Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Pháp luật về ngân hàng liên doanh ở Việt Nam Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (740.18 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





ĐỒNG THỊ NHÂN






PHÁP LUẬT VỀ
NGÂN HÀNG LIÊN DOANH Ở VIỆT NAM











LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC












Hà Nội  2013

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





Đồng Thị Nhân






PHÁP LUẬT VỀ
NGÂN HÀNG LIÊN DOANH Ở VIỆT NAM







Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Võ Đình Toàn









Hà Nội  2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc

gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN




MỤC LỤC

Trang

Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
MỞ ĐẦU
1
Chương 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG LIÊN
DOANH
5
1.1. Quá trình ra đời, phát triển của Ngân hàng liên doanh và
mô hình ngân hàng liên doanh
5
1.2. Sơ lược về ngân hàng liên doanh ở một số nước 10
1.3. Sự hình thành của Ngân hàng liên doanh và vai trò của nó
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
12

1.4. Khái niệm quy chế pháp lý của Ngân hàng liên doanh 16
Chương 2.
QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA NGÂN HÀNG LIÊN DOANH Ở
VIỆT NAM
19
2.1. Mô hình ngân hàng liên doanh theo pháp luật Việt Nam 19
2.2. Một số nội dung cơ bản về Quy chế tổ chức và hoạt động
của Ngân hàng liên doanh ở Việt Nam
24
Chương 3.
THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG LIÊN
DOANH Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN
THIỆN QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ NGÂN HÀNG LIÊN DOANH
58
3.1. Thực tiễn hoạt động của ngân hàng liên doanh ở Việt Nam


58
3.2. Kinh nghiệm hoạt động của Ngân hàng liên doanh tại một
số nước
78
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các luật liên quan đến
hoạt động của ngân hàng liên doanh
81
KẾT LUẬN
95
TÀI LIỆU THAM KHẢO
96
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


01. ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam Á
02. BLDS: Bộ luật dân sự
03. BTA: Hiệp định thương mại Việt Nam  Hoa Kỳ
04. IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế
05. IVB: Ngân hàng liên doanh Indovina (Việt  Đài)
06. LVB: Ngân hàng liên doanh Việt Lào
07. NHNN: Ngân hàng nhà nước
08. TCTD: Tổ chức tín dụng
09. TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
10. VCCI: Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
11. VPD: Ngân hàng liên doanh Vidpulic
12. VRB: Ngân hàng liên doanh Việt Nga
13. VSB: Ngân hàng liên doanh Việt Thái
14. XHCN: Xã hội chủ nghĩa
15. WB: Ngân hàng thế giới
16. WTO: Tổ chức thương mại thế giới

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế tất yếu và đang diễn ra
ngày càng sâu rộng về nội dung và qui mô trên nhiều lĩnh vực. Trong xu thế
đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được bắt đầu từ năm
1986, khi Đại hội Đảng lần thứ VI đã mở đường cho công cuộc đổi mới một
cách toàn diện theo hướng chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, Việt Nam
đã gia nhập khối ASEAN năm 1995, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA) năm 1996, gia nhập APEC năm 1998, ký Hiệp định Thương
mại Việt Nam  Hoa Kỳ năm 2000 và ký kết nhiều hiệp định thương mại, đầu
tư khác. Đáng chú ý là từ năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành
viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), là mốc son quan trọng

trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, bắt đầu quá trình
hội nhập sâu rộng với thị trường quốc tế nói chung và trong lĩnh vực ngân
hàng nói riêng. Thực tế cho thấy, ngành Ngân hàng đã có nhiều nỗ lực cải
cách đáng kể theo hướng thị trường và mở cửa khu vực dịch vụ tài chính –
ngân hàng trước yêu cầu phát triển kinh tế trong nước và xu thế hội nhập kinh
tế quốc tế.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc khuyến khích
và thu hút đầu tư nước ngoài, NHNN đã cấp giấy phép hoạt động cho các tổ
chức tài chính và ngân hàng của nhiều nước vào Việt Nam để hoạt động. Với
việc mở cửa thị trường tài chính, các ngân hàng trong nước được tiếp cận với
thị trường tài chính quốc tế, có điều kiện học hỏi, nâng cao trình độ quản trị,
điều hành, phát triển các sản phẩm dịch vụ mới và kỹ năng kinh doanh, nhất
là về các hoạt động nghiệp vụ mà các ngân hàng trong nước chưa có hoặc ít
có kinh nghiệm như kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế, tín dụng
thương mại quốc tế, dịch vụ ngân hàng điện tử, quản lý quỹ, môi giới tiền tệ,
quản lý rủi ro. Bên cạnh đó, khi các ngân hàng nước ngoài đầu tư mua cổ
phần của ngân hàng trong nước, các ngân hàng trong nước sẽ có điều kiện
thuận lợi để tăng vốn, tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm quản lý và công nghệ
hiện đại trong hoạt động ngân hàng với sự tham gia của các đối tác chiến lược
là các ngân hàng có danh tiếng trên thế giới. Ngoài ra, việc mở cửa thị trường
dịch vụ ngân hàng sẽ thúc đẩy NHNN nâng cao năng lực và hiệu quả điều
hành, thực thi chính sách tiền tệ, chia sẻ thông tin với các ngân hàng trung
ương khác.
Dưới tác động của xu hướng “toàn cầu hoá” và nhu cầu phát triển nền
kinh tế trong điều kiện nền kinh tế thị trường, thực hiện nền kinh tế mở cửa
tại Việt Nam; các ngân hàng liên doanh đã từng bước được thiết lập và phát
triển. Các ngân hàng liên doanh với nước ngoài tại Việt Nam đã góp phần mở
rộng quan hệ đối ngoại, đẩy nhanh quá trình mở cửa nền kinh tế. Đồng thời,
các ngân hàng liên doanh cũng tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh. Các
ngân hàng thương mại trong nước sẽ được tiếp cận, học hỏi công nghệ ngân

hàng tiên tiến từ đó cải tiến, nâng cao kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng đáp ứng
yêu cầu về tiêu chuẩn dịch vụ ngân hàng và kinh doanh tiền tệ. Do đó, việc
nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quy chế pháp lý của
ngân hàng liên doanh để có giải pháp hoàn thiện là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu:
Pháp luật về Ngân hàng liên doanh là một đề tài mới và phức tạp ở
nước ta, chưa được các nhà khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu nhiều, mà
chủ yếu được đề cập nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành về kinh tế và
được thể hiện trong một số giáo trình đại học chuyên ngành luật, chuyên
ngành kinh tế, các bài viết, sách tham khảo, một số công trình nghiên cứu liên
quan đến đề tài này, như: 1) "Ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam và nước
ngoài" của Đào Minh Phúc, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế
quốc dân, năm 2009; 2) "Các giao dịch thương mại chủ yếu của Ngân hàng
thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam" của Nguyễn Văn
Tuyến, Luận án Tiến sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2004; 3)
"Hoàn thiện pháp luật về hoạt động của Ngân hàng thương mại trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam" của Ngô Quốc Kỳ, Nxb. Tư pháp, năm 2005;
4) "Địa vị pháp lý của Ngân hàng liên doanh ở Việt Nam" của Nguyễn Thanh
Tú, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2000; 5) "Quy
chế pháp lý của Ngân hàng liên doanh tại Việt Nam" của Nguyễn Thị Hoa,
Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2010
Tuy nhiên, từ trước đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ và
có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quy chế pháp lý của Ngân
hàng liên doanh ở Việt Nam dưới góc độ là một luận văn thạc sỹ luật học. Vì
thế, Luận văn hy vọng sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những người làm
công tác nghiên cứu, học tập, thực thi pháp luật, những người muốn tìm hiểu
về pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của ngân hàng liên doanh tại
Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận này, tôi xin phép nghiên cứu

