Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Công ty hợp vốn đơn giản theo pháp luật Việt Nam Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (900.7 KB, 91 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ PHƢƠNG THẢO






CÔNG TY HỢP VỐN ĐƠN GIẢN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC










HÀ NỘI - 2012



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ PHƢƠNG THẢO




CÔNG TY HỢP VỐN ĐƠN GIẢN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Huy Cƣơng




HÀ NỘI - 2012


3

MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TY HỢP VỐN
ĐƠN GIẢN

6
1.1.
Sự ra đời của công ty hợp vốn đơn giản
6
1.1.1.
Công ty hợp vốn đơn giản ra đời là một tất yếu khách quan
6
1.1.2.
Sự hình thành công ty hợp vốn đơn giản ở Việt Nam
10
1.2.
Khái niệm và đặc điểm của công ty hợp vốn đơn giản
14
1.2.1.
Khái niệm công ty hợp vốn đơn giản
14
1.2.2.
Đặc điểm pháp lý của công ty hợp vốn đơn giản
20
1.3.
Thành lập công ty hợp vốn đơn giản
25
1.3.1.
Vốn trong công ty hợp vốn đơn giản
28
1.3.2.
Tên gọi của công ty hợp vốn đơn giản
38
1.4.
Quản trị và điều hành công ty hợp vốn đơn giản

42
1.4.1.
Quản trị công ty
42
1.4.1.1.
Thành viên công ty
42
1.4.1.2.
Quản lý công ty
51
1.4.2.
Phân chia lợi nhuận
60
1.5.
Chuyển đổi và giải thể công ty hợp vốn đơn giản
62

4
1.5.1.
Chuyển đổi công ty
62
1.5.2.
Giải thể công ty hợp vốn đơn giản
63
1.5.2.1.
Các trường hợp giải thể
64
1.5.2.2.
Thủ tục giải thể
67


Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÔNG TY
HỢP VỐN ĐƠN GIẢN VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ LIÊN QUAN
71
2.1.
Thực trạng pháp luật Việt Nam về công ty hợp vốn đơn giản
71
2.1.1.
Những ưu điểm cơ bản của công ty hợp vốn đơn giản trong
nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay
71
2.1.2.
Thực trạng pháp luật Việt Nam về công ty hợp vốn đơn giản
74
2.2.
Một số kiến nghị
79

KẾT LUẬN
83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
85


5
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đòi hỏi phải có

một khung pháp luật kinh tế hoàn chỉnh, trong đó pháp luật về doanh nghiệp
có vai trò quan trọng. Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã bổ sung và cơ cấu lại
các quy định về doanh nghiệp ở mọi phương diện, từ cơ cấu tổ chức, trình tự
thành lập, các quyền nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp cũng như của thành
viên doanh nghiệp, đặt cơ sở cho một định hướng phát triển đồng bộ, thống
nhất. Với mục đích từng bước đa dạng hóa các loại hình kinh doanh, khắc
phục những hạn chế của Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp
năm 2005 có nhiều điểm mới là đã quy định một cách chặt chẽ và cụ thể về
các loại hình doanh nghiệp để tạo lập một khung pháp lý ổn định cho sự hình
thành và tổ chức hoạt động của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, Luật Doanh
nghiệp năm 2005 vì nhiều lý do về kinh tế và kỹ thuật lập pháp nên đã ghép
chung loại hình công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản.
Là một hình thức công ty ra đời sớm nhất trong lịch sử loài người,
công ty hợp vốn đơn giản bao giờ cũng được nhắc tới trước tiên trong các đạo
luật hay các công trình nghiên cứu về công ty. Đối với Việt Nam, từ cuối thế
kỷ XIX khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, người Pháp đã đem áp
dụng vào Việt Nam hệ thống pháp luật của Pháp. Cũng bắt đầu từ đây, cùng
với khái niệm doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
hợp danh, khái niệm công ty hợp vốn đơn giản đã bắt đầu xuất hiện ở Việt
Nam dưới hình thức hội buôn. Theo pháp luật Việt Nam hiện nay, công ty
hợp vốn đơn giản bị gắn với công ty hợp danh, để cùng được gọi là công ty
hợp danh. Cách thức này dẫn đến sự nhận thức thiếu chính xác về hình thức
công ty hợp vốn đơn giản và dẫn đến nhiều quy định không thích hợp đối với
loại hình doanh nghiệp này.

6
Công ty hợp vốn đơn giản là mô hình tốt cho đường lối phát triển các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế nhiều thành phần còn non trẻ của
Việt Nam. Việc hoàn thiện một khuôn khổ pháp lý tối ưu cho mô hình ấy
không chỉ là vấn đề lý luận mà còn có ý nghĩa thực tế vô cùng quan trọng.

Nghiên cứu mô hình công ty hợp vốn đơn giản trong một chỉnh thể thống
nhất, độc lập, có liên hệ với các loại hình doanh nghiệp khác, từ đó có thể xây
dựng, bổ sung, phát huy đầy đủ các thế mạnh của công ty hợp vốn đơn giản
trong tương lai và góp phần vào việc hoàn thiện chế định pháp luật về doanh
nghiệp ở Việt Nam. Mặt khác, công ty hợp vốn đơn giản trên thực tế có thể đã
tồn tại thực tế ở Việt Nam nhưng lại hoàn toàn mới mẻ đối với khoa học pháp
lý. Cho đến nay, chưa có một nghiên cứu cơ bản nào về mặt pháp lý đối với
loại hình doanh nghiệp này. Xuất phát từ thực tiễn như vậy, tác giả đã chọn đề
tài "Công ty hợp vốn đơn giản theo pháp luật Việt Nam" làm đề tài nghiên
cứu cho luận án của mình, với mục đích lớn nhất là tiến hành nghiên cứu những
vấn đề cơ bản về đặc điểm cũng như bản chất pháp lý của công ty hợp vốn
đơn giản, từ đó đưa ra những kiến nghị cụ thể đối với việc hoàn thiện pháp
luật tạo môi trường hoạt động ổn định cho loại hình doanh nghiệp còn rất mới
mẻ này ở Việt Nam, góp một phần vào quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về doanh nghiệp nói chung và công ty hợp vốn đơn giản nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Theo pháp luật Việt Nam hiện nay, công ty hợp vốn đơn giản bị gắn
với hình thức công ty hợp danh. Loại hình công ty hợp danh mới chỉ được
qui định trong Luật Doanh nghiệp nên trên thực tế loại hình này chưa phổ
biến. Những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, một
số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ luật học đã nghiên cứu về hình thức công
ty hợp danh. Mặc dù các công trình này được các tác giả nghiên cứu ở các
cấp độ khác nhau nhưng có cùng một phương diện là hoàn thiện các qui định
pháp luật về công ty hợp danh nhưng chưa có một công trình nghiên cứu
công ty hợp vốn đơn giản- một loại hình doanh nghiệp bị gắn với công ty

