nợ ở Việt Nam với
tính chất là một phần của thủ tục phá sản sau khi đã có quyết định mở thủ tục
phá sản của tòa án.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa
Mác Lênin. Bên cạnh đó, Luận văn cũng tiếp thu những tinh thần và nguyên
tắc cơ bản của hệ thống pháp luật Việt Nam. Cùng với việc tổng hợp, phân
tích, đánh giá các thông tin khác nhau, những bài học rút ra từ thực tiễn và so
sánh đối chiếu với các quan điểm lý luận đã có để giải quyết các vấn đề mà
nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài đã đặt ra.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ
lục, luận văn bao gồm 3 chương.
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THñ TỤC PHỤC HỒI TRONG
PHÁP LUẬT PHÁ SẢN HIỆN ĐẠI
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của thủ tục phục hồi trong thủ tục phá sản
1.1.1. Khái niệm thủ tục phục hồi
Trong nền kinh tế thị trường, các loại hình doanh nghiệp khác nhau
thuộc mọi thành phần kinh tế được Nhà nước khuyến khích thành lập và tạo
điều kiện hoạt động một cách bình đẳng và cạnh tranh trong khuôn khổ pháp
luật. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, không thể tránh khỏi hiện tượng,
bên cạnh những doanh nghiệp được thành lập và kinh doanh có hiệu quả, tạo
ra nhiều sản phẩm và công ăn việc làm cho người lao động, góp phần cho sự
ổn định và phát triển kinh tế xã hội, còn có một bộ phận không nhỏ những
doanh nghiệp do nhiều nguyên nhân khác nhau làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả,
không thể thanh toán được các nghĩa vụ tài chính của mình khi đến hạn. Điều
này không chỉ làm ảnh hưởng tới chính bản thân doanh nghiệp, hợp tác xã đó
mà nó còn có thể gây thiệt hại tới nhiều chủ thể khác, đó là quyền lợi của các
chủ nợ không được bảo đảm, lợi ích của người lao động bị xâm phạm và đặc
biệt sự đổ vỡ của các doanh nghiệp lớn hoặc những doanh nghiệp hoạt động
trong những lĩnh vực “nhạy cảm” như tài chính, tín dụng, bảo hiểm… thì còn
có thể kéo theo những hệ quả rất xấu cho nền kinh tế. Trước thực trạng đó, để
bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, hạn chế các thiệt hại cho người lao động và
để duy trì sự ổn định của nền kinh tế, hầu hết các cước trên thế giới đều có
các quy định pháp lý về thủ tục phá sản đối với các thương nhân vỡ nợ.
Cũng cần phải nói thêm rằng, khi một thương nhân vỡ nợ, các chủ nợ
và người lao động hoàn toàn có thể lấy nợ bằng cách khởi kiện đòi nợ theo
thủ tục dân sự. Tuy nhiên, khi phải giải quyết mối quan hệ nợ nần giữa một
con nợ với nhiều chủ nợ ở trạng thái mà sản nghiệp còn lại của con nợ không
còn đủ để thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với tất cả các chủ nợ thì thủ tục dân sự
đã thể hiện một số những khiếm khuyết như:
Thứ nhất, nếu sử dụng thủ tục lấy nợ dân sự trong trường hợp một con
nợ có nhiều chủ nợ thì sẽ có sự xuất hiện đồng thời của nhiều vụ kiện dân sự
trên thực tế và điều này dẫn đến hệ quả là sự quá tải của hệ thống tòa án cũng
như chi phí đòi nợ lớn cũng sẽ làm tiêu hao sản nghiệp vốn đã hạn hẹp của
con nợ và trực tiếp ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ nợ;
Thứ hai, thủ tục dân sự chỉ cho phép chủ nợ thực hiện quyền đòi nợ của
mình khi khoản nợ đã đáo hạn. Vì vậy khi các khoản nợ không đáo hạn cùng
một lúc sẽ dẫn đến tình trạng “lo âu” của các chủ nợ có các khoản nợ đáo hạn
sau khi mà họ nhìn thấy sản nghiệp của con nợ đã không còn hoặc còn rất ít
và chắc chắn sẽ không đủ để thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với mình.
Ngay cả khi các khoản nợ đáo hạn cùng một lúc thì theo thủ tục dân sự, cơ
quan tài phán cũng chỉ có thể ra phán quyết buộc con nợ có nghĩa vụ phải
thanh toán chứ không thể giải quyết thỏa đáng vấn đề con nợ không còn khả
năng thực hiện đồng thời tất cả các nghĩa vụ tài sản của mình [28, Tr 22].
Tất cả những khiến khuyết kể trên của thủ tục dân sự chỉ có thể được
khỏa lấp bằng cơ chế lấy nợ tập thể của thủ tục phá sản. Để đảm bảo sự công
bằng của các chủ nợ có vị thế giống nhau khi tiếp cận tài sản của con nợ, thay
vì việc để cho các chủ nợ có thể kiện đòi nợ một cách riêng rẽ, thủ tục phá sản
tạo ra một cơ chế lấy nợ tập thể giữa một bên là toàn bộ các chủ nợ (nhiều
hơn một chủ nợ) đối với một con nợ duy nhất. Trong điều kiện sản nghiệp của
con nợ không còn đủ để đồng thời thanh toán hết tổng số nợ, dù con nợ có
trao toàn bộ sản nghiệp của mình cho các chủ nợ thì rủi ro vẫn là quá lớn đồi
với các chủ nợ. Nếu có thể, bằng một giải pháp nào đó và với sự trợ giúp của
các chủ nợ, mà con nợ còn có thể tiếp tục tồn tại thì cơ hội để thu hồi đủ số nợ
cho các chủ nợ lại trở lên khả quan hơn. Chính vì vậy, so với thủ tục đòi nợ
dân sự, thủ tục phá sản không đơn thuần chỉ là một công cụ lấy nợ “tập thể”
mà còn hướng vào mục tiêu tái cấu trúc lại con nợ nhằm hài hòa một cách tốt
nhất những mâu thuẫn lợi ích giữa chủ nợ, con nợ, người lao động và nền
kinh tế.