những quy định cơ bản nhất về quy chế pháp lý của ngân hàng liên doanh với
nước ngoài tại Việt Nam. Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ vai trò của
ngân hàng liên doanh đối với sự phát triển kinh tế, quy định của pháp luật về
hoạt động của ngân hàng liên doanh…; trên cơ sở xem xét hệ thống pháp luật
thực định về ngân hàng liên doanh và thực tiễn hoạt động của nó từ đó chỉ ra
các thiếu sót, hạn chế để có thể khắc phục, đề xuất ý kiến hoàn thiện pháp luật
về ngân hàng liên doanh tại Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khái niệm “liên doanh” hiện nay được hiểu ở hai góc độ: “liên doanh
cũ” và “liên doanh mới”. “Liên doanh cũ” đơn thuần là sự liên doanh giữa
một (hoặc các bên) Việt Nam với một (các bên) nước ngoài. “ Liên doanh
mới” là sự hợp tác liên doanh theo cách thức doanh nghiệp liên doanh  doanh
nghiệp Việt Nam; doanh nghiệp liên doanh  doanh nghiệp liên doanh…Đối
tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định về ngân hàng liên doanh
theo các quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức tín dụng,
Luật đầu tư năm 2005 và các văn bản dưới luật có liên quan.
Với mục đích như đã đặt ra ở trên, phạm vi nghiên cứu của luận văn
được giới hạn là những lý luận khái quát và quy chế pháp lý về ngân hàng liên
doanh với nước ngoài tại Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
Lênin là phép biện chứng duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp phân tích và
tổng hợp…
Tác giả luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận gắn liền với
thực tiễn, lấy Luật đầu tư năm 2005, Luật doanh nghiệp 2005 và Luật các tổ
chức tín dụng đã được sửa đổi, bổ sung năm 2010 làm cơ sở pháp lý cơ bản
cho việc nghiên cứu.
6. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành ba chương:

Chương 1. Những vấn đề khái quát về ngân hàng liên doanh
Chương 2. Quy chế pháp lý về ngân hàng liên doanh ở Việt Nam
Chương 3. Thực tiễn hoạt động của ngân hàng liên doanh và một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ngân hàng liên doanh ở Việt Nam.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG LIÊN DOANH

1.1. Quá trình ra đời, phát triển của Ngân hàng liên doanh và mô
hình ngân hàng liên doanh
Hiện nay, các nhà khoa học và các nhà kinh tế đều cho rằng: “Hoạt
động ngân hàng hình thành và phát triển cùng với sự hình thành đời sống kinh
tế và xã hội của loài người”. Ngân hàng đã bước đi từng bước cực kỳ thô sơ
(như hình thức bancus) và dưới những tác động của nhu cầu phát triển xã hội,
nền kinh tế, đã thúc đẩy ngân hàng không ngừng được hoàn thiện. Xã hội
càng phát triển thì hoạt động của ngân hàng càng trở nên đa dạng hơn.
Giai đoạn lịch sử phát triển đầu tiên của hoạt động ngân hàng được gọi
là “giai đoạn sơ khai của các ngân hàng” xuất hiện vào thời Hy Lạp, đế quốc
La Mã…Điển hình là hoạt động của các nhà đổi tiền Hy Lạp (Iraperita) nhận
tiền của giai cấp quý tộc, người giàu có…và cho các thương gia vay. Đây là
hoạt động mua bán, trao đổi vay tiền sơ khai đầu tiên. Đồng thời, nó cũng dẫn
đến sự ra đời của thuật ngữ “ ngân hàng” (xuất phát từ chữ Latinh Bancus).
Giai đoạn phát triển thứ hai của lịch sử ngân hàng bắt đầu từ thế kỷ thứ X
đến thế kỷ thứ XVII với nhiều hoạt động mới được áp dụng. Hoạt động ngân
hàng tiến bộ rất nhiều so với ngân hàng sơ khai như sự xuất hiện của nghiệp
vụ áp dụng phương pháp bù trừ trong thanh toán, nghiệp vụ chuyển
ngân…Thế kỷ XVII ngân hàng bước vào giai đoạn ba với việc mạnh dạn cho
vay tạo ra những khoản tiền mới và lưu thông, nghĩa là ngân hàng đã “tham
gia vào hoạt động cung ứng tiền”. Đồng thời là sự ra đời của một loạt các
ngân hàng như ngân hàng Anh ở Luân Đôn  Ngân hàng lớn nhất thế giới cuối
thế kỷ XVII, ngân hàng Đông Phương của Anh ở Trung Quốc, ngân hàng