7
hợp danh. Vì vậy kết quả nghiên cứu đề tài "Công ty hợp vốn đơn giản theo
pháp luật Việt Nam" sẽ góp phần trang bị lý luận và thực tiễn về các loại hình
doanh nghiệp.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Căn cứ vào những quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng,
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, cũng như thực tiễn pháp luật về doanh nghiệp hiện
hành, mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản
về công ty hợp vốn đơn giản dưới góc độ pháp lý. Trên cơ sở đó tìm ra những
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về công ty hợp vốn đơn giản ở Việt Nam.
Để thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của công ty hợp vốn đơn
giản và pháp luật về công ty hợp vốn đơn giản trên thế giới và ở Việt Nam.
- Nghiên cứu làm sáng tỏ, xác định đúng đắn bản chất pháp lý của
công ty hợp vốn đơn giản.
- Phân tích, đánh giá vai trò của công ty hợp vốn đơn giản trong nền
kinh tế thị trường Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công ty hợp vốn đơn giản ở nước ta
hiện nay.
- Đề ra những giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về công
ty hợp vốn đơn giản nói riêng và Luật Doanh nghiệp nói chung.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công ty
hợp vốn đơn giản
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn xác định những nội dung cơ bản
mang tính lý luận về pháp luật điều chỉnh loại hình công ty hợp vốn đơn giản

8
để từ đó nghiên cứu nội dung pháp luật hiện hành ở Việt Nam. Tuy nhiên, mô
hình công ty hợp vốn đơn giản là một mô hình kinh doanh rất mới ở nước ta,
lại liên quan đến một số lĩnh vực pháp luật khác nhau. Trong điều kiện đó,
luận văn tập trung nghiên cứu sâu những quy định pháp luật cụ thể có liên
quan trực tiếp tới các vấn đề cơ bản nhất của công ty hợp vốn đơn giản như

các vấn đề thành lập, giải thể, quy chế thành viên, vốn trong công ty hợp vốn
đơn giản trong mối liên hệ với pháp luật của một số nước trên thế giới cũng
như trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, những lý luận cơ bản của phép duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử.
- Luận văn có kết hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể
như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa để giải quyết nội dung khoa
học của đề tài. Đặc biệt, luận văn chú trọng phương pháp so sánh luật, kết hợp
lý luận và thực tiễn.
6. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
- Luận văn nghiên cứu dựa trên các quan điểm, chủ trương, chính sách
của Đảng và các văn bản pháp luật của nhà nước trong đăng ký kinh doanh.
Luận văn còn dựa trên các kết quả nghiên cứu của một số ngành khoa học
liên quan.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bất cập trong việc thực hiện
các qui định của Luật Doanh nghiệp về công ty hợp vốn đơn giản.
7. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn là công trình chuyên khảo trong khoa học pháp lý về công
ty hợp vốn đơn giản. Các giải pháp luận văn kiến nghị khi áp dụng thực tế sẽ
đem lại hiệu quả cao.

9
- Nội dung của luận văn có thể được sử dụng làm nguồn tài liệu tham
khảo trong quá trình giảng dạy và học tập.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Những lý luận về công ty hợp vốn đơn giản

Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về công ty hợp vốn đơn
giản và những kiến nghị liên quan.

10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ CÔNG TY HỢP VỐN ĐƠN GIẢN

1.1. SỰ RA ĐỜI CỦA CÔNG TY HỢP VỐN ĐƠN GIẢN
1.1.1. Công ty hợp vốn đơn giản ra đời là một tất yếu khách quan
Công ty ra đời là một hiện tượng kinh tế quan trọng, nó là sự khởi đầu
cho việc các liên kết hình thành và phát triển mạnh mẽ trong thương mại.
Cũng giống như các hiện tượng kinh tế khác, không nảy sinh trong bất kỳ
hoàn cảnh nào, công ty chỉ ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện
lịch sử, xã hội nhất định.
Khởi nguồn từ sự buôn bán, kinh doanh truyền thống là việc các nhà
kinh doanh tự mình đứng ra bỏ vốn và điều hành các hoạt động kinh doanh
một cách tự thân. Nói khác đi, đó là kiểu kinh doanh đầu tiên trong lịch sử:
kinh doanh đơn lẻ. Nhưng khi nền sản xuất hàng hóa đã phát triển đến một
mức độ nhất định, giới hạn chật hẹp của việc kinh doanh đơn lẻ đã làm cho
các nhà kinh doanh luôn luôn vận động để tìm ra những hướng kinh doanh
mới nhằm mở rộng quy mô kinh doanh đến mức tối đa có thể. Bản chất của
việc kinh doanh, suy cho cùng, đó chính là mục tiêu lợi nhuận, mà việc mở
rộng quy mô kinh doanh lại đồng nghĩa với việc hứa hẹn tăng thêm lợi nhuận
cho các nhà kinh doanh. Tuy nhiên việc kinh doanh đơn lẻ, quy mô nhỏ có thể
tồn tại được và nuôi sống được các nhà kinh doanh cũng là bởi một lẽ: với mô
hình kinh doanh này, các nhà kinh doanh sẽ thu về ít rủi ro hơn. Như vậy sự
phát triển của nền sản xuất đã đặt các nhà kinh doanh vào thế phải lựa chọn
giữa một bên là quy mô nhỏ, lợi nhuận ít nhưng ít rủi ro và một bên là mở
rộng quy mô, lợi nhuận tăng lên đáng kể nhưng rủi ro là rất lớn. Một điều

