Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Công cụ thực hiện chính sách tiền tệ Quốc gia theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.04 KB, 88 trang )





1



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






PHẠM THỊ MAI DUYÊN






CÔNG CỤ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
QUỐC GIA THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM









LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









Hà Nội – 2012







2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






PHẠM THỊ MAI DUYÊN






CÔNG CỤ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
QUỐC GIA THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuyến







Hà Nội – 2012






3
MỤC LỤC


Trang

LỜI CAM ĐOAN


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT


DANH MỤC CÁC BẢNG


LỜI MỞ ĐẦU
1

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ VÀ VIỆC ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
4
1.1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
4

1.1.1.
Khái niệm về chính sách tiền tệ
4
1.1.2
Phân loại chính sách tiền tệ
7
1.1.3.
Các công cụ cơ bản để điều hành chính sách tiền tệ
8
1.2.
VIỆC ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÁC CÔNG CỤ
CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
12
1.2.1.
Những yêu cầu chung của việc điều chỉnh pháp luật đối với các
công cụ thực thi chính sách tiền tệ quốc gia
12
1.2.2.
Các hình thức pháp lý cơ bản để thực hiện các công cụ của
chính sách tiền tệ
13


CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG QUÁ TRÌNH SỬ
DỤNG CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN
TỆ Ở VIỆT NAM
19
2.1.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÔNG CỤ TÁI

CẤP VỐN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
19
2.1.1.
Các quy định hiện hành về công cụ tái cấp vốn
19
2.1.2.
Thực tiễn áp dụng pháp luật về công cụ tái cấp vốn
25
2.2.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CỤ LÃI SUẤT VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG
28




4
2.2.1.
Các quy định hiện hành về công cụ lãi suất
28
2.2.2
Thực tiễn áp dụng pháp luật về công cụ lãi suất
29
2.3.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CỤ TỶ GIÁ HỐI
ĐOÁI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
35
2.3.1.
Các quy định hiện hành về công cụ tỷ giá
35

2.3.2.
Thực tiễn áp dụng pháp luật về công cụ tỷ giá hối đoái
36
2.4.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CỤ DỰ TRỮ BẮT
BUỘC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
43
2.4.1.
Các quy định hiện hành về công cụ dự trữ bắt buộc
43
2.4.2.
Thực tiễn áp dụng pháp luật về công cụ dự trữ bắt buộc
45
2.5.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CỤ NGHIỆP VỤ
THỊ TRƯỜNG MỞ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
53
2.5.1.
Các quy định hiện hành về công cụ nghiệp vụ thị trường mở
53
2.5.2.
Thực tiễn áp dụng pháp luật về công cụ nghiệp vụ thị trường
mở
54

CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO TÍNH
HIỆU QUẢ TRONG SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
61
3.1.

NHÓM GIẢI PHÁP VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU
CHỈNH CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
61
3.1.1.
Hoàn thiện các quy định theo hướng thực hiện cơ chế điều
chỉnh lãi suất linh hoạt
61
3.1.2.
Hoàn thiện các quy định theo hướng điều hành hiệu quả công
cụ tái cấp vốn
63
3.1.3.
Thay đổi quan niệm và thói quen sử dụng công cụ dự trữ bắt
buộc
65
3.1.4.
Hoàn thiện các quy định theo hướng điều hành chính sách tỷ
giá linh hoạt
66
3.1.5.
Hoàn thiện các quy định theo hướng tăng cường sử dụng nghiệp
vụ thị trường mở
69
3.2.
NHÓM GIẢI PHÁP VỀ TỔ CHỨC THỰC THI CÁC CÔNG
71





5
CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
3.2.1.
Nâng cao năng lực thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Trung ương
71
3.2.2.
Đảm bảo sự phối hợp đồng bộ giữa các chủ thể quản lý ngành
có liên quan trong thực thi chính sách tiền tệ quốc gia
75

KẾT LUẬN
77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
78





























6
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT


NHTƯ
: Ngân hàng Trung ương
NHNN
: Ngân hàng Nhà nước
NHTM
: Ngân hàng Thương mại
DTBB
: Dự trữ bắt buộc
NVTTM
: Nghiệp vụ thị trường mở
CSTT
: Chính sách tiền tệ

CSTK
: Chính sách tài khóa
CPI
: Chỉ số giá tiêu dùng
TCTD
: Tổ chức tín dụng





















7
DANH MỤC CÁC BẢNG


Trang

Bảng 2.1
: Những dấu mốc thay đổi lãi suất cơ bản từ tháng 4/2009 đến nay
30
Bảng 2.2
: Những dấu mốc thay đổi lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu
năm 2011 và năm 2012
32
Bảng 2.3
: Những thay đổi trong cơ chế điều hành tỷ giá của Việt Nam
37
Bảng 2.4
: Những dấu mốc thay đổi lãi suất DTBB từ tháng 9/2008 đến nay
47
Bảng 2.5
: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ năm 2008-2011
49
Bảng 2.6
: Doanh số giao dịch NVTTM các năm 2008-2011
55








8

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc chọn đề tài
Tiền tệ ra đời do yêu cầu khách quan của sản xuất và trao đổi hàng hóa, xã
hội càng phát triển thì vai trò của tiền tệ càng quan trọng. Vì vậy, việc tạo ra và
sử dụng tiền tệ như thế nào là vấn đề quan tâm của mọi nền kinh tế. Ở tầm vĩ
mô, Chính phủ luôn xem chính sách tiền tệ một trong những chính sách kinh tế
hàng đầu để ổn định và phát triển nền kinh tế.
Thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia là một nhiệm vụ quan trọng mà hầu
hết các quốc gia đều trao cho ngân hàng trung ương. Để đạt được các mục tiêu
của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản quyết
định. Việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia ảnh hưởng đến mọi mặt của đời
sống kinh tế - xã hội của đất nước. Do vậy, pháp luật phải quy định hết sức chặt
chẽ về cơ chế hoạt động của ngân hàng Nhà nước trong việc thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia nhằm tránh các ảnh hưởng bất lợi của chính sách tiền tệ đối
với tiến trình phát triển của nền kinh tế xã hội. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt
Nam thì việc lựa chọn các công cụ chính sách tiền tệ và sử dụng các công cụ đó
như thế nào là vấn đề thường xuyên phải quan tâm. Đặc biệt là trong bối cảnh
nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu các công cụ
của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, tôi đã chọn đề tài: “Công cụ
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Về công cụ thực hiện chính sách tiền tệ, hiện nay đã có nhiều tác giả nghiên
cứu, thể hiện trong một số công trình sau:
- Hoàn thiện cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế Quốc tế, Luận án Tiến sỹ kinh tế của
tác giả Nguyễn Thị Kim Thanh (2008).
- Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá nhằm nâng cao hiệu quả chính sách
tiền tệ ở Việt Nam, Luận án Tiến sỹ kinh tế của tác giả Lê Thị Tuấn Nghĩa

(2004).