Ở thời điểm hiện tại, bất kì một đạo luật phá sản được coi là hiện đại
trên thế giới đều coi trọng việc cứu vãn hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp mắc nợ. Toà án chỉ tuyên bố phá sản con nợ trong những trường hợp
bất đắc dĩ, khi các biện pháp khôi phục hoạt động kinh doanh và khả năng
thanh toán của con nợ không thành công. Việc phục hồi hoạt động kinh doanh
của con nợ có ý nghĩa không chỉ đối với bản thân con nợ mà còn có ý nghĩa
lớn đối với các chủ nợ, người lao động, các đối tác, đặc biệt là đối với sự
vững mạnh của nền kinh tế đất nước. Việc phục hồi tạo cơ hội cho doanh
nghiệp mắc nợ vượt qua tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, khôi
phục lại hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường, hạn chế đến mức thấp
nhất việc giải thể doanh nghiệp khi còn có hy vọng phục hồi nó.
Việc phục hồi hoạt động kinh doanh làm tăng thêm sự tin tưởng của
người lao động đối với doanh nghiệp. Trong hoàn cảnh nào đi nữa và với bất
kỳ lý do gì, nếu doanh nghiệp mắc nợ phục hồi được hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình, thu được lợi nhuận, lấy lại được uy tín trên thương trường
thì nó không chỉ giải quyết được các khoản nợ lương đối với người lao động
mà còn tạo sự gắn bó hơn nữa giữa người lao động đối với doanh nghiệp. Quá
trình phân công lao động ngày càng theo chiều rộng và chiều sâu ở mỗi thị
trường quốc gia và thị trường toàn cầu đã làm tính phụ thuộc giữa các doanh
nghiệp ngày càng lớn. Sự xuất hiện các công ty đa quốc gia cùng với quá
trình toàn cầu hoá đã từng bước xoá nhoà đường biên giới về thị trường giữa
các quốc gia trên thế giới và vì vậy làm cho tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các
doanh nghiệp ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh
như vậy, phá sản không còn là công việc riêng của doanh nghiệp bị phá sản.
Sự cho phép “rút lui một cách đột ngột” của doanh nghiệp ra khỏi thị trường
bằng cơ chế phá sản không phải bất cứ trường hợp nào cũng là giải pháp được
nhà nước lựa chọn sau khi đã cân nhắc đầy đủ và thận trọng các hệ quả về mặt
kinh tế, chính trị và xã hội. Nói cách khác, sự phát triển của nền kinh tế thị
trường hiện đại đã khiến chúng ta nhìn nhận phá sản là một hiện tượng xã hội
tiêu cực. Do vậy, việc cứu vớt các doanh nghiệp ra khỏi tình trạng khó khăn là
vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa rất lớn đối với nền kinh tế.
Hiện nay, trong khoa học pháp lý cũng như hệ thống văn bản về pháp luật
phá sản ở Việt Nam chưa thống nhất được khái niệm về “thủ tục phục hồi” cũng
như khái niệm “thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản”. Điều
này gây khá nhiều khó khăn cho những nghiên cứu có tính chất chuyên sâu về
thủ tục phục hồi cũng như quá trình nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp
luật Việt Nam hiện hành về thủ tục phục hồi trong thủ tục phá sản.
“Phục hồi” theo từ điển Tiếng Việt được hiểu là việc khôi phục lại cái
đã mất đi, cũng theo từ điển tiếng Việt , “khôi phục” được hiểu là làm lại cho
có lại được hay trở lại được như trước [36]. Tuy nhiên, theo những phân tích
ở trên, chúng ta có thể hiểu rằng, “phục hồi doanh nghiệp mắc nợ” là việc
khôi phục lại, làm sống lại khả năng sản xuất kinh doanh, lấy lại tình trạng tài
chính đã mất và dựng lại uy tín, ảnh hưởng của của một thương nhân trên
thương trường.
Theo tác giả Ngô Cường thì “phục hồi là đem lại cho con nợ đang
trong tình trạng khó khăn những điều kiện và cơ hội tiếp tục kinh doanh chứ
không phải là thanh toán con nợ đó” [39, Tr 164].
Tuy nhiên, để làm rõ khái niệm thủ tục phục hồi con nợ trong thủ tục
phá sản, nhất thiết chúng ta phải phân biệt với sự tự phục hồi của con nợ. Khi
một con nợ lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, bản thân con nợ đó có
thể áp dụng tất cả các biện pháp có thể nhằm tự “cứu mình”, thậm chí có thể
thỏa thuận riêng rẽ với từng chủ nợ để tìm cơ hội cứu vãn tình trạng mất khả
năng thanh toán. Nhưng khi thủ tục phá sản đã mở ra đối với con nợ thì việc
phục hồi con nợ phải tuân theo một trình tự tố tụng hết sức chặt chẽ. Thủ tục
này được áp dụng bởi tòa án sau khi có sự chấp thuận của các chủ nợ và được
giám sát chặt chẽ bởi chính tòa án và các chủ nợ.
Xét về bản chất pháp lí, thủ tục phục hồi con nợ có thể được hiểu là quá
trình xác lập và thực hiện một “khế ước” giữa con nợ và tập thể các chủ nợ
bao gồm cả đại diện của người lao động làm công cho con nợ đó với sự phê
chuẩn của tòa án nhằm xây dựng một kế hoạch tái cơ cấu lại doanh nghiệp
mắc nợ và lập một kế hoạch trả nợ phù hợp [1, Tr 1230]. Trong một số trường
hợp, kế hoạch tái cơ cấu có thể dẫn đến việc thay thế bộ máy quản lý, điều
hành doanh nghiệp mắc nợ. Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh cho phép
doanh nghiệp mắc nợ tiếp tục hoạt động kinh doanh nhằm đảm bảo cho con
nợ có cơ hội thoát khỏi khó khăn về tài chính và do đó tránh được bị tuyên bố
phá sản. Phục hồi hoạt động kinh doanh là nội dung thể hiện quan điểm tiến
bộ, tính nhân đạo của pháp luật phá sản hiện đại đối với doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản. Việc áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
đem lại cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản những cơ hội và điều
kiện để tổ chức lại hoạt động kinh doanh, giúp doanh nghiệp có thể thoát khỏi
tình trạng phá sản.