đáng nói nữa ở đây là việc lựa chọn tăng quy mô kinh doanh là tất yếu bởi

11
nếu không, các nhà kinh doanh sẽ hoàn toàn bị sự phát triển của nền sản xuất
phủ nhận do quy mô quá nhỏ, không đáp ứng được sự đòi hỏi của nền sản
xuất ngày càng lớn mạnh và thị trường ngày càng sôi động. Nói khác đi, các
nhà kinh doanh không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc quyết định tăng
quy mô kinh doanh. Vì thế, các nhà kinh doanh buộc phải tìm ra một hướng
đi mà trong đó, vừa có thể mở rộng quy mô kinh doanh cho phù hợp để nhận
được khoản lợi nhuận lớn hơn, lại vừa có thể chia sẻ rủi ro cho nhiều người
trong quá trình kinh doanh. Công ty ra đời chính là mô hình phù hợp nhất cho
đòi hỏi khắt khe đó.
Ban đầu công ty chỉ là sự liên kết giản đơn, rồi dần dần đã phát triển
thành những tổ chức có cơ cấu chặt chẽ và thực sự phù hợp. Các công ty với
tư cách là những pháp nhân độc lập cùng với những thành viên có trách
nhiệm hữu hạn xuất hiện với số lượng lớn ở thế kỷ XIX ở Châu Âu. Nhưng
những mầm mống của một công ty có thể nhận thấy từ việc thừa nhận trách
nhiệm hữu hạn trong Luật La Mã, hoặc việc thừa nhận các hội buôn trong
Luật Thương mại của các nước Châu Âu. Từ việc thừa nhận này, những công
ty thương mại đối nhân đầu tiên đã xuất hiện ở một số nước có điều kiện địa
lý thuận lợi cho giao thương buôn bán, ngay sau đó là sự xuất hiện của các
công ty ngân hàng ở Anh thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII. Sang thế kỷ XVIII,
XIX, cùng quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng ở Châu Âu và Châu Mỹ,
một loạt các công ty cổ phần lớn đã ra đời đáp ứng nhu cầu tập trung nguồn
vốn của các nhà đầu tư thời kỳ đó.
Hiện nay, công ty đã xuất hiện với các loại hình rất đa dạng: công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, công ty hợp vốn đơn
giản rồi trong mỗi loại hình công ty đó lại bao gồm những phân loại nhỏ
hơn, tạo nên một bức tranh vô cùng phong phú về công ty. Tuy các cách phân
loại đó là rất khác biệt trong phạm vi pháp luật của từng quốc gia khác nhau,

nhưng nhìn chung, sự ra đời của công ty trên thế giới cũng có trật tự riêng của
nó, khó có thể phủ nhận.

12
Nhìn vào lịch sử ra đời của công ty trên thế giới, khó có thể khẳng
định rõ ràng là loại hình công ty nào ra đời trước. Tuy nhiên, theo logic thông
thường, dựa vào những điều kiện ra đời của công ty thì có thể nhận thấy rằng,
thoạt tiên mầm mống của công ty chỉ là sự liên kết giữa những người có quen
biết và tin cẩn lẫn nhau. Tâm lý của những người quen kinh doanh đơn lẻ là
luôn luôn tạo ra những lá chắn an toàn khi bắt đầu tìm đến đối tác liên kết. Mà
sự quen biết, tin cẩn lẫn nhau giữa những người có nhu cầu liên kết chính là lá
chắn an toàn dễ tìm nhất. Sự liên kết dựa chủ yếu trên yếu tố nhân thân này
tạo ra loại hình công ty đầu tiên: công ty đối nhân. Từ khi ra đời cho đến nay,
công ty đối nhân đã có nhiều biến tướng, có nghĩa là khi liên kết theo loại
hình công ty đối nhân, không phải lúc nào các thành viên cũng chỉ quan tâm
đến nhân thân của nhau, mà giờ đây họ có thể quan tâm đến nhiều yếu tố
khác, đặc biệt là vốn, khi quyết định có liên kết hay không. Công ty đối nhân
chỉ còn là một cách gọi tương đối. Sau công ty đối nhân, công ty đối vốn ra
đời để thỏa mãn nhu cầu liên kết vốn của các nhà kinh doanh khi mà sự liên
kết về nhân thân không thể tạo ra những mô hình công ty có quy mô kinh
doanh lớn hơn. Đối vốn có nghĩa là các thành viên công ty khi quyết định liên
kết với nhau chỉ quan tâm đến việc các thành viên khác có số vốn là bao
nhiêu, số vốn đó liệu có thỏa mãn quy mô kinh doanh mà tất cả các thành viên
đều mong muốn hay không. Tuy nhiên, giống công ty đối nhân, công ty đối
vốn cho đến nay cũng được thể hiện dưới nhiều loại hình có tên gọi khác nhau
và không phải loại hình đối vốn nào cũng đặt lên hàng đầu. Vì thế, ranh giới
phân chia giữa công ty đối nhân và công ty đối vốn ngày càng trở lên mờ nhạt
và cách phân chia cũng chỉ là tương đối.
Công ty hợp vốn đơn giản là một dạng của công ty đối nhân, mang
bản chất đối nhân, bản chất đối nhân được thể hiện tuyệt đối hay tương đối là

phụ thuộc vào quan điểm của từng quốc gia. Tuy nhiên, ở bất cứ quốc gia
nào, một khi nền kinh tế phát triển đến một trình độ nhất định thì công ty hợp
vốn đơn giản là loại hình công ty ra đời sớm, đáp ứng nhu cầu liên kết của