9
- Giải pháp tăng cường hiệu lực của chính sách tiền tệ Việt Nam thông qua
cơ chế điều chỉnh bằng lãi suất, Luận án Tiến sỹ kinh tế của tác giả Tô Kim
Ngọc (2003).
Tuy nhiên, các công trình trên chủ yếu đi sâu phân tích hoạt động điều hành
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dưới khía cạnh kinh tế,
khía cạnh pháp lý chưa được quan tâm nhiều. Do vậy, tác giả tiến hành nghiên
cứu đề tài: “Công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia theo pháp luật Việt
Nam”, làm rõ thực trạng pháp luật điều chỉnh các công cụ chính sách tiền tệ, từ
đó đưa ra những bất cập và các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao tính
hiệu quả trong sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ quốc gia ở Việt
Nam.
3. Mục đích nghiên cứu, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận về chính sách
tiền tệ và các công cụ của chính sách tiền tệ; làm rõ thực trạng pháp luật Việt
Nam về các công cụ chính sách tiền tệ, thực tiễn sử dụng công cụ chính sách tiền
tệ ở Việt Nam để từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao tính hiệu quả sử
dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm, học thuyết về chính sách
tiền tệ; các quy định pháp luật về chính sách tiền tệ và thực tiễn điều hành chính
sách tiền tệ của ngân hàng trung ương trên thế giới nói chung và Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung vào việc làm rõ cơ sở lý
luận và cơ sở pháp lý của việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ trên thế

giới và đặc biệt là ở Việt Nam; nghiên cứu một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và việc sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể của
khoa học xã hội như: phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, khảo sát,
thống kê, hệ thống hóa, mô hình hóa, so sánh luật học… Các phương pháp này




10
được sử dụng ở những mức độ khác nhau để giải quyết những vấn đề khác nhau
của đề tài nghiên cứu của luận văn.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách tiền tệ và việc điều chỉnh
pháp luật đối với các công cụ của chính sách tiền tệ.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật trong quá
trình sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả trong việc sử dụng
các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam.





11
Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ VIỆC ĐIỀU
CHỈNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.1.1. Khái niệm chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ (CSTT) quốc gia là một trong những chính sách kinh tế
vĩ mô do Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) xây dựng và tổ chức thực hiện nhằm
đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong một thời kỳ nhất định.
CSTT quốc gia hiểu theo nghĩa rộng là chính sách điều tiết toàn bộ khối
cung tiền trong nền kinh tế nhằm phân bổ một cách có hiệu quả các nguồn tài
nguyên để thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, cân đối vĩ mô nền kinh tế, trên cơ
sở đó ổn định giá trị của đồng tiền quốc gia. CSTT quốc gia hiểu theo nghĩa hẹp
là chính sách đảm bảo sao cho khối lượng tiền cung ứng trong một năm tương
ứng với mức tăng trưởng kinh tế và chỉ số lạm phát (nếu có) nhằm ổn định giá trị
đồng tiền, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô trong từng giai đoạn
nhất định.
Chính sách tiền tệ là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng nhất mà
Nhà nước giao cho Ngân hàng Trung ương thực hiện. Mỗi quốc gia có những
quan điểm khác nhau về CSTT. Chẳng hạn, theo quan điểm của Frederic
S.Mishkin – Trường Đại học Columbia (Mỹ) thì CSTT chính là việc mà Cục dự
trữ liên bang Mỹ (Federal Reserve System - FED) sử dụng đến các công cụ để
điều tiết cung ứng tiền tệ, bao gồm: nghiệp vụ thị trường tự do, nghiệp vụ này
ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ; thay đổi lãi suất chiết khấu, thay đổi này ảnh hưởng
đến số nhân tiền tệ. Còn NHTƯ Châu Âu (ECB) lại quan niệm CSTT là việc sử
dụng công cụ lãi suất ngắn hạn để thực hiện mục tiêu của CSTT, ổn định giá cả
khu vực Châu Âu trong thời kỳ trung hạn. Theo quan điểm của Ngân hàng Nhân
dân Trung Quốc: mục tiêu của CSTT là ổn định giá trị đồng tiền và theo đó đẩy
mạnh sự tăng trưởng kinh tế.
Đại từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1999 định nghĩa: “Chính sách tiền tệ
là chính sách của Nhà nước nhằm điều tiết (tăng, giảm) lượng tiền trong lưu
thông để đạt được những mục tiêu nhất định như chống lạm phát, kích thích sản