Từ việc phân tích các dấu hiệu nêu trên có thể đưa ra khái niệm phục hồi
doanh nghiệp mắc nợ như sau:
Thủ tục phục hồi là thủ tục do Toà án có thẩm quyền quyết định áp
dụng trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, theo đó, một con nợ không
có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn được hưởng một thời hạn
nhất định để thi hành phương án phục hồi do Hội nghị chủ nợ thông qua
dưới sự giám sát của Toà án và đại diện của chủ nợ nhằm tạo điều kiện
cho con nợ được tiếp tục hoạt động kinh doanh đồng thời chi trả các khoản
nợ đã tới hạn của mình.
1.1.2. Ý nghĩa của thủ tục phục hồi trong giải quyết vụ việc phá sản
1.1.2.1. Ý nghĩa của thủ tục phục hồi đối với các chủ nợ
Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của thương nhân lâm vào tình
trạng phá sản nhằm mục đích tối đa hóa việc trả nợ cho các chủ nợ, thông
qua đó bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ và những người có liên quan. Khi
doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, đối tượng phải gánh chịu hậu quả nặng nề
nhất về tài sản là chủ nợ. Trừ những chủ nợ có bảo đảm, quyền lợi của các
chủ nợ còn lại không được bảo đảm, vì lúc đó tài sản nợ lớn hơn rất nhiều so
với sản nghiệp còn lại của thương nhân. Điều này có thể dẫn đến hậu quả sẽ
có nhiều danh nghiệp khác lâm vào tình trạng phá sản khi bạn hàng, đối tác
của họ bị tuyên bố phá sản. Để bảo vệ tối đa quyền lợi cho các chủ nợ và
những người có liên quan, phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
là giải pháp mà các chủ nợ luôn mong muốn. Bởi lẽ, khi doanh nghiệp thoát
khỏi khó khăn hiện tại và tiếp tục hoạt động kinh doanh thì khả năng trả nợ
cho các chủ nợ là rất lớn. Vì vậy, trong quá trình xây dựng, thông qua
phương án phục hồi doanh nghiệp, vai trò của các chủ nợ là hết sức quan
trọng.
Hầu hết pháp luật các nước dùng luật phá sản để tạo cơ hội cho chủ nợ
can thiệp và điều hành, tái cơ cấu doanh nghiệp mắc nợ. Pháp luật phá sản của
Việt Nam đã rất coi trọng việc bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ, thể hiện qua
các quy định pháp luật như quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, quyền
có đại diện trong thiết chế quản lý tài sản và thanh toán tài sản cuả con nợ,
quyền đề xuất phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
quyền tiếp tục tiến hành mọi hoạt động kinh doanh sau khi toà án ra quyết
định mở thủ tục phá sản dưới sự giám sát kiểm tra của thẩm phán và tổ quản
lý thanh lý tài sản, hay con nợ bị cấm, bị hạn chế một số hoạt động luật định.
Những quy định này cũng là để đảm bảo tài sản phá sản của doanh nghiệp con
nợ, từ đó đảm bảo tài sản thanh toán nợ cho các chủ nợ.
1.1.2.2. Ý nghĩa của thủ tục phục hồi đối với ngƣời lao động
Khi một thương nhân lâm vào tình trạng đổ vỡ trong kinh doanh thì
ngoài các chủ nợ, có một nhóm đối tượng cũng phải chịu những tác động xấu
một cách trực tiếp từ sự đổ vỡ này đó chính là những người làm công ăn
lương. Bắt đầu từ khi công việc kinh doanh của thương nhân gặp khó khăn,
những người lao động làm việc cho thương nhân đó đã có thể bị cắt giảm thu
nhập hoặc bị giới chủ chậm trả lương và nếu như tình hình tài chính của
thương nhân đó không được cải thiện thì họ còn có thể bị mất việc làm và mất
luôn thu nhập.
Chính vì vậy một trong những chức năng cơ bản của pháp luật phá sản
là tìm giải pháp tối ưu nhất để bảo vệ lợi ích chính đáng của những người lao
động. Giải pháp tối ưu đó có lẽ chỉ có thể tìm thấy trong thủ tục phục hồi khi
mà thay vì thanh lí sản nghiệp và chấm dứt sự tồn tại của thương nhân vỡ nợ,
pháp luật tạo điều kiện cho thương nhân đó có thể tiếp tục tồn tại và như vậy
người lao động sẽ không bị mất việc làm, các khoản nợ thu nhập sẽ được
thanh toán một cách đầy đủ.
Trong thủ tục phục hồi người lao động còn có thể thể hiện vai trò như
là một chủ nợ trong tổng thể các chủ nợ thông qua người đại diện của mình.
1.1.2.3. Ý nghĩa của thủ tục phục hồi đối với thƣơng nhân mắc nợ
Đối với một thương nhân “trung thực” thì sự đỗ vỡ trong kinh doanh
là xuất phát từ những nguyên nhân khách quan như gặp phải rủi ro trong kinh
doanh, do khủng hoảng của kinh tế, do năng lực kinh doanh yếu kém…và khi
lâm vào tình trạng phá sản, không còn khả năng thanh toán nợ cho các bạn
hàng, thương nhân đó có thể rơi vào tình trạng tuyệt vọng vì:
- Thứ nhất: họ có thể đánh mất đi niềm tin của các bạn hàng, mất đi sự tín
nhiệm trên thương trường mà có thể mất rất nhiều thời gian mới có được;
- Thứ hai: họ có thể mất đi sản nghiệp thương mại được gây dựng với nhiều
công sức;
- Thứ ba: họ có thể phải đón nhận sự thiếu tôn trọng của xã hội dành cho kẻ
thất bại trong kinh doanh và những áp lực trả nợ rất lớn từ phía các chủ nợ.
