Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Sự vận hành các biện pháp và công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia của NHNN.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.39 KB, 16 trang )

Bộ môn Luật Ngân hàng
MỞ BÀI
Đối với mọi quốc gia, ngân hàng trung ương (NHTW) được xem là tổ
chức có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy, phát triển nền kinh tế và thực
hiện các mục tiêu xã hội mà mỗi một nhà nước đề ra. Vì thế, hầu hết các NHTW
trên thế giới trong đó có Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã xây dựng các chính
sách tiền tệ quốc gia (CSTTGQ), đồng thời chịu trách nhiệm về việc điều hành
thực hiện chính sách này bằng những biện pháp và công cụ của mình nhằm đạt
tới các mục tiêu chính sách đề ra. Nước ta, sau hơn 20 năm đổi mới nền kinh tế
theo cơ chế thị trường, chúng ta đã xây dựng đc một hệ thống ngân hàng nhằm
đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao của quốc gia theo xu hướng hội nhập
quốc tế. Trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng, quá trình hội nhập luôn gắn liền với
quá trình tự do hóa thị trường tài chính, đem lại nhiều cơ hội nhưng cũng không
ít thách thức. Do vậy, cùng với việc phát triển hệ thống ngân hàng trong cả
nước, vấn đề cấp thiết đặt ra là nhà nước ta phải từng bước xây dựng và hoàn
thiện hơn nữa các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động thực hiện chính sách
tiền tệ quốc gia của ngân hàng nhà nước (NHNN) với tư cách là NHTW của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nội dung bài viết sau xin được đề cập đến sự vận hành các biện pháp và
công cụ thực hiện CSTTQG của NHNN.
NỘI DUNG
I – Chính sách tiền tệ quốc gia.
1. Khái niệm.
Thực hiện CSTTQG là nhiệm vụ mà ngày nay, ở các quốc gia, nhà nước
đều giao cho NHTW. Đạo luật NHTW đều có các quy định về nhiệm vụ của
NHTW trong việc thực hiện CSTTQG. Chẳng hạn, Luật Ngân hàng (LNH)
CHLB Đức năm 1957 quy định nhiệm vụ của ngân hàng CHLB Đức trong việc
thực hiện CSTTQG ở Điều 3; Luật NHTW Pháp năm 1993 quy định nhiệm vụ
này tại Điều 1; Điều 15 LNH Nhà nước Việt Nam quy định nhiệm vụ của
NHNN trong việc thực hiện CSTTQG như sau: “Chủ trì xây dựng CSTTQG, kế
hoạch cung ứng lượng tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm trình Chính phủ;


Điều hành các công cụ thực hiện CSTTQG; thực hiện việc đưa tiền ra lưu
thông, rút tiền từ lưu thông về theo tín hiệu của thị trường trong phạm vi lượng
tiền cung ứng đã được Chính phủ phê duyệt”.
SVTH: nhóm 2 – KT32H2 1
Bộ môn Luật Ngân hàng
Pháp luật ngân hàng hiện hành nhận định CSTTQG “là một bộ phận của
chính sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền,
kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân”
1
.
Như vậy, CSTTQG là chính sách kinh tế vĩ mô trong đó NHNN thông
qua các công cụ của mình, thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền
cung ứng nhằm ổn định giá trị đồng tiền và đạt được các mục tiêu kinh tế - xã
hội đã đề ra.
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Có thể nói, CSTTQG là trọng tâm hoạt động của một NHNN. Điều này
có nghĩa mọi hoạt động của NHNN (kể cả phát hành tiền) đều nhằm thực hiện
các mục tiêu của CSTTQG và bị chi phối bởi các mục tiêu ấy.CSTTQG thường
tập trung vào những mục tiêu sau:
Thứ nhất là ổn định giá cả. Ổn định giá cả hay kiềm chế làm phát là mục
tiêu hàng đầu và là mục tiêu dài hạn của CSTTGQ. Ổn định giá cả có tầm quan
trọng đặc biệt để định hướng phát triển kinh tế của quốc gia vì nó làm tăng khả
năng dự đoán những biến động của môi trường kinh tế vĩ mô. Mức lạm phát
thấp và ổn định tạo nên môi trường đầu tư ổn định, thúc đẩy nhu cầu đầu tư và
đảm bảo sự phân bổ nguồn lực xã hội một cách hiệu quả. Đây là lợi ích có tầm
quan trọng sống còn đối với sự thịnh vượng kinh tế quốc gia.
Thứ hai là ổn định tỷ giá hối đoái. Trong điều kiện mở cửa kinh tế, các
luồng hàng hóa và tiền vốn vào ra một quốc gia gắn liền với việc chuyển đổi
qua lại giữa đồng nội tệ đồng ngoại tệ. Việc ngăn ngừa những biến động mạnh,