12
xuất, giảm bớt thất nghiệp, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế”.
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, số
46/2010/QH12 được Quốc hội thông qua ngày 16/6/2010 quy định: “CSTT quốc
gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ
tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục
tiêu đề ra”.
Một cách tổng quát, chính sách tiền tệ quốc gia được hiểu là tổng thể những
cách thức, biện pháp mà Nhà nước (thông qua Ngân hàng trung ương) sử dụng
trên cơ sở được thể chế hoá bằng pháp luật nhằm điều hòa khối cung tiền tệ
trong lưu thông sao cho phù hợp với nhu cầu về tiền tệ của xã hội trong giai đoạn
nhất định. Nói như vậy có nghĩa rằng chính sách tiền tệ quốc gia đồng nghĩa với
chính sách bình ổn sức mua (hay giá trị) của đồng tiền nội địa. Một CSTT nới
lỏng sẽ làm tăng cung tiền, giảm lãi suất qua đó thúc đẩy đầu tư, tăng tổng cầu
và có thể làm gia tăng lạm phát nếu mức tăng tiền quá lớn vượt mức sản lượng
tiềm năng. Ngược lại, một CSTT thắt chặt sẽ có tác động giảm tổng cầu, qua đó
lạm phát sẽ được kiềm chế [39].
Xét trên bình diện lí thuyết, chính sách tiền tệ quốc gia không chỉ là một
khái niệm kinh tế thuần tuý mà thuật ngữ này còn bao hàm những nội dung pháp
lý nhất định. Về phương diện kinh tế, chính sách tiền tệ quốc gia phản ánh
những nghiệp vụ kinh tế được thực hiện bởi Ngân hàng trung ương nhằm đạt tới
những mục tiêu kinh tế như làm tăng hoặc giảm sức mua của đồng nội tệ trong
từng thời điểm nhất định, trên cơ sở đó mà tác động tới hệ thống giá cả hàng hoá,
dịch vụ và các hoạt động kinh tế khác trên thị trường. Còn về phương diện pháp
lí, chính sách tiền tệ quốc gia là sự thể hiện tập trung ý chí của Nhà nước trong

việc ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát và ý chí này được thể chế hoá
bằng những quy tắc pháp lí cụ thể có giá trị bắt buộc thi hành. Có thể khẳng định
chính sách tiền tệ quốc gia là một loại chính sách kinh tế vĩ mô, có mối quan hệ
chặt chẽ với các chính sách kinh tế, tài chính khác. Như vậy, khái niệm chính
sách tiền tệ quốc gia bao hàm một nhân tố pháp lí quan trọng, đó là vai trò của
pháp luật, với ý nghĩa vừa là hình thức pháp lí thể hiện chính sách tiền tệ quốc
gia vừa là công cụ, phương tiện pháp lí để thực hiện chính sách này trên thực tế.
[41]




13
Từ việc phân tích khái niệm chính sách tiền tệ quốc gia như trên, có thể
nhận thấy rằng chính sách tiền tệ quốc gia có những dấu hiệu nhận biết cơ bản
như sau:
Thứ nhất, chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận hữu cơ cấu thành
chính sách kinh tế- tài chính quốc gia. Trong hệ thống chính sách kinh tế- tài
chính, ngoài chính sách tiền tệ quốc gia còn có nhiều chính sách khác như chính
sách tài khóa, chính sách thuế, chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách thu
nhập Các chính sách vĩ mô này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và mỗi chính
sách đều có vị trí vai trò riêng của nó. Trong đó, chính sách tiền tệ quốc gia có
vai trò hết sức to lớn nhằm điều hòa, kiểm soát lượng tiền cung ứng cho nền kinh
tế. Để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô đã hoạch định trong một thời kỳ nhất
định, Chính phủ cần phối kết hợp sử dụng nhiều chính sách vĩ mô, trong đó có
chính sách tiền tệ quốc gia.
Thứ hai, NHTƯ là người hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia.
Do chính sách tiền tệ luôn hướng vào việc thay đổi lượng tiền cung ứng cho nền
kinh tế nên chủ thể nào thực hiện chức năng phát hành tiền và điều hòa lưu
thông tiền tệ thì chủ thể đó phải trực tiếp vạch ra và thực hiện chính sách tiền tệ.

Theo quy định của Luật NHNN năm 2010, Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm
phát hằng năm được thể hiện thông qua việc quyết định chỉ số giá tiêu dùng và
giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện
mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ.
Thứ ba, nói đến mục tiêu của chính sách tiền tệ, người ta thường nhắc đến
và tìm cách phân biệt giữa mục tiêu cuối cùng; mục tiêu trung gian và mục tiêu
hoạt động. Mục tiêu cuối cùng của CSTT là mục tiêu về ổn định và tăng trưởng.
Mục tiêu ổn định bao gồm ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định thị trường tài
chính và ổn định tỷ giá. Về mục tiêu tăng trưởng bao gồm đảm bảo công ăn việc
làm và có tăng trưởng kinh tế Thực tế cho thấy rằng, mặc dù mỗi quốc gia có
chính sách tiền tệ riêng, phù hợp với đặc thù nền kinh tế của mình nhưng nói
chung, mục tiêu của chính sách tiền tệ ở các nước về cơ bản là giống nhau, nhằm
mục đích ổn định giá trị đồng tiền trong nước trên cơ sở nâng cao giá trị đối
ngoại của đồng tiền.




14
Tóm lại, CSTT là một trong những chính sách quản lý kinh tế vĩ mô mà
trong đó ngân hàng Trung ương thông qua các công cụ của mình làm thay đổi
khối lượng tiền tệ lưu thông trong nền kinh tế, từ đó nhằm đạt được các yêu cầu
trước mắt cũng như lâu dài của việc phát triển kinh tế quốc gia. Mặc dù việc điều
hành CSTT giữa các thời kỳ, các giai đoạn phát triển kinh tế ở mỗi nước rất khác
nhau song việc xây dựng và thực thi CSTT của các NHTƯ đều hướng đến mục
tiêu tăng trưởng hay ổn định nền kinh tế.
1.1.2. Phân loại chính sách tiền tệ
Bất kỳ nền kinh tế nào, ổn định tiền tệ và nâng cao sức mua của đồng tiền
trong nước luôn luôn được coi là mục tiêu có tính chất dài hạn của chính sách