Thủ tục phục hồi chính là cứu cánh cuối cùng dành cho các thương
nhân lâm vào tình trạng phá sản để khôi phục lại sản nghiệp thương mại, khôi
phục lại khả năng thanh toán và uy tín, niềm tin của bạn hàng trên thương
trường đối với mình.
Việc áp dụng thủ tục phục hồi đối với một con nợ lâm vào tình trạng
phá sản còn thể hiện sự “nhân đạo” mà các đạo luật phá sản hiện đại trên thế
giới ngày nay đang hướng đến với triết lí “hướng vào con nợ” của mình.
Đồng thời, thông qua thủ tục phục hồi, các chủ nợ, bạn hàng của con nợ cũng
có cơ hội thể hiện sự chia sẻ khó khăn với con nợ - một biểu hiện của “thương
mại công bằng” rất đáng trân trọng.
Như vậy, vai trò của thủ tục phục hồi trong việc bảo vệ quyền lợi của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được thể hiện ở chỗ, khi thủ tục
phục hồi được mở, doanh nghiệp mắc nợ sẽ có một khoảng thời gian cần
thiết, dưới sự bảo vệ của pháp luật để xây dựng và thực hiện việc phục hồi
hoạt động kinh doanh của mình. Quá trình thực hiện phương án phục hồi, con
nợ có thể nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ rất lớn từ phía các chủ nợ trên cơ sở
thỏa thuận đã được xác lập giữa chính con nợ với các chủ nợ thông qua hội
nghị chủ nợ.
1.1.2.4. Ý nghĩa của thủ tục phục hồi đối với nền kinh tế và sự ổn định
của xã hội
Việc một thương nhân lâm vào tình trạng phá sản thực hiện thành công
phương án phục hồi và quay trở lại hoạt động bình thường cũng có ý nghĩa to
lớn đối với xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, mức độ phụ thuộc của các doanh
nghiệp đối với nhau ngày càng lớn, vì vậy, khi một doanh nghiệp bị phá sản
tất yếu sẽ có nhiều doanh nghiệp khác là chủ nợ hoặc bạn hàng có quan hệ với
doanh nghiệp đó phải chịu những tác động xấu. Đặc biệt, nếu con nợ là những
doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực như tài chính, tín dụng, bảo
hiểm…việc phá sản của con nợ đó có thể kéo theo sự đổ vỡ của cả một hệ
thống các doanh nghiệp khác có liên quan.
Ngoài ra, khi một doanh nghiệp bị phá sản, những người lao động làm
việc trong doanh nghiệp đó sẽ bị mất việc làm và điều đó cũng đồng nghĩa với
việc họ sẽ mất đi nguồn thu nhập để duy trì cuộc sống của họ và gia đình.
Giải quyết bài toán thất nghiệp hay tái đào tạo lại nghề cho những người lao
động sẽ là một sức ép lớn cho nhà nước và xã hội.
Phá sản là hiện tượng kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường
mà hậu quả của nó là sự xung đột lợi ích của các bên tham gia quan hệ kinh
doanh. Phá sản không chỉ là sự xung đột lợi ích giữa con nợ mất khả năng
thanh toán với các chủ nợ của nó mà còn dẫn đến sự xung đột với lợi ích của
tập thể người lao động làm việc tại cơ sở của con nợ, đến lợi ích chung của xã
hội, đến tình hình trật tự trị an tại một địa phương, vùng lãnh thổ nhất định
nào đó.
Phục hồi thành công doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản sẽ góp
phần hạn chế những tác động tiêu cực đối với xã hội. Đặc biệt, nếu giải quyết
thỏa đáng mối quan hệ lợi ích giữa chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phục
hồi sẽ góp phần hạn chế những mâu thuẫn, căng thẳng có thể có giữa những
chủ thể này với nhau, từ đó góp phần duy trì trật tự, ổn định xã hội và lành
mạnh hóa môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp.
1.2. Các nguyên tắc của thủ tục phục hồi
Khi một thương nhân lâm vào tình trạng phá sản và bị mở thủ tục phá
sản, việc tòa án ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi đối với thương nhân
đó cũng như trong suốt quá trình diễn ra thủ tục phục hồi đều phải tuân thủ
theo những nguyên tắc sau:
1.2.1. Thủ tục phục hồi chỉ đƣợc áp dụng đối với con nợ trên cơ sở “khế
ƣớc” đã đƣợc xác lập giữa tổng thể các chủ nợ với con nợ.
Mặc dù thủ tục phục hồi được áp dụng bởi quyết định của tòa án,
nhưng cơ sở pháp lí thực sự của việc áp dụng thủ tục phục hồi đối với con nợ
chính là kết quả của sự thỏa hiệp giữa tổng thể các chủ nợ với con nợ thông
qua hội nghị chủ nợ.
Như đã trình bày ở trên, trên thế giới hiện nay, bất kì đạo luật phá sản
hiện đại nào cũng đều có thiên hướng ưu tiên phục hồi con nợ trước khi áp
dụng thủ tục thanh lí với mục đích tối đa hóa lợi ích của các chủ thể có liên
quan, tuy nhiên, việc phục hồi con nợ vẫn phải dựa trên cơ sở ý chí chung của
các chủ nợ. Khi con nợ bị mở thủ tục phá sản, trừ trường hợp đặc biệt là con
nợ không còn tài sản, hội nghị chủ nợ sẽ được tòa án tiến hành sau khi danh
sách chủ nợ đã được lập song và quản tài viên đã lên được báo cáo về hiện
trạng sản nghiệp của con nợ. Nội dung của phiên häp hội nghị chủ nợ lần thứ
nhất (được triệu tập lần đầu sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản) chính
là việc con nợ thỏa hiệp với các chủ nợ về “sự sống còn” của con nợ cũng như
cách thức trả nợ. Sau khi các chủ nợ đánh giá về tình hình của con nợ thông
qua nội dung báo cáo của quản tài viên và sự giải trình của con nợ, tổng thể
các chủ nợ sẽ biểu quyết để thông qua nghị quyết về phương hướng xử lí đối
với con nợ. Nội dung của nghị quyết này chính là việc có chấp thuận cho con
nợ được áp dụng thủ tục phục hồi hay không với những cam kết trả nợ của
mình. Nghị quyết này, theo pháp luật của nhiều nước trên thế giới, phải được
đa số chủ nợ đại diện cho một số nợ nhất định (chẳng hạn hai phần ba nợ
không có bảo đảm theo Luật thương mại Pháp, Luật thương mại trung phần
[1; Tr 1227]) chấp thuận. Trong trường hợp nghị quyết không được thông qua
thì cũng có nghĩa là sự thỏa hiệp giữa con nợ với các chủ nợ đã không thành
công, và đương nhiên, con nợ sẽ phải áp dụng thủ tục thanh lí để trả nợ.