13
nhiều nhà kinh doanh. Sự ra đời của công ty hợp vốn đơn giản rất tự nhiên, tự
nhiên hơn nhiều so với công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần sau
này, khi mà tầng lớp kinh doanh đã có kinh nghiệm về kiểu kinh doanh liên
kết. Có thể chứng minh được điều này qua việc công ty hợp vốn đơn giản ra
đời và phát triển mạnh mẽ ở các nước thuộc các khu vực trên thế giới. Ngay
cả ở Châu Âu, Châu Mỹ những khu vực mà người kinh doanh có truyền thống
thực dụng, công ty hợp vốn đơn giản vẫn ra đời và phát triển như một tất yếu
khách quan. Ở Châu Á, đặc biệt một số nước nằm trong vùng văn minh lúa
nước, nếu xét về khía cạnh truyền thống và tâm lý kinh doanh thì liên kết kiểu
công ty đối nhân (trong đó có công ty hợp vốn đơn giản) ra đời là một tất yếu.
Đây là những quốc gia có nền kinh tế khởi đầu bằng phát triển nông nghiệp.
Ban đầu người dân làm nông nghiệp với mục đích duy nhất là tự cấp, tự túc
cho chính bản thân và gia đình để tồn tại, sau đó giao thương buôn bán cũng
xuất hiện nhưng chỉ trong diện nhỏ hẹp, chủ yếu là trao đổi những thứ mà mỗi
người dân, mỗi gia đình tự tạo ra được. Chính vì sự khởi đầu quá đơn giản
này nên tâm lý của thế hệ người kinh doanh sau này bị ảnh hưởng. Họ luôn
luôn theo đuổi truyền thống kinh doanh cá nhân hoặc kinh doanh gia đình.
Trong lịch sử có thể thấy rất nhiều các hãng buôn nổi tiếng mang tên một
dòng họ, của một dòng họ và hạn chế tuyệt đối sự can thiệp của người ngoài
vào công việc kinh doanh. Một lý do nữa là ở các quốc gia mà giao lưu
thương mại với bên ngoài chưa phát triển thì bao giờ người kinh doanh cũng
tự tìm riêng cho mình một nghề, thường là nghề thủ công và có những bí
quyết riêng để tạo lên sản phẩm của mình. Chính vì thế mà kiểu kinh doanh
cá nhân hay gia đình tồn tại rất lâu dài ở các nước này, một phần do lịch sử,
một phần do không muốn lộ bí quyết kinh doanh. Đây chính là cơ sở để công

ty hợp vốn đơn giản ra đời. Một cách tự nhiên, công ty hợp vốn đơn giản trở
thành loại hình liên kết đầu tiên và phù hợp nhất trong hoàn cảnh những
người kinh doanh ở những quốc gia này muốn mở rộng quy mô kinh doanh
mà trong phạm vi cá nhân họ hoặc gia đình họ không thể đáp ứng được. Từ

14
kiểu kinh doanh cá nhân hoặc gia đình truyền thống, người kinh doanh chỉ có
thể lựa chọn một hình thức liên kết đáng tin cẩn nhất, đó là hình thức liên kết
mà người kinh doanh hiểu rõ về nhân thân của nhau. Rõ ràng, với một truyền
thống kinh doanh như vậy, loại hình công ty phức tạp hơn như công ty trách
nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có vẻ không thích hợp. Lựa chọn công ty
hợp vốn đơn giản cũng chính là lựa chọn sự an toàn và sự dễ dàng trong kinh
doanh. Với những quốc gia này, công ty hợp vốn đơn giản càng tỏ ra phù hợp.
Tuy nhiên do ảnh hưởng của nhiều yếu tố như quan niệm chính trị, điều kiện
xã hội, trình độ lập pháp, mà ở những nước đáng ra loại hình công ty hợp
vốn đơn giản là phù hợp nhất thì nó lại không phải là loại hình công ty được
pháp luật ghi nhận đầu tiên, thậm chí phải rất lâu sau so với thời điểm nó ra
đời, công ty hợp vốn đơn giản mới được ghi nhận chính thức bằng một văn
bản pháp luật của Nhà nước.
Nói như vậy không có nghĩa là, nếu pháp luật không công nhận công ty
hợp vốn đơn giản như một hình thức kinh doanh thì sự ra đời, phát triển và tồn
tại của loại hình công ty này không phải là một tất yếu khách quan. Cho dù ở
mỗi nước, sự ghi nhận của pháp luật về loại hình công ty này có thể nhanh chậm
khác nhau nhưng có thể khẳng định mầm mống, điều kiện để công ty hợp vốn
đơn giản ra đời trong lịch sử chính là những yếu tố để chứng minh cho sự tồn tại
khách quan của loại hình công ty này trong lịch sử phát triển công ty trên thế giới.
1.1.2. Sự hình thành công ty hợp vốn đơn giản ở Việt Nam
Khác với các nước trên thế giới, công ty hợp vốn đơn giản là một
trong những loại hình công ty ra đời sớm nhất, ở Việt Nam ngược lại loại
hình công ty này ra đời muộn. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện

lịch sử, kinh tế xã hội của nước ta. Vốn là một nước trọng về nông nghiệp nên
hoạt động thương mại ở nước ta trước kia không được coi trọng. Thêm vào
đó, trải qua một thời gian dài thực hiện kinh tế tập thể do vậy kinh tế tư nhân
cũng không được chú ý phát triển.

15
Từ cuối thế kỷ XIX khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, người
Pháp đã đem áp dụng vào Việt Nam hệ thống pháp luật của Pháp, đặc biệt là
dân luật qua ba bộ luật: Dân luật Bắc Kỳ, Dân luật Trung Kỳ, Dân luật Nam
Kỳ. Cũng bắt đầu từ đây, cùng với khái niệm doanh nghiệp tư nhân, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, khái niệm công ty hợp vốn đơn giản
đã bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam dưới hình thức hội buôn. Dân luật Bắc Kỳ
năm 1931 đã có những quy định cụ thể về hội buôn và chia thành hai loại Hội
người và Hội vốn. Theo đó, "Hội người là do ở lòng tin cậy của các hội viên
đối với nhau mà lập ra" [2]. Ngoài ra, Bộ luật này cũng quy định cụ thể về
cách thức thành lập, tổ chức quản lý Hội buôn. Nhìn chung các quy định này
rất chặt chẽ, tuy nhiên xét hoàn cảnh thực tế lúc bấy giờ, nước ta còn là nước
nông nghiệp lạc hậu, không chú trọng thương mại nên thực tế áp dụng còn rất
hạn chế.
Năm 1944, chính quyền Bảo Đại ban hành Bộ luật Thương mại Trung
phần áp dụng tại Trung phần, tuy có những sửa đổi, bổ sung nhưng về cơ bản
vẫn lấy những quy định giống như Luật Thương mại đã được ban hành trước
đó. Điều này có nghĩa là, công ty hợp vốn đơn giản là một loại hình của công
ty hợp danh, dưới tên gọi "hội cấp vốn". Điều 42 Bộ luật Thương mại Trung
phần định nghĩa hội cấp vốn một cách xác thực:
Hội cấp vốn có hai thứ hội viên, hội viên xuất vốn và hội
viên nhận vốn. Hội viên nhận vốn gồm có những hội viên đứng liên
đới giữ trách nhiệm vô hạn đối với người ngoài cũng như hội viên
trong hội hợp danh. Hội viên xuất vốn gồm có những người tuy
nhập hội hợp người nhưng chỉ mất một phần góp là cùng [2].