tiền tệ. NHTƯ điều hành chính sách tiền tệ phải kiểm soát được tiền tệ, làm sao
cho phù hợp giữa khối lượng tiền với tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa, giữa
tổng cung và tổng cầu tiền tệ, giữa tiền và hàng, không gây thừa hoặc thiếu tiền
so với nhu cầu của lưu thông. Ở khía cạnh học thuật, chính sách tiền tệ quốc gia
có thể được phân chia thành hai loại, gồm chính sách tiền tệ nới lỏng và chính
sách tiền tệ thắt chặt.
Chính sách tiền tệ nới lỏng là chính sách tiền tệ theo đó NHTƯ tăng cường
việc cung ứng tiền cho nền kinh tế, nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản
xuất, tạo công ăn việc làm. Trong trường hợp này chính sách tiền tệ nhằm vào
chống suy thoái kinh tế [15]. Để chống suy thoái kinh tế, NHTƯ thực hiện chính
sách tiền tệ nới lỏng bằng việc điều chỉnh giảm lãi suất thị trường, nới lỏng các
hạn chế trong việc cấp tín dụng cho người vay, qua đó kích thích nhu cầu đầu tư
và tiêu dùng. Việc nới lỏng tiền tệ còn tăng cường vốn khả dụng của hệ thống
ngân hàng, mở rộng khả năng tài chính cung cấp cho nền kinh tế, tạo điều kiện
tăng chi tiêu dùng và đầu tư, chính sách tiền tệ nới lỏng còn tác động tới tăng
xuất khẩu ròng. Khi lãi suất đồng nội tệ có xu hướng giảm xuống sẽ làm giảm
giá của nội tệ so với ngoại tệ và do vậy kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu.
Kết quả là chi tiêu ròng của nước ngoài về hàng hóa, dịch vụ trong nước tăng
làm tăng tổng cầu.
Chính sách tiền tệ thắt chặt là chính sách tiền tệ theo đó NHTƯ thực hiện
việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế nhằm hạn chế đầu tư, ngăn chặn sự phát
triển quá nhanh của nền kinh tế và kiềm chế lạm phát [16]. Khi nền kinh tế rơi




15
vào tình trạng lạm phát, NHTƯ sẽ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. NHTƯ
có hệ thống các công cụ trực tiếp và gián tiếp để sử dụng cho mục đích này. Việc
thắt chặt tiền tệ có tác dụng làm giảm khả năng có được nguồn vốn tín dụng của

người tiêu dùng và nhà đầu tư. Nói cách khác nó làm hạn chế khả năng tài chính
của các công ty, nên nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các thành phần của tổng cầu.
Do vậy, việc sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt để chống lạm phát có hiệu quả
cao.
Về lý thuyết, có thể nhận thấy rằng chính sách tiền tệ được vận hành theo
hướng nào là tùy thuộc vào tình trạng kinh tế và tiền tệ trong từng thời kỳ, thông
qua nhiều công cụ khác nhau. Việc định hướng chính sách tiền tệ theo hướng
nào, thực sự là nghệ thuật của các nhà hoạch định chính sách [15].
1.1.3. Các công cụ cơ bản để điều hành chính sách tiền tệ
Công cụ chính sách tiền tệ bao gồm một hệ thống các biện pháp nghiệp vụ
đặc thù do NHTƯ thực hiện nhằm tác động vào khối tiền tệ của nền kinh tế để
đạt được mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền quốc gia. Các phân tích dưới đây sẽ
cho thấy rõ hơn nội dung và bản chất của từng công cụ điều hành chính sách tiền
tệ do ngân hàng trung ương thực hiện.
Công cụ tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ.
Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung cầu
ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác
động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập
khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút
vốn đầu tư, dự trữ của đất nước. Xét về thực chất, tỷ giá không hoàn toàn là công
cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không trực tiếp làm thay đổi lượng
tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên, ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền
kinh tế đang chuyển đổi như Việt Nam thì tỷ giá hối đoái được coi là công cụ hỗ
trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
Tỷ giá hối đoái có thể ảnh hưởng đến lạm phát thông qua hai khía cạnh sau:
khi tỷ giá hối đoái tăng (tức là đồng tiền trong nước mất giá so với đồng tiền
ngoại tệ) lúc đó sẽ thúc đẩy xuất khẩu trong nước nhưng nếu xuất khẩu tăng quá





16
cao sẽ dẫn tới tổng cầu cao hơn tổng cung làm cho giá của mặt hàng xuất khẩu
trong nước tăng đột biến, lúc này lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu
mất cân bằng. Thêm vào đó, tỷ giá hối đoái tăng sẽ làm cho tâm lý của dân
chúng lo sợ đồng nội tệ tiếp tục mất giá so với đồng ngoại tệ từ đó dẫn đến hiện
tượng dân chúng đầu cơ và găm giữ ngoại tệ và làm cho giảm cầu nội tệ trong
lưu thông. Lúc này sẽ phát sinh thêm nguy cơ lạm phát do có thặng dư cung tiền
vì cầu nội tệ giảm.
Công cụ lãi suất
Đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì
sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong
lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Cơ chế điều hành lãi
suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của
Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng
trong từng thời kỳ nhất định. Lãi suất là một công cụ quan trọng của chính sách
tiền tệ. Nó được áp dụng nhất quán trong một lãnh thổ và được Ngân hàng trung
ương điều hành chặt chẽ và mềm dẻo tùy theo từng thời kỳ cho phù hợp với nhu
cầu huy động vốn và cung ứng vốn. Lãi suất tác động làm thay đổi cầu tiền tệ
trong dân cư và làm thay đổi tỷ lệ lạm phát. Khi có lạm phát, Ngân hàng Nhà
nước sẽ tăng lãi suất tiền gửi, chính vì thế người dân và các công ty sẽ đầu tư
vào ngân hàng (gửi tiền vào ngân hàng) có lợi hơn là đầu tư vào sản xuất kinh
doanh. Như vậy cầu tiền giảm do đó tổng đầu tư giảm, làm cho tổng cầu giảm
dẫn tới giá giảm. Tóm lại khi lãi suất tiền gửi cao thì động viên được nhiều
người gửi tiền vào Ngân hàng thương mại và ngược lại. Ngân hàng thương mại
mua tín phiếu Ngân hàng Nhà nước với lãi suất kinh doanh có lãi thì sẽ giảm
được khối lượng tín dụng. Nếu lãi suất tiền (cho vay) cao sẽ làm nản lòng người
vay vì kinh doanh bằng vốn vay Ngân hàng thương mại không có lợi nhuận. Như

vậy dùng công cụ lãi suất có thể tăng hoặc giảm khối lượng tín dụng của Ngân
hàng thương mại để đạt được mục đích của chính sách tiền tệ (ổn định tỷ lệ lạm
phát). Tuỳ từng thời điểm mà chính sách lãi suất được áp dụng thành công trong
việc chống lạm phát. Chính vì thế, ngày nay không thể áp dụng chính sách lãi
suất với tỷ lệ lãi suất rất cao để giảm tỷ lệ lạm phát mà phải quan tâm đến mối
quan hệ giữa lãi suất trong nước và lãi suất nước ngoài. Trong việc kiểm soát
lạm phát thì đây là công cụ cổ điển, các nước ngày càng ít sử dụng hơn, mặc dù