Đông Dương của Pháp thành lập tại Việt Nam (Thế kỷ XIX)…
Trong thời đại ngày nay, hoạt động ngân hàng rất đa dạng, các thao
tác trong từng nghiệp vụ ngân hàng lại rất phức tạp và luôn biến động theo sự
phát triển chung của nền kinh tế. Mặt khác, do tập quán pháp luật của mỗi
quốc gia khác nhau nên đến nay vẫn chưa có sự đồng nhất trong khái niệm
ngân hàng.
Theo pháp luật Việt Nam, khái niệm ngân hàng được hiểu là loại hình
tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng (Khoản 2 Điều
4 Luật các TCTD). Từ quy định này có thể thấy, ngân hàng tại Việt Nam có
các đặc điểm sau: là loại hình tổ chức tín dụng tiến hành các hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng vì mục tiêu lợi nhuận; nội dung hoạt động
thường xuyên và chủ yếu của nó là nhận tiền gửi có hoàn trả và sử dụng tiền
gửi để cấp tín dụng; ngân hàng thực hiện các dịch vụ thanh toán và cung ứng
các dịch vụ ngân hàng khác theo quy định. Như vậy, khái niệm ngân hàng
được sử dụng như một thuật ngữ để nói đến các tổ chức làm chức năng thu
nhận tiền gửi của công chúng và đem số tiền đó cho người khác vay nhằm thu
lợi nhuận.
Nền kinh tế của một nước càng phát triển thì vai trò của hệ thống ngân
hàng càng có tầm quan trọng đặc biệt. Vai trò của ngân hàng được xác định
trên cơ sở các chức năng và các nhiệm vụ cụ thể của nó trong từng giai đoạn.
Qua việc nghiên cứu các chức năng của ngân hàng như chức năng trung gian
tín dụng, chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện
thanh toán. Ta thấy vai trò của ngân hàng được thực hiện ở hai mặt là thực thi
chính sách tiền tệ đã được hoạch định bởi Ngân hàng Trung ương và góp
phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua việc cung cấp các
dịch vụ tài chính và dịch vụ ngân hàng; thực hiện trung gian thanh toán các
nguồn vốn cho nền kinh tế thị trường; thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát
triển; góp phần hình thành và phát triển thị trường chứng khoán; phát triển
quan hệ kinh tế đối ngoại.
Xu hướng hợp tác kinh tế quốc tế là một nhu cầu tất yếu đối với phát