Từ năm 1954 đến trước Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, ở
miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung, lấy kinh tế quốc doanh làm chủ đạo. Do đó các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không được thừa nhận. Pháp luật về các
loại hình công ty nói chung và công ty hợp vốn đơn giản nói riêng thời kỳ này

16
không tồn tại và nhà nước cũng không có định hướng về lĩnh vực này. Ở miền
Nam, trước năm 1975, loại hình công ty hợp vốn đơn giản được ghi nhận
trong Bộ luật Thương mại, dưới tên gọi "hội hợp tư đơn thường". Các quy
định về hội hợp tư đơn thường về cơ bản giống các quy định của pháp luật
Pháp. Tuy nhiên, số lượng công ty này rất ít so với công ty trách nhiệm hữu
hạn và công ty cổ phần.
Cho đến khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, xây dựng nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI và Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã công nhận sự
tồn tại của các thành phần kinh tế cá thể và tư doanh trong cơ cấu nền kinh tế
quốc dân bên cạnh nền kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã. Các hoạt động
kinh tế của thành phần kinh tế này được thực hiện dưới ba hình thức: hộ các
thể, hộ tiểu công nghiệp và xí nghiệp tư doanh. Tuy nhiên, các quy định về
các hình thức kinh doanh này rất chung chung, không rõ ràng và không có
quy định về công ty hợp vốn đơn giản.
Năm 1990, lần đầu tiên Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân
được ban hành, quy định ba hình thức tổ chức kinh doanh cho khu vực kinh tế
tư nhân là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư
nhân. Qua quá trình phát triển, không thể phủ nhận được những đóng góp mà
các loại hình này mang lại cho nền kinh tế, tuy nhiên, trong điều kiện một nền
kinh tế thị trường vừa mới định hình và hứa hẹn rất nhiều bất ổn định thì loại
hình công ty có quy mô vừa và nhỏ, đồng thời có khả năng linh hoạt đáp ứng
với những biến động của thị trường như công ty hợp vốn đơn giản, công ty

hợp danh sẽ có hiệu quả hơn so với công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn thường có quy mô lớn, bộ máy quản lý phức tạp. Đối với loại hình công
ty trách nhiệm hữu hạn, mặc dù không thể phủ nhận được một thực tế là loại
hình này đang rất phổ biến và phát triển mạng trên thế giới, nhưng đối với
Việt Nam, các kẽ hở về chính sách và pháp luật kinh tế liên quan đã làm cho
nhiều trong số các công ty này, dựa vào lá chắn trách nhiệm hữu hạn để kinh

17
doanh thu lợi bất chính hoặc tiến hành hoạt động theo hướng tiêu cực, có hại
cho xã hội cũng như nền kinh tế. Đối với loại hình công ty cổ phần, ra đời vào
thời kỳ đầu của tiến trình đổi mới, loại hình công ty này tỏ ra không phù hợp
với một nền kinh tế thị trường chưa hoàn thiện, cụ thể là chưa có một môi
trường đích thực cho công ty cổ phần phát triển. Việt Nam mới có thị trường
chứng khoán và thị trường chứng khoản Việt Nam đang tìm đường đi đúng
cho mình và để khẳng định được vị trí trong nền kinh tế. Vậy mà, việc công ty
cổ phần ra đời luôn luôn được gắn kết với sự phát triển của một thị trường
chứng khoán hoàn thiện. Công ty cổ phần ra đời trong hoàn cảnh không có thị
trường chứng khoán hoặc thị trường chứng khoán quá yếu kém thì cũng
không thể phát triển được thế mạnh huy động vốn của mình. Các công ty cổ
phần chỉ còn một cách là thu hẹp việc mua bán cổ phần vào trong một phạm
vi chật hẹp, thậm chí chỉ diễn ra trong nội bộ một công ty cổ phần nhất định
đó mà thôi.
Như vậy, trong suốt một thời gian dài, Việt Nam không có thêm một
loại hình công ty nào, trong khi hai loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn và
công ty cổ phần dường như vượt quá xa so với trình độ quản lý và điều kiện
kinh tế thị trường ở Việt Nam lúc bấy giờ.
Trước bất cập của Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty ngày 12
tháng 6 năm 1999 Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp thay thế cho hai
văn bản pháp luật trên. Bằng việc ghi nhận các quy định về loại hình công ty
hợp danh và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, Luật Doanh nghiệp

năm 1999 trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài, đã mở
rộng hình thức tổ chức kinh doanh, đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp
nhằm tăng khả năng bảo vệ quyền tự do kinh doanh của các nhà đầu tư, phù
hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế. Điều này thể hiện rõ mục tiêu
chiến lược của Đảng và Nhà nước trong việc phát huy nội lực, giải phóng và
phát huy mọi lực lượng, mọi tiềm năng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự
phát triển có hiệu quả của các doanh nghiệp, mở rộng khả năng thực hiện