17
đây là một công cụ quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát và huy động vốn.
Dự trữ bắt buộc
DTBB là số tiền mà các TCTD buộc phải gửi tại NHTƯ theo luật định để
bảo đảm an toàn trong kinh doanh ngân hàng. Số tiền này có thể được gửi toàn
bộ vào tài khoản tiền gửi của TCTD tại NHTƯ hoặc được để một phần tại quỹ
tiền mặt của TCTD tùy theo quy định của NHTƯ từng nước. NHTM buộc phải
duy trì trên một tài khoản tiền gửi không hưởng lãi tại NHTƯ. Nó được xác định
bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tại một khoảng thời
gian nào đó. Mức dự trữ bắt buộc được quy định khác nhau căn cứ vào thời hạn
tiền gửi, vào quy mô và tính chất hoạt động của NHTM. Hiện nay DTBB được
quản lý theo nguyên tắc bình quân. Có nghĩa là mức dự trữ yêu cầu cho một thời
kỳ nào đó (thời kỳ duy trì) được xác định căn cứ vào tỷ lệ phần trăm quy định
trên số dư tiền gửi bình quân ngày trong thời kỳ trước (gọi là thời kỳ xác định).
Thời kỳ xác định và thời kỳ duy trì có thể nối tiếp nhau, Việt Nam áp dụng cách
quản lý này với độ dài thời gian là một tháng, có thể trùng nhau một giai đoạn
nào đó hoặc có thể gần như trùng khớp nhau. Cách quản lý khác nhau có thể
ảnh hưởng đến hiệu quả của công cụ DTBB trong một chừng mực nào đó
[28].

Về cơ chế điều hành: Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, NHTƯ nâng
tỷ lệ DTBB, qua đó làm lãi suất các khoản vay của NHTM tăng lên, các doanh
nghiệp bị hạn chế về khả năng tiếp cận vốn, khả năng mở rộng sản xuất giảm đi.
Từ đó dẫn đến sản lượng hàng hóa cung ứng sụt giảm và làm giảm áp lực cầu
tiền. Trong trường hợp cần nới lỏng tiền tệ, NHTƯ quyết định giảm tỷ lệ DTBB
nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc tăng thêm lượng tiền cung ứng vào
lưu thông để điều tiết sức mua của đồng tiền trong nước.
Công cụ tái cấp vốn
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có bảo đảm của NHTƯ nhằm cung
ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng. Bản chất của
nghiệp vụ này là Ngân hàng trung ương cho các Ngân hàng thương mại vay tiền
theo phương thức nhận chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có
giá khác, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá
khác của Ngân hàng thương mại. Khi cấp một khoản tín dụng cho Ngân hàng




18
thương mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo
cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán
của họ. Qua nghiệp vụ hoạt động tái cấp vốn, Ngân hàng Trung ương có thể chủ
động đưa tiền vào lưu thông hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông bằng cách tăng
hoặc giảm lãi suất tái cấp vốn, qua đó điều khiển khối lượng tiền trong thị trường
tiền tệ. Khi muốn tăng lượng tiền trong lưu thông, Ngân hàng Trung ương giảm
lãi suất tái cấp vốn và ngược lại khi muốn giảm lượng tiền trong lưu thông Ngân
hàng Trung ương tăng lãi suất tái cấp vốn. Việc thay đổi cung tiền tệ sẽ làm thay
đổi tỷ lệ lạm phát. Công cụ tái cấp vốn là công cụ của NHTƯ trong việc thực thi
CSTT, bằng hình thức cấp tín dụng cho các ngân hàng kinh doanh. Khi NHTƯ
cho các ngân hàng vay để kinh doanh làm tăng thêm tiền dự trữ cho hệ thống

ngân hàng, từ đó làm tăng thêm lượng tiền cung ứng. NHTƯ kiểm soát công cụ
này chủ yếu bằng cách tác động đến giá cả khoản vay (lãi suất cho vay tái chiết
khấu).
Về cơ chế điều hành: Trong nền kinh tế có lạm phát, NHTƯ nâng lãi suất
tái chiết khấu khiến khả năng cho vay của các NHTM bị hạn chế, dẫn tới các
doanh nghiệp khó khăn trong việc tiếp cận các khoản vay để duy trì và mở rộng
hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả là lượng hàng hóa cung ứng giảm đi làm
giảm áp lực cầu tiền giúp giảm áp lực của lạm phát.
Nghiệp vụ thị trƣờng mở
Đây là một nghiệp vụ đặc biệt, theo đó Ngân hàng Trung ương ký hợp đồng
mua/bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ với Ngân hàng thương
mại, thông qua đó nhằm điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá và tác động đến
khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng
cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm
khối lượng tiền tệ.
Nếu như công cụ lãi suất tái chiết khấu là công cụ thụ động của Ngân hàng
Trung ương, tức là Ngân hàng Trung ương phải chờ Ngân hàng thương mại đang
cần vốn đưa giấy tờ có giá đến để xin “tái cấp vốn” thì nghiệp vụ thị trường mở
là công cụ chủ động của Ngân hàng Trung ương để điều tiết khối lượng tiền
cung ứng trong lưu thông, qua đó kiểm soát được lạm phát. Thông qua nghiệp vụ
thị trường mở, Ngân hàng Trung ương chủ động phát hành tiền vào lưu thông