Nếu tồn tại một nghị quyết của hội nghị chủ nợ về việc chấp thuận
phương án trả nợ và phương án tái cơ cấu của con nợ thì đây chính là cơ sở để
tòa án ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi đối với con nợ. Tuy nhiên, từ
kết quả của nghị quyết phiên họp hội nghị chủ nợ lần thứ nhất cho tới khi có
được một phương án tái cơ cấu khả thi được tổng thể các chủ nợ thông qua sẽ
phải trải qua một thời gian thích hợp để con nợ và các chủ nợ tiếp tục thỏa
hiệp để xây dựng phương án này.
Như vậy, bản chất của nghị quyết hội nghị chủ nợ về việc chấp thuận
cho con nợ được áp dụng thủ tục phục hồi chính là sự thể hiện ý chí chung
của tổng thể các chủ nợ nhằm giao kết một hợp đồng với con nợ. Hình thức
của hợp đồng này chính là biên bản họp hội nghị chủ nợ với sự chứng thực
của tòa án. Bản hợp đồng này có giá trị:
- Là cơ sở pháp lí để tòa án ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi đối
với con nợ;
- Ghi nhận sự ràng buộc nghĩa vụ giữa tổng thể các chủ nợ với con nợ
trong suốt thời gian diễn ra thủ tục phục hồi;
- Và là cơ sở để các chủ nợ giám sát, đánh giá về sự thành công hay
thất bại của việc phục hồi con nợ để có những quyết định tiếp theo
đối với “số phận” của con nợ.
1.2.2. Thủ tục phục hồi chỉ áp dụng đối với những con nợ bị lâm vào tình
trạng phá sản nhƣng còn khả năng phục hồi
“Lâm vào tình trạng phá sản” là một khái niệm cơ bản và vô cùng quan
trọng trong pháp luật phá sản vì khái niệm này cho phép xác định điểm khởi
đầu của một vụ kiện phá sản. Chỉ khi con nợ bị “lâm vào tình trạng phá sản”
thì chủ nợ và một số chủ thể có quyền khác mới có thể đệ đơn tới tòa án yêu
cầu mở thủ tục phá sản đối với con nợ.
Pháp luật của các quốc gia trên thế giới hiện nay có cách quy định khá
khác nhau về “tình trạng phá sản” của con nợ, tuy nhiên, có hai phương pháp
để xác định tình trạng phá sản của con nợ được khá nhiều quốc gia áp dụng
là:
- Dựa trên cán cân thanh toán giữa tài sản có và tài sản nợ của con nợ.
Theo tiêu chí này, một con nợ sẽ bị coi là lâm vào tình trạng phá sản
khi tổng giá trị tài sản sẵn có của doanh nghiệp thấp hơn tổng giá trị tài sản
của doanh nghiệp. Chẳng hạn như trong Luật phá sản của Cộng hoà Liên
bang Nga, được xem là mất khả năng thanh toán nợ nếu doanh nghiệp “ mất
khả năng đáp ứng yêu cầu của chủ nợ về thanh toán hàng hoá( công việc, dịch
vụ) kể cả việc mất khả năng bảo đảm các thanh to¸n phải nộp ngân sách và
các quỹ ngoài ngân sách do nghĩa vụ của doanh nghiệp mắc nợ vượt quá tài
sản của mình hoặc do mất cân đối trong cán cân thanh toán của doanh nghiệp
mắc nợ”. Cũng tương tự như vậy, Điều 126 khoản 1 - Luật phá sản Nhật Bản
quy định tình trạng phá sản của con nợ có nghĩa là con nợ hoàn toàn không có
khả năng trả nợ.
- Dựa vào sự ngừng trả nợ đến hạn của con nợ
Theo quy định tại Điều L 621- 1 Bộ Luật Thương mại của Cộng hoà
Pháp năm 1985, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn được hiểu là ngừng
thanh toán các khoản nợ đến hạn, bị đòi bằng tài sản sẵn có của mình. Ở Đức,
theo Khoản 2, Điều 17 - Bộ luật vỡ nợ, doanh nghiệp sẽ nằm trong tình trạng
mất khả năng thanh toán nợ nếu như việc thanh toán các khoản nợ đến hạn bị
thất bại. Như vậy, việc ngừng thanh toán nợ phải dựa trên nguồn tiền sẵn có
của doanh nghiệp mắc nợ chứ không phải là trên tài sản có của doanh nghiệp
mắc nợ.
Tuy nhiên, khái niệm ngừng thanh toán nợ là một khái niêm rất chung.
Do đó, cần phải có những dấu hiệu cụ thể để xác định thế nào là ngừng thanh
toán các khoản nợ. Có 3 điều kiện để xác định việc ngừng thanh toán các
khoản nợ đến hạn. Đó là:
1) Có các khoản nợ thực sự đến hạn mà con nợ không trả nợ
2) Có yêu cầu đòi nợ của chủ nợ đối với doanh nghiệp mắc nợ. Yêu
cầu đòi nợ này phải rõ ràng và có căn cứ. Yêu cầu đòi nợ có thể
bằng văn bản hoặc bằng miệng và do người đại diện hợp pháp của
chủ nợ tiến hành
3) Có sự xác nhận không thể trả nợ nay của doanh nghiệp mắc nợ.