18
quyền tự do kinh doanh của các nhà đầu tư, nhằm huy động tối đa nguồn vốn
ở khu vực kinh tế này. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp năm 1999 cũng như
Luật Doanh nghiệp sửa đổi và bổ sung năm 2005 chưa có quy định riêng về
công ty hợp vốn đơn giản, mà công ty hợp vốn đơn giản bị gắn với một loại
hình công ty khác là công ty hợp danh. Cách thức này đã dẫn đến sự nhận
thức thiếu chính xác về cả hai hình thức công ty này và còn dẫn đến nhiều quy
định không thích hợp đối với chúng.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG TY HỢP VỐN ĐƠN GIẢN
1.2.1. Khái niệm công ty hợp vốn đơn giản
Từ trước đến nay, việc đưa ra một định nghĩa chung cho tất cả các loại
hình công ty vẫn là điều nan giải đối với lý luận pháp lý bởi sự đa dạng của
các loại hình liên kết cũng như những thay đổi nhanh chóng của chúng nhằm
thích ứng với nhu cầu của thị trường. Mặt khác, thực tiễn đòi hỏi các khái
niệm pháp lý rõ ràng và chắc chắn, không chỉ dừng lại ở mức độ tương đối.
Có thể lấy Việt Nam là một ví dụ cụ thể. Khi giới hạn trong phạm vi hai loại
hình đặc trưng nhất là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, Luật
công ty Việt Nam 1990 đã có thể đưa ra một khái niệm đầy đủ và chính xác
về công ty: "Là loại doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn,
cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ
chịu trách nhiệm về khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn góp của
mình" [19]. Việc công nhận các loại hình mới: công ty trách nhiệm hữu hạn

một thành viên và công ty hợp danh trong Luật Doanh nghiệp năm 1999 đòi
hỏi các dấu hiệu đặc trưng của công ty là tính liên kết và tính chịu trách
nhiệm hữu hạn về tài sản đều cần phải xem xét lại, do đó khái niệm trên tỏ ra
không còn phù hợp nữa.
Luật Doanh nghiệp 2005 có đưa ra định nghĩa chung về doanh nghiệp
rằng: "Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật nhằm mục

19
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh" [22, khoản 1, Điều 4]. Định nghĩa
này được đánh giá sơ bộ như một sự mô tả về pháp nhân thương sự.
Không chỉ riêng đối với Việt Nam, mà đối với các nước khác trên thế
giới, kể cả những nước có một nền lập pháp tiên tiến, cũng khó có thể đưa ra
một định nghĩa chung nhất về công ty. Nhà Luật học Kubler Cộng hòa liên
bang Đức quan niệm rằng: "Khái niệm công ty được hiểu là sự liên kết của
hai hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lý nhằm tiến
hành các hoạt động để đạt một mục tiêu chung nào đó" [13].
Trước đây, quan niệm "công ty" là sự liên kết của từ hai chủ đầu tư trở
lên được chấp nhận và tồn tại trong một thời gian dài cho đến khi công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên ra đời. Chủ thể của loại hình công ty này
ở Việt Nam bị giới hạn, chỉ có tổ chức có tư cách pháp nhân mới có quyền
đầu tư thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Với hạn chế
này thì còn có thể suy luận được một chút về cái gọi là "liên kết" vẫn tồn tại
trong công ty này, đó chính là sự liên kết ban đầu trong chính bản thân chủ
đầu tư (một pháp nhân). Tuy nhiên, không phải nước nào cũng quy định như
vậy, có những nước cho phép một cá nhân có thể thành lập một công ty với
trách nhiệm hữu hạn. Bởi vậy việc chứng minh sự liên kết có vẻ đi vào bế tắc.
Đối với công ty hợp vốn đơn giản, quan niệm về công ty luôn luôn phải đi
kèm với cái gọi là tư cách pháp nhân- đó là một tư cách đặc biệt do pháp luật
quy định cho một số tổ chức. Với một số nước, pháp luật vẫn công nhận công

ty hợp vốn đơn giản có tư cách pháp nhân nhưng một số nước khác lại công
nhận công ty hợp vốn đơn giản là một chủ thể kinh doanh không kèm theo tư
cách pháp nhân. Điều này cũng làm cho việc đưa ra một khái niệm chung nhất
về công ty là không thể có được một cách hoàn hảo. Vì thế, khi nghiên cứu về
công ty hợp vốn đơn giản, cũng khó có thể bắt đầu từ những đặc điểm truyền
thống của công ty nói chung mà phải bắt đầu từ những đặc điểm tự thân của
công ty hợp vốn đơn giản.

20
Quan niệm của các quốc gia khác nhau về công ty nói chung và về
công ty hợp vốn đơn giản nói riêng rất đa dạng. Công ty hợp vốn đơn giản
được gọi theo nhiều cách: công ty hợp danh hữu hạn, công ty hợp tư đơn
thường Các quốc gia khác nhau trên thế giới, do ảnh hưởng của lịch sử
thương mại, do cách nhìn nhận chủ quan của các nhà lập pháp và do một số
yếu tố nhất định khác đã tạo ra những khái niệm pháp lý rất đa dạng về công
ty hợp vốn đơn giản.
Là một nước điển hình theo hệ thống luật Châu Âu lục địa, Luật
Thương mại của Pháp nhìn nhận khái niệm chung về công ty theo một hướng
cụ thể, đó là: Công ty là một hợp đồng theo đó hai hay nhiều người thỏa thuận
với nhau sử dụng tài sản hay khả năng của những người đó vào một hoạt động
chung nhằm chia lợi nhuận thu được qua hoạt động đó. Các thành viên trong
công ty cùng nhau chịu lỗ.
Theo Luật Thương mại Pháp, có thể có rất nhiều cách phân loại công
ty như: dựa vào trách nhiệm của các thành viên, dựa vào tính chất dân sự hoặc
kinh doanh, dựa vào quốc tịch. Nhưng căn cứ phân biệt chủ yếu là dựa vào
trách nhiệm của các thành viên thì có các loại hình công ty: công ty hợp danh,
công ty cổ phần, công ty hợp vốn đơn giản, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Khác với pháp luật của các nước khác, Luật Thương mại Pháp không xếp
công ty hợp vốn đơn giản vào cùng nhóm với công ty hợp danh. Công ty hợp
vốn đơn giản có thời thịnh hành dưới chế độ cũ của Pháp, nó cho phép một

thương nhân có ý tưởng kinh doanh nhưng không có vốn được tận dụng phần
vốn góp của các thành viên góp vốn- người nắm giữ vốn nhưng không thể tự
điều hành các hoạt động thương mại do quy chế của mình như quý tộc, tăng
lữ, thẩm phán Thông thường, công ty hợp vốn đơn giản được ra đời trên cơ
sở chuyển đổi từ công ty hợp danh để có thể kết nạp người thừa kế của thành
viên hợp danh đã chết làm thành viên hợp vốn. Công ty hợp vốn đơn giản
giống công ty hợp vốn cổ phần, cho phép hợp tác giữa nhà kinh doanh (thành
viên nhận vốn) và nhà đầu tư (thành viên góp vốn). Nhưng có điểm khác biệt