19
hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông bằng cách mua bán các loại trái phiếu của Ngân
hàng Nhà nước nhằm tác động trước hết đến khối lượng tiền dự trữ trong quỹ dự
trữ của các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính, hạn chế tiềm năng
tín dụng và thanh toán của các ngân hàng này, qua đó điều khiển khối lượng tiền

trong thị trường tiền tệ. Khi nghiên cứu phần trước đã biết rằng khối lượng tiền
tệ ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ lệ lạm phát, việc thay đổi cung tiền tệ sẽ làm thay
đổi tỷ lệ lạm phát.
Trong nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng Trung ương điều tiết khối
lượng tiền tệ và lãi suất tín dụng thông qua “giá cả” mua và bán trái phiếu. Tất cả
những can thiệp vào khối lượng tiền bằng công cụ thị trường mở đều được tiến
hành thông qua cơ chế hợp đồng giữa NHTƯ với NHTM. Đây là công cụ cực kỳ
quan trọng và rất linh hoạt nhằm giúp NHTƯ đạt được mục tiêu của chính sách
tiền tệ.
Nghiệp vụ thị trường mở là một trong những cửa ngõ quan trọng để NHTƯ
phát hành tiền vào lưu thông hoặc rút bớt tiền trong lưu thông về thông qua giao
dịch mua hay bán các loại giấy tờ có giá. Qua nghiệp vụ mua bán này, NHTƯ
làm tăng hay giảm dự trữ của các NHTM, làm lãi suất liên ngân hàng giảm
xuống hay tăng lên tương ứng, từ đó tác động đến khả năng tín dụng của các
ngân hàng này và làm tăng hay giảm lượng tiền cung ứng để đáp ứng mục tiêu
CSTT đã đề ra.
Về cơ chế điều hành: Khi nền kinh tế có lạm phát, NHTƯ bán các giấy
tờ có giá trên thị trường mở, qua đó làm cho lượng tiền cung ứng cho vay của
các NHTM giảm, các doanh nghiệp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay
dẫn tới sự khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh khi chi phí đầu vào sản
xuất tăng lên. Lượng hàng hóa cung ứng giảm khiến cho áp lực về cầu tiền đối
với các hoạt động thanh toán giảm và kết quả cuối cùng là giảm áp lực về lạm
phát.
1.2. VIỆC ĐIỀU CHÍNH PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI CÁC CÔNG CỤ
CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.2.1. Những yêu cầu chung của việc điều chỉnh pháp luật đối với các
công cụ thực thi chính sách tiền tệ quốc gia
Điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội nói chung và điều chỉnh





20
pháp luật đối với hoạt động thực thi chính sách tiền tệ của NHTƯ nói riêng luôn
đòi hỏi Nhà nước phải tuân thủ những yêu cầu chung mang tính chất nguyên lý
nhằm đảm bảo tính hiệu quả của pháp luật.
Ở mức độ khái quát, việc điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động thực thi
chính sách tiền tệ của NHTƯ cần đáp ứng những yêu cầu chung sau đây:
Thứ nhất, việc điều chỉnh pháp luật đối với chính sách tiền tệ của NHTƯ
phải xuất phát từ mục tiêu giúp NHTƯ thực hiện tốt nhất, hiệu quả nhất vai trò là
cơ quan hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Mục tiêu này đòi hỏi
pháp luật điều chỉnh các công cụ của chính sách tiền tệ phải được thiết kế và vận
hành theo hướng tăng cường tính độc lập cho NHTƯ và tạo cơ hội cho cơ quan
này được tự do hành động trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ
thông qua việc sử dụng các công cụ điều tiết chính sách tiền tệ.
Thứ hai, việc điều chỉnh pháp luật đối với chính sách tiền tệ của NHTƯ
phải xuất phát từ bản chất và tính đặc thù của các công cụ điều hành chính sách
tiền tệ. Nói cách khác, pháp luật chỉ là “cái vỏ” hay hình thức bên ngoài của các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ thông qua
việc sử dụng các công cụ này. Vì thế, hình thức đó phải phù hợp với nội dung
bên trong là cơ chế sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ và pháp luật
không thể được quy định theo hướng “bóp méo” vai trò, tác dụng và cơ chế sử
dụng các công cụ này.
Thứ ba, việc điều chỉnh pháp luật đối với chính sách tiền tệ của NHTƯ phải
hướng tới mục tiêu thỏa mãn tối đa nhu cầu và lợi ích của các bên liên quan đến
chính sách tiền tệ, bao gồm lợi ích của Nhà nước và nền kinh tế, lợi ích của các
ngân hàng thương mại, lợi ích của cộng đồng doanh nghiệp và dân cư cũng như
lợi ích của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Việc thỏa mãn một cách tối
đa và hài hòa các nhóm lợi ích này trong bối cảnh hiện nay giúp cho pháp luật về
ngân hàng trung ương trở nên hiệu quả hơn và dễ được chấp nhận hơn.

1.2.2. Các hình thức pháp lý cơ bản để thực hiện các công cụ của chính
sách tiền tệ
Trên nguyên tắc, việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia
như thế nào sẽ thuộc thẩm quyền của NHTƯ nhưng việc thiết kế cơ chế pháp lí
như thế nào để NHTƯ vận hành chính sách tiền tệ quốc gia một cách hiệu quả




21
lại là vấn đề thuộc thẩm quyền của nhà lập pháp. Các công cụ được hầu hết
NHTƯ sử dụng để thực hiện CSTT quốc gia bao gồm công cụ tái cấp vốn,
nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc Về phương
diện lý luận, các công cụ trên được NHTƯ sử dụng bằng hình thức pháp lý như
thế nào? Theo quan điểm của chúng tôi có thể chia ra hai nhóm hình thức pháp
lý cơ bản như sau:
Một là, đối với công cụ tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở hay sự can
thiệp bằng ngoại hối thì cơ chế pháp lí để thực hiện các công cụ này là cơ chế
hợp đồng. Nói khác đi, hợp đồng chính là phương tiện pháp lí để Ngân hàng
trung ương thực hiện việc đưa thêm tiền vào lưu thông hoặc rút bớt tiền khỏi lưu
thông với mục tiêu điều hoà lưu thông tiền tệ. Chẳng hạn, khi cần thiết phải đưa
thêm tiền vào lưu thông với mục đích làm tăng khối cung tiền tệ nhằm khắc phục
hậu quả của tình trạng giảm phát thì Ngân hàng trung ương sẽ thực hiện việc cho
vay ngắn hạn đối với các tổ chức tín dụng theo chế độ tái cấp vốn hoặc mua vào
các giấy tờ có giá và ngoại hối bằng tiền dự trữ phát hành. [41]
Ngược lại, trong trường hợp cần phải rút bớt tiền khỏi lưu thông với mục
tiêu đẩy lùi tình trạng lạm phát thì Ngân hàng trung ương sẽ chủ động phát hành
tín phiếu ngân hàng nhà nước đối với các tổ chức tín dụng hoặc bán ra các loại
giấy tờ có giá ngắn hạn mình đang sở hữu trên thị trường tiền tệ. Ngoài ra, trong
trường hợp này, Ngân hàng Trung ương còn có thể sử dụng cơ chế hợp đồng để