Như vậy, nếu một con nợ ngừng không thanh toán các khoản nợ đến
hạn thì được xem như là lâm vào tình trạng phá sản mà không cần biết nguyên
nhân tại sao doanh nghiệp lại không thanh toán được các khoản nợ đến hạn.
Căn cứ vào tình trạng phá sản thực chất của con nợ, tòa án có thể ra
quyết định mở hay không mở thủ tục phá sản đối với con nợ đó.
Khi xem xét thủ tục phục hồi với tính chất là một thủ tục tố tụng do tòa
án áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản thì rõ ràng chỉ có những
con nợ lâm vào tình trạng phá sản và đã bị tòa án mở thủ tục phá sản mới là
đối tượng được áp dụng thủ tục phục hồi.
Cũng cần lưu ý rằng, việc áp dụng thủ tục phục hồi còn là bắt buộc đối
với những doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ an ninh, quốc phòng;
doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và
trong các lĩnh vực khác thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ
công ích thiết yếu khi mất khả năng thanh toán nợ đến hạn hoặc tình hình tài
chÝnh lâm vào tình trạng nghiêm trọng. Tuy nhiên, việc phục hồi này thường
được thực hiện thông qua một quy trình đặc biệt chứ không áp dụng theo thủ
tục phục hồi thông thường như những con nợ khác. Theo quy định của pháp
luật Việt Nam, đối với các doanh nghiệp được xác định là doanh nghiệp “đặc
biệt” như đã kể trên thì việc áp dụng các biện pháp phục hồi thuộc về trách
nhiệm của cơ quan chủ quản doanh nghiệp đó chứ không phải tòa án. Tòa án
chỉ thụ lí và ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với các doanh nghiệp này
khi việc phục hồi con nợ của cơ quan chủ quản không thành công và sau đó
tòa án sẽ ra quyết định áp dụng thủ tục thanh lí, bỏ qua giai đoạn áp dụng thủ
tục phục hồi tại tòa án.
Theo quy định chung của nhiều nước trên thế giới, sau khi xác định
doanh nghiệp không còn khả năng thanh toán nợ đến hạn, tức là đã lâm vào
tình trạng phá sản thì Toà án sẽ tiến hành xem xét tình trạng tài chính và khả
năng phục hồi hoạt động của con nợ để áp dụng một trong các thủ tục: thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh; thủ tục thanh toán tài sản cho phù hợp với
con nợ đó. Điều đó có nghĩa là, toà án có thể tuyên bố phá sản, thực hiện ngay
việc phân chia tài sản của con nợ cho các chủ nợ nếu đã có đủ chứng cứ để
chứng minh được rằng trên thực tế con nợ đã không còn khả năng cứu vãn
[18, Tr 74]. Một trong các quốc gia điển hình áp dụng thủ tục phục hồi đó là
Hoa Kỳ. Theo pháp luật phá sản của Hoa Kỳ thì có bốn thủ tục được áp dụng
cho bốn trường hợp khác nhau, đó là:
- Thanh lý tài sản đối với con nợ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
toán mà không còn khả năng phục hồi trong bất cứ hoàn cảnh nào.
- Thủ tục tái tổ chức lại hoạt động của con nợ trong trường hợp con nợ
có khả năng phục hồi khả năng thanh toán.
- Thủ tục điều chỉnh các khoản nợ của chính quyền địa phương.
- Thủ tục điều chỉnh các khoản nợ của một cá nhân với thu nhập
thường xuyên [40; Tr 74].
Như vậy, thủ tục phục hồi chỉ được áp dụng khi con nợ mất khả năng
thanh toán nợ nhưng còn khả năng phục hồi. Đối với những con nợ không có
khả năng phục hồi thì pháp luật cũng tạo điều kiện thuận lợi để thanh lý
doanh nghiệp trong thời gian sớm nhất nhằm hạn chế tối đa những thiệt hại có
thể gây ra cho các chủ nợ, loại thải những doanh nghiệp yếu kém ra khỏi
thương trường, đảm bảo quyền bình đẳng của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường. Đối với những con nợ tuy mất khả năng thanh toán nợ
nhưng vẫn có thể phục hồi được khả năng tài chính thì pháp luật sẽ dành tối
đa cơ hội cho phép những doanh nghiệp này phục hồi để có thể cứu vớt các
doanh nghiệp đang trong tình trạng nguy kịch, hạn chế các tác hại xấu xảy ra
đối với nền kinh tế và xã hội.
1.2.3. Trong quá trình phục hồi con nợ, quyền giám sát và đánh giá kết
quả phục hồi thuộc về các chủ nợ
Trong suốt quá trình diễn ra thủ tục phục hồi, các chủ nợ có toàn quyền
giám sát việc thực hiện các nội dung của phương án tái tổ chức kinh doanh.
Quyền giám sát này có được bởi hai lí do:
- Một là: Như đã phân tích ở trên, nội dung của thủ tục phục hồi chính là
việc thực hiện các cam kết đã đạt được giữa con nợ với tổng thể các chủ nợ
thông qua hội nghị chủ nợ. Theo đó, tổng thể các chủ nợ chỉ chấp nhận cho
con nợ được áp dụng thủ tục phục hồi với điều kiện con nợ phải tuân thủ đúng
những nội dung đã cam kết của mình trước các chủ nợ.
- Hai là: Một trong những mục đích quan trọng nhất của thủ tục phục hồi
chính là nhằm khôi phục lại sản nghiệp của con nợ để tối đa hóa khả năng trả
nợ của con nợ đối với các chủ nợ. Trên thế giới mặc dù còn có nhiều quan
điểm khác nhau về vấn đề tổng thể các chủ nợ có phải là một pháp nhân hay
không [1, Tr 1161-1162], song rõ ràng quyết định mở thủ tục phá sản của tòa
án đối với con nợ không làm mất đi quyền sở hữu sản nghiệp của con nợ cho
tới khi có quyết định tuyên bố con nợ chính thức phá sản. Như vậy, trong suất
thời gian diễn ra thủ tục phục hồi quyền sở hữu đối với sản nghiệp vẫn thuộc
về con nợ dù phải chịu những hạn chế nhất định và sản nghiệp đó lại chính là
đối tượng để thực hiện việc thanh toán các trái quyền cho các chủ nợ. Chính
vì vậy, nhất thiết các chủ nợ phải có quyền giám sát khối sản nghiệp của con
nợ trong quá trình diễn ra thủ tục phục hồi.