21
so với công ty hợp vốn cổ phần ở chỗ công ty hợp vốn đơn giản không được
đại diện bởi những chứng khoán có thể chuyển nhượng. Thành viên nhận vốn
(có thể chỉ có 1 thành viên hợp danh duy nhất trong công ty), có địa vị pháp
lý tương tự như thành viên hợp danh của công ty hợp danh. Họ phải có tư
cách thương nhân, có quyền rất lớn trong việc quản lý công ty và phải chịu
trách nhiệm vô hạn và liên đới đối với mọi khoản nợ của công ty. Ngược lại,
thành viên góp vốn có một vị trí thứ hai trong công ty bởi lẽ họ gánh chịu ít
rủi ro hơn. Họ không phải có tư cách thương nhân và trách nhiệm của họ chỉ
giới hạn trong phạm vi vốn góp của mình. Và khác với trong công ty hợp vốn
cổ phần, thành viên góp vốn không phải là cổ đông công ty. Như vậy, có thể nói
công ty hợp vốn đơn giản có bản chất giống như công ty hợp danh mà trong
đó có thành viên góp vốn theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 của Việt Nam.
Theo quy định của pháp luật Thụy Điển, công ty hợp vốn đơn giản
được coi là một dạng của công ty hợp danh. Công ty hợp danh của Thụy Điển
có ba loại hình:
- Công ty hợp danh đơn giản
- Công ty hợp danh thương mại
- Công ty hợp danh hữu hạn (hay công ty hợp vốn đơn giản)
Luật Hợp danh của Thụy Điển quy định công ty hợp danh hữu hạn là
một hợp danh thương mại có từ một thành viên hợp danh trở lên, nhưng

không phải tất cả trong số họ đều phải chịu trách nhiệm cá nhân về các khoản
nợ của hợp danh. Trong công ty hợp danh hữu hạn có thành viên hợp danh
(thành viên nhận vốn) và thành viên hợp danh hữu hạn (thành viên góp vốn).
Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm cá nhân về các khoản nợ,
trong khi các thành viên hợp danh hữu hạn không phải chịu trách nhiệm bằng
tài sản riêng đối với các khoản nợ của công ty. Các thành viên hợp danh hữu
hạn chỉ chịu trách nhiệm và thực hiện nghĩa vụ trong phần vốn góp. Trong
một số trường hợp nhất định, thành viên hợp danh hữu hạn có thể chịu trách

22
nhiệm cá nhân về khoản nợ giống như thành viên hợp danh. Ví dụ như trong
trường hợp thành viên hợp danh hữu hạn tham gia ký kết một hợp đồng với
bên thứ ba và bên thứ ba này khi tham gia ký kết hợp đồng không biết và
không buộc phải biết đối tác ký kết với mình không chịu trách nhiệm cá nhân
về khoản nợ thì khi đó thành viên hợp danh hữu hạn phải chịu trách nhiệm đối
với hợp đồng đó với tư cách anh ta là thành viên hợp danh. Như vậy, để đảm
bảo quyền lợi cho các bên, ngay từ khi thành lập công ty, các sáng lập viên
phải ghi rõ thành viên nào chịu trách nhiệm vô hạn và thành viên nào chịu
trách nhiệm hữu hạn. "Công ty hợp danh hữu hạn được chính thức thành lập
khi được đăng ký trong sổ đăng ký thương mại" [32]. Các chi tiết trong sổ
đăng ký thương mại cần phải nêu rõ thành viên nào là thành viên hợp danh
hữu hạn và số lượng phần đóng góp mà mỗi một thành viên hợp danh hữu hạn
tham gia trong công ty.
Pháp luật của Mỹ cũng xếp công ty hợp vốn đơn giản là một dạng của
công ty hợp danh. Theo Luật Hợp danh thống nhất của Mỹ, công ty hợp danh
của Mỹ được định nghĩa "là một hội gồm hai thể nhân trở lên và với tư cách
là những đồng sở hữu họ cùng nhau kinh doanh để thu lợi nhuận" [29]. Công
ty hợp danh có hai hình thức thể hiện:
- Công ty hợp danh thông thường
- Công ty hợp danh hữu hạn (Công ty hợp vốn đơn giản)

Công ty hợp vốn đơn giản theo pháp luật Mỹ được coi là một biến tấu
của loại hình công ty hợp danh phổ thông, nó là sự kết hợp đặc tính phi chính
thức của loại hình hợp danh phổ thông và lợi thế huy động vốn của loại hình
công ty. Các luật cụ thể về công ty hợp vốn đơn giản đã tồn tại từ thời Trung
cổ ở Mỹ. Các công ty hợp vốn đơn giản có thể hầu như thực hiện bất kỳ hoạt
động kinh doanh nào mà công ty hợp danh phổ thông làm được. Ngoại trừ về
ngân hàng, bảo hiểm và hầu như với các công ty hợp danh chuyên môn như
công ty về luật.

23
Tương tự quy định của một số nước khác về công ty hợp vốn đơn
giản, pháp luật Thái Lan coi là một loại hình của công ty hợp danh.
Công ty hợp vốn đơn giản là loại hình công ty mà ở đó:
Một hoặc nhiều thành viên có trách nhiệm hữu hạn trong
phần vốn góp mà họ cam kết riêng rẽ đóng góp vào công ty và
Một hoặc nhiều thành viên cùng nhau có trách nhiệm vô hạn
đối với tất cả các nghĩa vụ của công ty [3].
Nhìn chung, các quốc gia khác nhau trên thế giới, do ảnh hưởng của
lịch sử thương mại, do cách nhìn nhận chủ quan của các nhà lập pháp và do
một số yếu tố nhất định khác đã tạo ra những khái niệm pháp lý rất đa dạng về
công ty hợp vốn đơn giản. Tuy nhiên, sự khác nhau cũng chỉ ở một mức độ
nhất định, trên một bình diện nào đó thì tất cả các công ty đều chung một bản
chất, dựa vào bản chất ấy mà ở mỗi nước, pháp luật lại nhìn nhận công ty trên
những đặc điểm khác biệt.
Công ty hợp vốn đơn giản là loại hình công ty đối nhân. Nó mang bản
chất đối nhân, có nghĩa là trong công ty có sự liên kết của những chủ đầu tư
trọng về nhân thân của nhau. Thành viên trong công ty hợp vốn đơn giản có
hai loại thành viên là thành viên nhận vốn và thành viên góp vốn. Thành viên
nhận vốn luôn luôn chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình
đối với khoản nợ của công ty hợp vốn đơn giản và có quyền quản lý công ty;