triển kinh tế trong điều kiện cơ chế thị trường, đặc biệt với các nước đang
phát triển. Cách mạng công nghiệp đã cho ra đời một nền công nghiệp mới và
dần thay thế công nghệ truyền thống. Các nước phát triển đang chuyển tỷ
trọng từ công nghiệp truyền thống sang công nghiệp hiện đại, dựa vào tri thức
và thông tin. Nền kinh tế không hướng theo chiều rộng mà hướng tới phát
triển theo chiều sâu. Tình hình đó làm phát sinh nhu cầu bức thiết là đòi hỏi
các nước phải mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế  quốc tế để tiếp nhận công
nghệ, khoa học kỹ thuật hiện đại, thúc đẩy sản xuất, công nghiệp hoá đất
nước. Hợp tác kinh tế  quốc tế được mở rộng trên tất cả mọi lĩnh vực của đời
sống trong đó có hợp tác kinh tế  quốc tế trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường, không một hoạt động kinh tế nào
không liên quan tới hoạt động tài chính và tín dụng, giám sát và điều tiết
thông qua hệ thống tiền tệ. Ngân hàng được coi là một bộ phận của hạ tầng cơ
sở trong nền kinh tế.
Thứ nhất, để ổn định và phát triển kinh tế trong điều kiện cơ chế thị
trường thì vị trí của tiền vốn và vai trò của ngân hàng hết sức to lớn. Tiền vốn
với vai trò thúc đẩy sản xuất, mở rộng giao lưu hàng hoá phải luôn ổn định,
đủ tín nhiệm cả đối ngoại lẫn đối nội và ngân hàng cần được tổ chức thành
một hệ thống, có mặt ở khắp nơi để kế toán, kiểm soát trên phạm vi toàn
quốc, thực hiện chức năng quản lý vĩ mô của ngân hàng đối với quá trình sản
xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng.
Thứ hai, trong nền kinh tế hướng ngoại, giao lưu và hợp tác kinh tế
phát triển thì mọi hoạt động kinh tế đối ngoại (xuất nhập khẩu, đầu tư nước
ngoài…) đều trực tiếp phụ thuộc và liên quan mật thiết vào hoạt động của
ngân hàng, đặc biệt là quan hệ đối ngoại của ngành ngân hàng. Ngân hàng là
trung tâm thanh toán điều hoà và cho vay vốn bảo đảm khả năng chi trả cho
các nhà xuất nhập khẩu. Trong hoạt động xuất nhập khẩu, ngân hàng cũng
đóng vai trò là người tài trợ cùng tham gia hợp tác kinh doanh với các nhà
xuất nhập khẩu, là trung tâm tư vấn cho các nhà xuất nhập khẩu trong quá
trình hoạt động, ngân hàng là cầu nối quan trọng giữa các nhà xuất nhập khẩu

trong và ngoài nước, từ đó thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển.
Trong hoạt động đầu tư trực tiếp, ngân hàng tham gia vào tất cả các giai đoạn
của quá trình đầu tư từ khâu hình thành dự án đầu tư (thực hiện nghĩa vụ môi
giới, tham gia thẩm định các dự án đầu tư), đến khi dự án được triển khai
(như mở tài khoản, chuyển vốn đầu tư…), xí nghiệp đi vào hoạt động (hoạt
động thanh toán, chuyển tiền…), xí nghiệp hết thời hạn hoạt động hoặc giải
thể (chuyển vốn, thanh lý tài sản xí nghiệp…). Ngân hàng tham gia vào hoạt
động đầu tư gián tiếp thông qua việc tham gia vào thị trường chứng khoán
hoặc cung cấp vốn, hùn vốn đầu tư…
Từ xu thế phát triển của thế giới, vai trò quan trọng đặc biệt của ngân
hàng trong nền kinh tế; ta nhận thấy phát triển kinh tế trong điều kiện mở cửa,
giao lưu hợp tác kinh tế  quốc tế thì trước hết phải phát triển hệ thống ngân
hàng, mở rộng hoạt động của ngành ngân hàng trong đó có các hoạt động đối
ngoại và sự hợp tác kinh tế  quốc tế của ngành ngân hàng. Sự phát triển và
vận động này của ngân hàng đã dẫn đến những hình thức ngân hàng mới như
chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh…
Vấn đề quan tâm đầu tiên của nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào một nước cụ thể là hệ thống ngân hàng nước đó có đủ uy tín
hay không? Ngân hàng nước họ đã xuất hiện chưa và họ sẽ được hỗ trợ gì?
Chính vì vậy, sự xuất hiện của các ngân hàng nước ngoài dưới hình thức chi
nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh giữa ngân hàng trong
nước với ngân hàng nước ngoài, trong giai đoạn đầu của quá trình mở cửa, là
một xu hướng phổ biến, giải quyết được những khúc mắc của các nhà đầu tư
nước ngoài, từ đó thu hút đầu tư nước ngoài. Hầu hết các nước đang phát triển
khi bước vào thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; hệ
thống ngân hàng còn chưa đủ mạnh, chưa đáp ứng được nhu cầu vốn cho sự
phát triển kinh tế. Vì thế, cần phải thực hiện hiệu quả việc thu hút vốn đầu tư
nước ngoài. Ngân hàng liên doanh được thành lập nhằm tạo ra một ngân hàng
có sức mạnh tổng hợp trên cơ sở khắc phục những yếu kém của ngân hàng
trong nước, phát huy thế mạnh của ngân hàng nước ngoài, góp phần cải thiện