Cũng cần lưu ý thêm rằng, ngoài các chủ nợ, tòa án cũng có quyền
giám sát việc thực hiện thủ tục phục hồi xuất phát từ chỗ thủ tục phục hồi
không chỉ nhằm hướng đến các chủ nợ hay con nợ mà còn hướng đến việc
đảm bảo các mục tiêu khác như lợi ích của người lao động, của nhà nước.
Ngoài quyền giám sát việc thực hiện thủ tục phục hồi, các chủ nợ còn
có quyền căn cứ vào những cam kết của con nợ trong phương án phục hồi đã
được hội nghị chủ nợ thông qua để đánh giá về kết quả của việc thực hiện thủ
tục phục hồi.
1.2.4. Thủ tục phục hồi có thể chuyển thành thủ tục thanh toán trong thủ
tục phá sản.
Như trên đã phân tích, một trong những mục đích của thủ tục phục hồi là
nhằm thanh toán đầy đủ các khoản nợ cho các chủ nợ. Việc tiến hành thủ tục
phục hồi bao giờ cũng diễn ra trước thủ tục thanh toán trong Luật phá sản trừ
trường hợp con nợ không còn tài sản, không còn khả năng phục hồi hoặc không
được tổng thể các chủ nợ chấp nhận cho áp dụng thủ tục phục hồi. Thủ tục
phục hồi và thủ tục thanh lí là hai trình tự tố tụng có mục đích và căn cứ áp
dụng khác nhau, tuy nhiên, giữa thủ tục phục hồi và thủ tục thanh toán lại có
mối quan hệ liên thông để đảm bảo hiệu quả chung của thủ tục phá sản. Trong
thủ tục phục hồi, tổng thể các chủ nợ có quyền đánh giá về “chất lượng” của
kết quả phục hồi theo hai loại là “phục hồi tốt” và “phục hồi không tốt”.
Phục hồi tốt là việc con nợ đã thực hiện song các cam kết của mình với
tổng thể các chủ nợ được thể hiện trong phương án phục hồi đã được thông qua
bởi hội nghị chủ nợ trước đó hoặc được các chủ nợ đánh giá thông qua một
nghị quyết của hội nghị chủ nợ (trường hợp này con nợ có thể chưa thực hiện
song phương án phục hồi nhưng đạt được thỏa thuận mới với các chủ nợ). Nếu
được đánh giá là phục hồi tốt thì thủ tục phục hồi sẽ chấm dứt và con nợ quay
về với trạng thái hoạt động bình thường như trước khi bị mở thủ tục phá sản.
Phục hồi không tốt là việc con nợ không thể thực hiện được hoặc thực
hiện không đúng các nội dung đã cam kết của mình trong phương án phục
hồi. Trong trường hợp này, các chủ nợ có thể nhóm họp bất kì khi nào để
thông qua một nghị quyết mới nhằm yêu cầu tòa án buộc con nợ phải chuyển
từ thủ tục phục hồi sang thủ tục thanh lí tài sản.
1.3. Thủ tục phục hồi theo pháp luật phá sản của một số nƣớc trên thế
giới
Về nguồn pháp luật điều chỉnh thủ tục phục hồi doanh nghiệp mắc nợ,
pháp luật hiện nay của các nước trên thế giới có hai xu hướng khác biệt cơ
bản.
Xu hƣớng thứ nhất: Chỉ có một hệ thống văn bản pháp luật chung
(gồm Bộ luật và các văn bản hướng dẫn thi hành) điều chỉnh cả hai thủ tục
giải quyết các doanh nghiệp mắc nợ là thủ tục phục hồi và thanh lý doanh
nghiệp.
Có thể kể đến xu hướng này các nước như Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Trung
Quốc Ở Mỹ, Chương 11 của Bộ luật Liên bang tạo thành từ luật về phá sản
ngày 06/11/1978 (Bankrupty Act) điều chỉnh về thủ tục phục hồi và Chương
VII điều chỉnh về thủ tục thanh lý doanh nghiệp. Ở Đức, Bộ luật về giải quyết
vỡ nợ (Insolvenzordnung) được ban hành ngày 05/10/1995 và có hiệu lực kể
từ ngày 01/11/1999 điều chỉnh cả thủ tục phục hồi và thủ tục thanh lý doanh
nghiệp.
Xu hƣớng thứ hai: Có hệ thống văn bản riêng điều chỉnh từng thủ tục
phục hồi và thanh lý tư pháp.
Có thể kể ra trong xu hướng này các nước như Ba Lan với sắc lệnh ngày
24/10/1984 có hiệu lực kể từ năm 1990, Bỉ có Đạo luật ngày 17/07/1997 liên
quan đến thoả hiệp tư pháp, Hà Lan có Đạo luật ngày 16/05/1925 về thoả hiệp
tư pháp và Nhật Bản có Đạo luật ngày 25/04/1922 về thoả hiệp tư pháp và
Luật ngày 07/06/1952 về phục hồi công ty.
Dù có sự khác nhau về nguồn điều chỉnh và cấu trúc của pháp luật phá
sản nhưng nếu xét về nội dung của thủ tục phục hồi doanh nghiệp mắc nợ thì
pháp luật của các quốc gia trên thế giới lại có nhiều điểm tương đồng. Dù là
pháp luật của nước nào thì thủ tục phục hồi doanh nghiệp mắc nợ luôn gồm 3
giai đoạn: mở thủ tục phục hồi doanh nghiệp mắc nợ, giải quyết yêu cầu mở
thủ tục phục hồi doanh nghiệp mắc nợ và thực hiện phương án phục hồi
doanh nghiệp mắc nợ.