bất thường trong tỷ giá hối đoái sẽ giúp cho các hoạt động kinh tế đối ngoại
được hiệu quả hơn nhờ dự đoán được chính xác về mặt khối lượng giá trị. Thêm
vào đó, tỷ giá hối đoái còn ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của hàng hóa
trong nước với nước ngoài về mặt giá cả.
Thứ ba là ổn định lãi suất. Lãi suất là một biểu số kinh tế vĩ mô hết sức
quan trọng trong nền kinh tế, do đó nó ảnh hưởng tới quyết định chi tiêu của các
doanh nghiệp và hộ gia đình. Những biến động bất thường trong lãi suất sẽ gây
khó khăn cho các doanh nghiệp và các cá nhân trong việc dự tính chi tiêu hay
lập kế hoạch kinh doanh. Do đó, ổn định lãi suất cũng là một mục tiêu quan
trọng mà các NHNN hướng tới nhằm góp phần ổn định môi trường kinh tế vĩ
mô.
Thứ tư là ổn định hệ thống ngân hàng. Ngân hàng được xem là nơi tạo ra
nguồn vốn cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển kinh tế. Nó góp phần
quan trọng trong việc điều hòa vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, giúp nâng
1
Xem Điều 2 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997 đã được sửa đổi bổ sung năm 2003.
SVTH: nhóm 2 – KT32H2 2
Bộ môn Luật Ngân hàng
cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Với vai trò như vậy, sự ổn định của
hệ thống ngân hàng có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế. NHNN với khả
năng tác động tới khối lượng tín dụng và lãi suất có nhiệm vụ đem lại sự ổn
định cho hệ thống ngân hàng.
Thứ năm là tăng trưởng kinh tế. Do CSTTQG có thể ảnh hưởng tới của
cải và chi tiêu của xã hội nên có thể sử dụng nó làm đòn bẩy, kích thích tăng
trưởng kinh tế. Một nền kinh tế phồn thịnh với tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn
đỉnh là nền tảng cho mọi sự ổn định, là căn cứ để ổn định tiền tệ trong nước, cải
thiện tình trạng cán cân thanh toán quốc tế và khẳng định vị trí của nền kinh tế
trên thị trường quốc tế.
Thứ sáu là giảm tỉ lệ thất nghiệp. Tạo công ăn việc làm đầy đủ là mục
tiêu của tất cả các chính sách kinh tế vĩ mô trong đó có CSTTQG. Công ăn việc

làm đầy đủ có ý nghĩa quan trọng bởi: chỉ số thất nghiệp là một trong những chỉ
tiêu phản ánh sự thịnh vượng xã hội vì nó phản ánh khả năng sử dụng có hiệu
quả nguồn lực xã hội; thất nghiệp gây nên tình trạng stress cho mỗi các nhân và
gia đình của họ và làm mầm mống của các tệ nạn xã hội; các khoản trợ cấp thất
nghiệp tăng lên có thể làm thay đổi cơ cấu chi tiêu ngân sách và làm căng thẳng
tình trạng ngân sách.
3. Công cụ thực hiện CSTTQG
Công cụ chính sách tiền tệ là các hoạt động được thực hiện bởi NHTW
nhằm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới khối lượng tiền trong lưu thông và
lãi suất thị trường, để từ đó đạt được các mục tiêu của CSTTQG. Do đó, việc sử
dụng công cụ, hình thức để thực hiện CSTTQG rất quan trọng. LNH quy định
“NHNN sử dụng các công cụ tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt
buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ khác do Thống đốc quyết định”
2
.
Để đạt được mục tiêu mà CSTTQG đề ra, NHNN thực hiện thông qua
những công cụ sau:
3.1. Nghiệp vụ thị trường mở.
3.2. Công cụ tái chiết khấu.
3.3. Dự trữ bắt buộc.
3.4. Công cụ tỉ giá hối đoái.
3.5. Hạn mức tín dụng.
3.6. Khung lãi suất.
2
Xem Điều 16 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997 đã được sửa đổi bổ sung năm 2003.
SVTH: nhóm 2 – KT32H2 3
Bộ môn Luật Ngân hàng
II – Sự vận hành các biện pháp và công cụ của CSTT.
1. Nghiệp vụ thị trường mở.
1.1. Khái niệm.