bán ra các loại ngoại hối (bao gồm chủ yếu là vàng và ngoại tệ) trên thị trường
ngoại hối nhằm can thiệp kịp thời đối với sức mua của đồng nội tệ. Tất cả những
hành vi nói trên của Ngân hàng Trung ương đều được thực hiện thông qua các
hợp đồng giữa Ngân hàng trung ương với các TCTD (ví dụ, hợp đồng tái cấp
vốn; hợp đồng mua bán ngoại hối và các giấy tờ có giá…). Cơ chế này cho phép
Ngân hàng Trung ương có khả năng điều hoà khối cung tiền tệ một cách khách
quan, thực tế và linh hoạt, bởi lẽ, việc đưa thêm hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông
của Ngân hàng trung ương thông qua những hợp đồng như vậy hoàn toàn xuất
phát từ những đòi hỏi khách quan của thị trường. [41]
Khác với các công cụ dự trữ bắt buộc, lãi suất, tỷ giá hối đoái, công cụ
nghiệp vụ thị trường mở được NHNN thực hiện thông qua cơ chế hợp đồng.
Nghĩa là thông qua việc xác lập và thực hiện hợp đồng mua bán giấy tờ có giá
trên thị trường tiền tệ, NHNN can thiệp vào khối cung tiền tệ trong lưu thông.




22
Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát, NHNN sẽ chủ động mua giấy tờ có
giá bằng nguồn vốn dự trữ phát hành nhằm tăng lượng tiền trong lưu thông.
Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát, NHNN sẽ chủ động bán
GTCG nhằm thu bớt tiền trong lưu thông với mục đích ổn định tiền tệ.
Thực tiễn hoạt động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong điều kiện nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã chứng minh rằng cơ chế hợp đồng hầu như
không được sử dụng để điều hoà lưu thông tiền tệ. Trong thời kì này, việc điều
hòa khối cung tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam chủ yếu dựa vào
phương châm sử dụng cơ chế hành chính mệnh lệnh, thông qua hình thức pháp lí
là các quyết định hành chính được ban bố bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
thay vì dự đoán những yêu cầu, đòi hỏi khách quan của thị trường để áp dụng
chính những hình thức pháp lí vốn có của thị trường nhằm điều hoà khối cung

tiền tệ.
Hai là, với công cụ lãi suất, tỉ giá hối đoái hay dự trữ bắt buộc thì hình thức
pháp lí để thực hiện những công cụ này là các quyết định hành chính. Nói khác
đi, Nhà nước sử dụng các quyết định hành chính để gián tiếp tác động đến việc
hình thành và thay đổi khối cung tiền tệ trong lưu thông sao cho phù hợp với nhu
cầu về tiền tệ của xã hội trong từng giai đoạn nhất định.
Chẳng hạn, khi nhu cầu xã hội đòi hỏi cần phải tăng khối cung tiền tệ trong
lưu thông, nghĩa là phải đưa thêm tiền vào lưu thông thì Ngân hàng trung ương
sẽ quyết định giảm lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn để trên cơ sở đó hình
thành hệ thống lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng trên thị trường.
Quyết định này không chỉ có tác dụng làm “đóng băng” nhu cầu gửi tiền của
khách hàng ở các tổ chức tín dụng mà còn có tác dụng kích thích nhu cầu vay
vốn của khách hàng tại các tổ chức tín dụng. Nhờ thế mà Ngân hàng trung ương
có thể cung ứng thêm tiền vào lưu thông một cách dễ dàng hơn thông qua việc
cho vay tái cấp vốn đối với các tổ chức tín dụng.[41]
Ngoài ra, Ngân hàng trung ương còn có thể gián tiếp làm tăng khối cung
tiền tệ trong lưu thông bằng cách quyết định giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với
các tổ chức tín dụng (số tiền mà tổ chức tín dụng bị bắt buộc phải gửi tại Ngân
hàng nhà nước). Quyết định này có tác dụng mở rộng khả năng về vốn để tổ
chức tín dụng tăng cường năng lực cấp tín dụng cho khách hàng đồng thời cũng




23
góp phần khắc phục tình trạng giảm sút nguồn vốn huy động do quyết định giảm
lãi suất (trong đó bao gồm cả lãi suất tiền gửi) của ngân hàng nhà nước gây ra.
Sở dĩ nói rằng quyết định giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc của Ngân hàng trung
ương đối với các tổ chức tín dụng sẽ gián tiếp góp phần làm tăng khối cung tiền
tệ là bởi vì, khi Ngân hàng trung ương quyết định giảm mức dự trữ bắt buộc của

tổ chức tín dụng gửi tại ngân hàng nhà nước xuống một mức độ nhất định thì
điều đó có nghĩa rằng phần vốn thực tế mà tổ chức tín dụng được phép đưa vào
kinh doanh sẽ tăng lên. Hành động này đồng nghĩa với việc khuyếch trương tín
dụng và bành trướng khối cung tiền tệ trong lưu thông.
Ngược lại, trong trường hợp cần đẩy lùi lạm phát, nghĩa là phải giảm khối
cung tiền tệ trong lưu thông thì Ngân hàng trung ương sẽ quyết định tăng lãi suất
cơ bản và lãi suất tái cấp vốn đối với tổ chức tín dụng. Quyết định này không
những có tác dụng làm “đóng băng” nhu cầu vay vốn của khách hàng ở các tổ
chức tín dụng cũng như nhu cầu vay vốn của các tổ chức tín dụng ở Ngân hàng
trung ương mà còn có tác dụng kích thích nhu cầu gửi tiền của khách hàng tại
các tổ chức tín dụng để hưởng lãi. Giải pháp này sẽ góp phần làm giảm đáng kể
khối cung tiền tệ trong lưu thông nhờ sự kết hợp với việc bán ra các giấy tờ có
giá hay ngoại hối của Ngân hàng trung ương trên thị trường tiền tệ hay thị trường
ngoại hối. [41]
Ngoài ra, để góp phần làm giảm khối cung tiền tệ trong lưu thông, Ngân
hàng trung ương còn có thể quyết định tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ
chức tín dụng nhằm thu hẹp khả năng cấp tín dụng của những doanh nghiệp này
đối với khách hàng đồng thời có tác dụng phòng ngừa những hậu quả bất lợi sau
này có thể xảy ra đối với các tổ chức tín dụng khi khách hàng gửi tiền đồng loạt
rút tiền gửi trong cùng thời điểm. Bằng quyết định tăng mức dự trữ bắt buộc như
trên đây, Ngân hàng trung ương đã báo hiệu rằng sẽ thực thi chính sách tiền tệ
“thắt chặt” đối với nền kinh tế và xã hội, nhằm mục tiêu đẩy lùi tình trạng lạm
phát đang cản trở tiến trình phát triển kinh tế đất nước. [41]
Cùng với các hoạt động khác như hoạt động quy định lãi suất, hoạt động
quy định tỷ giá hối đoái công cụ dự trữ bắt buộc được NHNN sử dụng thông
qua cơ chế pháp lý là các quyết định hành chính. Nói cách khác, NHNN đã sử
dụng biện pháp hành chính (thể hiện ở quyết định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với