Về quyền yêu cầu mở thủ tục phục hồi con nợ
Pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới (ví dụ Mỹ, Pháp, Nhật Bản,
Đức ) đều quy định cho 2 chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục
hồi doanh nghiệp mắc nợ là các chủ nợ và bản thân con nợ. Đối với bản thân
doanh nghiệp mắc nợ thì việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi đồng thời
vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ mà pháp luật dành cho họ. Nhưng đối với các
chủ nợ, việc nộp đơn chính là quyền mà pháp luật dành cho các chủ nợ để
trong trường hợp cần thiết, có thể bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh
đó, Toà án khi phát hiện doanh nghiệp bị vỡ nợ thì cũng có quyền mở thủ tục
phục hồi.
Có những quốc gia (ví dụ như Pháp) cho phép chủ thể thứ ba như toà án,
thành viên sáng lập công ty, viện công tố được quyền yêu cầu mở thủ tục
phục hồi. Bởi vì các quốc gia theo quan điểm này quan điểm rằng có như thế
mới đảm bảo quyền bình đẳng và tạo nên môi trường kinh doanh thuận lợi,
quyền lợi của các chủ thể kinh doanh mới có thể được đảm bảo. Có quốc gia
(như Tây Ban Nha, Việt Nam ) lại chỉ cho phép chủ nợ và doanh nghiệp mắc
nợ mới được quyền yêu cầu Toà án mở thủ tục bởi vì những quốc gia này
quan niệm rằng phá sản thực chất là thủ tục đòi nợ nên việc yêu cầu mở thủ
tục phục hồi chỉ là quyền của các bên trong quan hệ đòi nợ mà thôi.
Tuy nhiên, không phải cứ có đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi thì doanh
nghiệp mắc nợ lâm vào tình trạng phá sản đều có thể được áp dụng thủ tục
phục hồi, mà theo quy định của pháp luật, những doanh nghiệp này cần phải
đảm bảo những điều kiện nhất định. Đó là những doanh nghiệp phải nằm
trong trong tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, thuộc phạm vi áp
dụng của thủ tục phục hồi và có khả năng phục hồi thành công.
Về phạm vi áp dụng của thủ tục phục hồi
Một số quốc gia cho rằng thủ tục phục hồi phải được áp dụng đối với
tất cả các con nợ dù tư cách của họ là gì, một số khác lại cho rằng vì tính phức
tạp của vấn đề nên thủ tục này chỉ áp dụng đối với thương gia. Do đó, trong
hệ thống luật La Mã, Luật Rumanie, Pháp thì thủ tục phá sản nói chung và thủ
tục phục hồi nói riêng chỉ được giành cho các thương gia. Ngược lại, trong hệ
thống pháp luật Đức và Ănglo- Sắcxông, thủ tục phục hồi lại được áp dụng
cho mọi con nợ là pháp nhân, thể nhân, là thương gia hoặc không là thương
gia hay kể cả với một số cộng đồng tài sản không phân chia của các đồng thừa
kế.
Về khả năng hồi phục của doanh nghiệp mắc nợ
Trong hệ thống pháp luật của từng quốc gia bao giờ cũng tồn tại một
thủ tục cho phép đồng thời trả nợ và tiếp tục duy trì hoat động của doanh
nghiệp mắc nợ. Việc xây dựng một phương án phục hồi rồi được các chủ nợ
thông qua và nhận sự phê chuẩn của Toà án là một phương thức kỹ thuật của
sự duy trì này. Thông qua thủ tục như vậy, Toà án và các chủ nợ tạo điều kiện
cho doanh nghiệp mắc nợ thực hiện những giải pháp, phương thức giải quyết
món nợ và thể thức, phương thức duy trì hoạt động của doanh nghiệp mắc nợ.
Vào thời điểm hiện nay, thủ tục phục hồi cho phép duy trì hoạt động của
doanh nghiệp mắc nợ có hai loại:
- Thủ tục phục hồi truyền thống cho phép duy trì hoạt động của doanh
nghiệp mắc nợ bằng cách có phương tiện để trả nợ.
- Thủ tục phục hồi hiện đại theo đuổi mục tiêu là chưa phải trả nợ nhưng
được dành những phương tiện tốt nhất, quan trọng nhất nhằm duy trì và cơ
cấu lại doanh nghiệp mắc nợ.
Có quốc gia như Tây Ban Nha, Bỉ quan niệm rằng một doanh nghiệp
khi mất khả năng thanh toán nợ đến hạn chỉ được áp dụng những quy định về
phục hồi nếu tổng toàn bộ giá trị tài sản có của doanh nghiệp mắc nợ lớn hơn
tổng tài sản nợ của doanh nghiệp mắc nợ không kể doanh nghiệp mắc nợ là
loại hình doanh nghiệp nào, có vị trí, vai trò ra sao trong nền kinh tế.
Có quốc gia như Cộng hoà Pháp, Nhật Bản lại quan niệm thủ tục
phục hồi chỉ được áp dụng cho những doanh nghiệp mắc nợ còn khả năng
phục hồi và cần thiết phải phục hồi vì những lý do như tầm quan trọng của
doanh nghiệp mắc nợ, nguồn nhân lực lao động trong doanh nghiệp. Do đó,
những doanh nghiệp mắc nợ trong hoạt động sản xuất kinh doanh nghiệp liên
quan đến các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, tiền tệ hoặc có hoạt động sản
xuất ra những nhu yếu phẩm hàng ngày của con người hay việc thanh lý
doanh nghiệp làm nhiều người lao động thất nghiệp là những doanh nghiệp
được áp dụng thủ tục phục hồi.
Về thẩm quyền ra quyết định mở thủ tục phục hồi
Pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều giống nhau khi quy
định quyền ra quyết định mở thủ tục phục hồi thuộc về tòa án. Tuy nhiên, do
quan điểm của các nước khác nhau về việc phục hồi con nợ mà toà án có
thẩm quyền giải quyết lại có sự khác nhau. Chẳng hạn như ở Pháp, Đức, Nhật
Bản , thủ tục phục hồi được áp dụng cho cả thương nhân và người tiêu dùng,