Nghiệp vụ mở là nghiệp vụ mà trong đó NHNN “thực hiện nghiệp vụ thị
trường mở thông qua việc mua, bán ngắn hạn tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền
gửi, tín phiếu NHNN và các loại giấy tờ có giá khác trên thị trường tiền tệ để
thực hiện CSTTQG”
3
.
1.2. Cơ chế vận hành.
Các hoạt động của NHNN trên thị trường sẽ gây ra những tác động gián
tiếp tới lượng tiền cung ứng và lãi suất theo cơ chế sau:
Thứ nhất, khi NHNN mua (hoặc bán) các chứng khoán, nó sẽ tăng (hoặc
giảm) ngay lập tức dự trữ của các ngân hàng trung gian (dù người bán là ngân
hàng trung gian hay khách hàng của ngân hàng này). Khả năng tạo tiền gửi
thông qua cung ứng tín dụng của hệ thống ngân hàng vì thế mà bị ảnh hưởng,
dẫn đến làm tăng (hoặc giảm) lượng tiền cung ứng.
Thứ hai, khi vốn khả dụng của từng ngân hàng tăng (hoặc giảm) do tác
động của nghiệp vụ thị trường mở, mức cung vốn trên thị trường tiền tệ liên
ngân hàng tăng lên (hoặc giảm xuống). Trong điều kiện các yếu tố liên quan
không thay đổi, lãi suất thị trường liên ngân hàng sẽ giảm xuống (hoặc tăng
lên). Thông qua các hoạt động arbitrage về lãi suất, ảnh hưởng này được truyền
đến các mức lãi suất khác trong hệ thống ngân hàng.
Thứ ba, nghiệp vụ thị trường mở còn ảnh hưởng đến cung cầu và do đó
đến giá cả các chứng khoán mà NHNN sử dụng trong nghiệp vụ này. Những
thay đổi về giá cả này sẽ tạo ra những thay đổi về mức sinh lời của các chứng
khoán (lãi suất của chúng sẽ bị tăng lên hoặc giảm xuống), từ đó, ảnh hưởng tới
lãi suất thị trường.
1.3. Ưu nhược điểm của công cụ.
- Nghiệp vụ thị trường mở được tiến hành theo sáng kiến của
NHNN. NHNN. NHNN có thể kiểm soát hoàn toàn khối lượng của
nghiệp vụ thì trường mở mà không chịu ảnh hưởng của bất kì nhân
tố nào khác.

- Nghiệp vụ thị trường mở rất linh hoạt và chính xác. Điều này thể
hiện ở chỗ dù NHNN muốn thay đổi một mức rất nhỏ hay rất lớn
của lượng cung tiền, nghiệp vụ thị trường mở đều có thể đáp ứng
3
Xem Điều 21Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997 đã được sửa đổi bổ sung năm 2003.
SVTH: nhóm 2 – KT32H2 4
Bộ môn Luật Ngân hàng
được. Hơn nữa, nghiệp vụ thị trường mở có thể dễ dàng đảo ngược
lại khi có moọt sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành nghiệp vụ.
- Nghiệp vụ thị trường mở được hoàn thành nhanh chóng mà không
vướng phải những chậm trễ về hành chính và do đó có thể gây tác
động tức thì đến lượng cung tiền tệ.
- Nghiệp vụ thị trường mở tác động thông qua cơ chế thị trường nên
các đối tượng chịu sự tác động của thường khó chống đỡ hoặc đảo
ngược chiều hướng điều chỉnh của NHNN. Mặc dù nghiệp vụ thị
trường mở được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, những nhà
kinh doanh chứng khoán không bị bắt buộc mua hay bạn theo mức
giá do NHNN ấn định nhưng NHNN có thể thực hiện được yêu cầu
của mình bằng việc điều chỉnh giá sao cho nó trở nên hấp dẫn đối
tác.
Nhờ những ưu điểm trên mà nghiệp vụ thị trường mở được coi là công cụ
hữu hiệu nhất trong các công cụ của CSTTQG. Tuy nhiên, việc thực hiện công
cụ này đòi hỏi sự phát triển của thị trường tài chính chính thứ cấp nói chung và
thị trường tiền tệ nói riêng. Ngoài ra, NHNN phải có khả năng dự đoán và kiểm
soát sự biến động của lượng vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng. Tại nước
ta, nghiệp vụ này đã được NHNN chính thức đưa vào sử dụng từ tháng 7/2000.
2. Công cụ tái chiết khấu.
2.1. Khái niệm.
Chính sách tái chiết khấu bao gồm các quy định về việc cho vay tổ chức
tín dụng (TCTD). NHNN thường cho các TCTD vay dưới hình thức chiết khấu