còn thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm trong phần vốn góp vào công ty
hợp vốn đơn giản. Công ty hợp vốn đơn giản được Điều 56 Bộ luật Thương
mại Trung phần định nghĩa như sau: "Hội hợp tư đơn thường là hội thành lập
giữa một hay nhiều hội viên được gọi là hội viên thụ tư, cùng liên đới chịu trách
nhiệm, và một hay nhiều hội viên khác, cấp vốn, được gọi là hội viên xuất tư,
những người này chỉ chịu trách nhiệm tới mức phần hùn của mình" [2].
Theo định nghĩa này, ta phải hiểu rằng thành viên góp vốn chỉ chịu
trách nhiệm tới mức số vốn bỏ ra, còn thành viên nhận vốn thì trái lại, phải

24
chịu trách nhiệm vô hạn định về số nợ của công ty. Định nghĩa đã chỉ rõ và có
sự cẩn trọng tốt vì thực tế nhiều khi một điều luật hàm súc dễ bị hiểu lầm trái
hẳn với tinh thần của điều luật.
Như vậy, có thể đưa ra một khái niệm khái quát tương đối về công ty
hợp vốn đơn giản như sau:
Công ty hợp vốn đơn giản là doanh nghiệp, trong đó:
a. Có một hay nhiều thành viên là chủ sở hữu của công ty, cùng nhau
kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên nhận vốn) và một
hay nhiều thành viên góp vốn.
b. Thành viên nhận vốn là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về các nghĩa vụ của công ty
c. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công
ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
d. Công ty hợp vốn đơn giản là một pháp nhân.
1.2.2. Đặc điểm pháp lý của công ty hợp vốn đơn giản
Về đặc điểm pháp lý, mỗi nước cũng sẽ đưa ra cho loại hình công ty
hợp vốn đơn giản của mình những đặc điểm pháp lý khác nhau. Tuy nhiên,
hầu hết công ty hợp vốn đơn giản đều có những đặc điểm pháp lý chung sau:
Thứ nhất, công ty hợp vốn đơn giản có đặc tính chung của cả các công
ty, đó là mỗi một thành viên trong công ty đều có một phần trong công ty,

nghĩa là đều có những đóng góp nhất định vào công ty. Đối với thành viên
góp vốn thì phần vốn góp của mỗi thành viên này có thể hiểu là phần vốn một
cách cơ bản nhất, đối với thành viên nhận vốn thì phần đóng góp này có thể
được thể hiện dưới các dạng vốn "chất xám" như kinh nghiệm, uy tín nghề
nghiệp, bằng cấp, sáng chế nhất định. Thường thì phần đóng góp này có khó
định giá hơn rất nhiều so với các phần vốn góp của các thành viên góp vốn.
Bộ luật Thương mại Sài Gòn đã gọi phần đóng góp này là "phần lợi" để phân

25
biệt với các phần vốn góp khác và một "phần lợi" thì bao giờ cũng đi kèm với
một số đặc tính như không được tự do chuyển nhượng. Không chỉ riêng Bộ
luật Thương mại Sài Gòn mà hầu hết các nước trên thế giới đều hạn chế
quyền chuyển nhượng vốn góp của thành viên nhận vốn. Sở dĩ có quy định như
vậy là bởi bất cứ sự chuyển nhượng phần vốn nào trong bất cứ loại hình công
ty hợp vốn đơn giản thì cũng làm thay đổi nhân sự của công ty đó. Mà đối với
công ty hợp vốn đơn giản thì vấn đề nhân sự là vấn đề quan trọng, là nguyên
nhân đồng thời là lý do tồn tại của sự liên kết tạo ra công ty hợp vốn đơn giản.
Việc chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên góp vốn không bị
cấm và rất ít bị hạn chế. Các thành viên góp vốn cũng giống như một trợ lực
cho công ty hợp vốn đơn giản chứ không phải là nguyên nhân để ra đời công
ty hợp vốn đơn giản, vì thế trợ lực ấy có thể thay đổi mà không làm ảnh
hưởng đến sự tồn tại của công ty hợp vốn đơn giản. Các thành viên nhận vốn
của công ty hợp vốn đơn giản chỉ quan tâm đến phần vốn của thành viên góp
vốn chứ không quan tâm đến nhân thân của thành viên này bởi các thành viên
này không được chia sẻ quyền quản lý cùng với các thành viên nhận vốn.
Theo pháp luật Mỹ, công ty hợp vốn đơn giản có hai loại thành viên
riêng biệt: thành viên hợp danh (thành viên nhận vốn) và thành viên hữu hạn
(thành viên góp vốn). Trong công ty hợp vốn đơn giản phải có ít nhất một
thành viên nhận vốn. Thành viên này chịu trách nhiệm cá nhân thanh toán các
khoản nợ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ đơn thuần là người góp vốn,

không được tham gia quản lý công ty, do vậy, trách nhiệm của họ cũng chỉ
dừng lại trong phạm vi số vốn góp. Nói cách khác, đối với công ty hợp vốn
đơn giản cho phép nhà đầu tư là thành viên góp vốn được chia sẻ những lợi
nhuận kinh doanh mà không chịu trách nhiệm bằng tài sản cá nhân đối với các
khoản lỗ của công ty. Cũng chính đặc điểm này mà việc chuyển nhượng vốn
góp trong công ty hợp vốn đơn giản là có thể thực hiện được. Thành viên góp
vốn có thể chuyển nhượng phần của mình và cho thừa kế tài sản, kể cả tư
cách thành viên mà không cần sự đồng ý của thành viên khác.

×