24
mỗi TCTD) để gián tiếp tác động đến việc hình thành và thay đổi khối cung tiền
tệ trong lưu thông, sao cho phù hợp với nhu cầu về tiền tệ của xã hội trong từng
giai đoạn nhất định, nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. [41]
Ngoài những giải pháp trên đây nhằm đẩy lùi lạm phát thì việc Nhà nước
mở cửa biên giới, nới lỏng thuế quan và tăng cường nhập khẩu các hàng hoá
thiết yếu cho xã hội (trong khi năng lực sản xuất hàng hoá trong nước còn yếu
kém) cũng được coi là giải pháp khá hữu hiệu có tác dụng “kích cầu” về tiền tệ
của xã hội, nhờ đó mà giảm thiểu sự mất cân đối giữa khối cung và khối cầu tiền
tệ trong lưu thông.
Chúng tôi cho rằng, ngay cả khi thực hiện giải pháp này, Nhà nước cũng đã
sử dụng đồng thời cả cơ chế hành chính (ví dụ, quyết định mở cửa biên giới và
nới lỏng hàng rào thuế quan) lẫn cơ chế hợp đồng (ví dụ, xác lập và thực hiện
các hợp đồng nhập khẩu hàng hoá thiết yếu cho xã hội).
Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng việc sử dụng độc lập mỗi công cụ kể
trên để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia đều có thể gây ra những hậu quả bất
lợi cho nền kinh tế. Chẳng hạn như việc Ngân hàng trung ương tăng hay giảm lãi
suất hoặc tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng một cách bất ngờ, không
có sự nghiên cứu và cân nhắc, tính toán thận trọng về khả năng chịu đựng của
các tổ chức tín dụng thì rất có thể sẽ đưa các doanh nghiệp này lâm vào tình
trạng rối ren hoặc bị khó khăn về tài chính, thậm chí phá sản. Vì vậy, vấn đề khó
khăn nhất đối với Chính phủ và Ngân hàng trung ương trong việc điều hành
chính sách tiền tệ quốc gia chính là khả năng sử dụng một cách sáng tạo, linh
hoạt, uyển chuyển các công cụ kể trên như thế nào cho phù hợp với đặc điểm
tình hình kinh tế-xã hội của đất nước trong từng giai đoạn. [41]
Tóm lại, xu thế chung của các quốc gia trên thế giới hiện nay là hạn chế
việc sử dụng các công cụ mang tính chất mệnh lệnh hành chính và tăng cường sử
dụng các công cụ mang tính chất kinh tế trong việc thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia. Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ điều tiết bằng lãi suất cơ bản trong

hoàn cảnh nước ta hiện nay vẫn có ý nghĩa to lớn. Tùy theo từng giai đoạn, khi
cần thắt chặt tiền tệ thì một trong những việc NHNN sẽ làm là tăng lãi suất cơ
bản. Khi đó, hệ quả xảy ra là người có tiền nhàn rỗi sẽ đua nhau gửi tiền vào
ngân hàng, còn các nhà đầu tư thì sẽ thu hẹp đầu tư vì chi phí sẽ tăng lên cao




25
hơn, giá cả hàng hóa sản xuất tăng và lợi nhuận giảm đi. Lúc đó, tiền tệ được hút
về và được giữ lại ở các ngân hàng. Ngược lại, trong trường hợp cần mở rộng
tiền tệ, kích thích đầu tư, NHNN sẽ hạ lãi suất cơ bản xuống. Khi đó lượng tiền
gửi vào ngân hàng rất hạn chế, quỹ cho vay của NHTM được sử dụng với hiệu
quả cao, tích cực cho khách hàng vay, vốn sẽ được tập trung đầu tư theo đúng
mục đích. Thực tiễn hoạt động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong những
năm gần đây cùng với những thành tựu đáng kể trong việc điều hành chính sách
tiền tệ quốc gia, kiểm soát lạm phát đã chứng minh rằng, việc NHTƯ sử dụng
phối hợp đồng thời cả hai cơ chế pháp lí nói trên để điều hành chính sách tiền tệ
quốc gia là hoàn toàn phù hợp với những yêu cầu, đòi hỏi khách quan của nền
kinh tế thị trường. [41]
Kết luận chƣơng 1
Chương 1 trình bày những kiến thức cơ bản về chính sách tiền tệ như khái
niệm chính sách tiền tệ, phân loại chính sách tiền tệ. Để thực hiện tốt chính sách
tiền tệ, các nhà quản lý phải sử dụng các công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ
như: tái cấp vốn, lãi suất tín dụng, dự trữ bắt buộc, tỷ giá, nghiệp vụ thị trường
mở.
Việc phân tích những vấn đề lý luận về chính sách tiền tệ và các công cụ
của chính sách tiền tệ là tiền đề để đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp
dụng các công cụ chính sách tiền tệ, từ đó đưa ra các đề xuất nhằm hoàn thiện
pháp luật về chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian tới.










×