lại các giấy tờ có giá ngắn hạn (chủ yếu là tín phiếu kho bạc và thương phiếu)
do các TCTD đưa đến, bởi vậy, chính sách cho vay của NHNN đối với TCTD
được gọi là chính sách tái chiết khấu.
2.2. Cơ chế vận hành.
NHNN thông qua việc thay đổi các quy định về hạn mức tái chiết khấu,
lãi suất chiết khấu và các điều kiện tái chiết khấu sẽ ảnh hưởng đến các hoạt
động đi vay chiết khấu từ NHNN của các TCTD trên hai phương diện: khối
lượng và giá.
Khối lượng vốn tín dụng được bổ sung từ NHNN có thể bị giới hạn hoặc
nới rộng căn cứ vào hạn mức tái chiết khấu và các điều kiện tái chiết khấu, từ
đó ảnh hưởng đến khả năng tạo tiền của của TCTD, là cho lượng tiền cung ứng
bị thay đổi. Mặt khác, khi lượng vốn khả dụng thay đổi, nó làm cho quan hệ
cung cầu vốn và lãi suất tren thị trường thay đổi.
SVTH: nhóm 2 – KT32H2 5
Bộ môn Luật Ngân hàng
Sự thay đổi mức lãi suất tái chiết khấu tác động trước hết vào chi phí đầu
vào của các TCTD, vì thế các TCTD dần dân tăng (hoặc giảm) lãi suất cho vay,
từ đó làm giảm (hoặc tăng) nhu cầu tín dụng. Bên cạnh đó, khi lãi suất chiết
khấu tăng lên (hoặc giảm), các TCTD không thể vay NHNN một cách dễ dàng.
Điều này buộc các TCTD phải giảm bớt khả năng cung ứng tín dụng để hồi
phục dự trữ.
2.3. Ưu nhược điểm của công cụ.
- Ưu điểm của công cụ này là các khoản cho vay của NHNN đều được
đảm bảo bằng các giấy tờ có giá. Do đó các khoản cho vay sẽ chắc
chắn được thu hồi khi đến hạn.
- Tuy nhiên, tác dụng của chính sách chỉ có thể phát huy khi các TCTD
có nhu cầu vay từ NHNN. Với sự phát triển của thị trường tài chính,
các TCTD có thể tìm kiếm được các nguồn vay khác ngoài NHNN
làm cho sự phụ thuộc của chúng vào NHNN giảm đi, do đó làm giảm
mức độ phát huy hiệu quả của công cụ này.

- Thêm vào đó. NHNN khó kiểm soát được hoàn toàn những tác động
của công cụ này bởi NHNN chỉ có thể thay đổi mức lãi suất chiết khấu
và các điều kiện chiết khấu mà không thể bắt các TCTD vay từ mình.
- Cuối cùng, công cụ này cũng không dễ đảo ngược như nghiệp vụ thị
trường mở.
3. Dự trữ bắt buộc.
3.1. Khái niệm.
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà TCTD phải gửi tại NHNN để thực hiện
CSTTQG. NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình TCTD
và từng loại tiền gửi với mức từ 0% đến 20% tổng số dư tiền gửi tại mỗi TCTD
trong từng thời kỳ
4
.
3.2. Cơ chế vận hành.
Việc thay đổi tỉ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng
theo ba cách:
Thứ nhất, khi NHNN quyết định tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, bộ phận dự trữ
dư thừa trước đây của các TCTD chuyển thành dự trữ bắt buộc, làm giảm khả
năng cho vay của các TCTD.
4
Xem Khoản 5 Điều 9 và Khoản 1 Điều 20 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997 đã được sửa đổi bổ sung năm
2003.
SVTH: nhóm 2 – KT32H2 6

×