môi trường đầu tư và tạo điều kiện cho việc đổi mới hệ thống ngân hàng tại
các nước này.
Ngân hàng liên doanh là kết quả của sự hợp tác về mặt kinh tế giữa
Chính phủ và Ngân hàng Trung ương của các nước với nhau, mở ra cơ hội
hợp tác giữa hai cơ chế kinh tế, hai hệ thống tài chính. Ngân hàng liên doanh
là một loại hình ngân hàng mà trong đó có sự tham gia hợp tác liên doanh
giữa ngân hàng thương mại trong nước với ngân hàng nước ngoài trên cơ sở
góp vốn để hình thành nên một ngân hàng thương mại mới, có tư cách pháp
nhân và hoạt động theo pháp luật của nước sở tại.
Qua khái niệm trên, ta thấy ngân hàng liên doanh có những đặc điểm
như:
 Ngân hàng liên doanh là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng, thuộc loại hình Công ty TNHH có từ hai thành viên trở lên.
 Ngân hàng liên doanh được ra đời trên cơ sở hợp đồng liên doanh
giữa bên ngân hàng trong nước và bên ngân hàng nước ngoài. Ngân hàng liên
doanh có tư cách pháp nhân và tồn tại độc lập với ngân hàng đã tham gia liên
doanh thành lập ra nó.
 Ngân hàng liên doanh có sự hợp tác kinh tế chặt chẽ giữa bên ngân
hàng trong nước với bên ngân hàng nước ngoài nhằm tiến hành các hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Sự gắn bó chặt chẽ giữa các bên
được thể hiện qua các nội dung kinh tế như vốn, quản trị điều hành, phân chia
lợi nhuận…
 Ngân hàng liên doanh phần lớn là liên doanh hai bên trong đó một
bên là ngân hàng nước ngoài có uy tín và tầm cỡ trên thế giới với một bên là
ngân hàng thương mại trong nước có khả năng tài chính tốt nhằm tạo ra một
ngân hàng có tiềm lực tài chính và hoạt động hiệu quả ngay sau khi ra đời.
Ngay từ khi mới ra đời, ngân hàng liên doanh đã khẳng định vai trò của
mình đối với sự phát triển kinh tế của các nước đang phát triển. Trước hết, sự
ra đời các ngân hàng liên doanh tạo điều kiện cho việc cải thiện môi trường
đầu tư tại các nước đang phát triển, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu

tư nước ngoài, tăng cường và mở rộng các quan hệ thương mại và dịch vụ với
nước ngoài. Đồng thời, ngân hàng liên doanh cũng tạo ra khả năng tiếp cận,
học tập và tranh thủ kỹ thuật nghiệp vụ, công nghệ tiên tiến…của các ngân
hàng nước ngoài, từ đó góp phần cải thiện môi trường dịch vụ ngân hàng
trong nước. Bên cạnh đó, ngân hàng liên doanh còn đóng góp vai trò với tư
cách là một loại hình liên doanh của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mục đích
của việc liên doanh nhằm giải quyết các nhu cầu đòi hỏi của quá trình phát
triển kinh tế đất nước là vốn, khoa học công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản
lý tiên tiến…đều có thể đạt được trong ngân hàng liên doanh. Ngoài ra, ngân
hàng liên doanh còn là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự hình
thành, phát triển thị trường tiền tệ và thị trường tài chính tại các nước đang
phát triển.
Như vậy, sự ra đời của các ngân hàng liên doanh mang tính tất yếu
khách quan, phù hợp với tình hình lịch sử và điều kiện kinh tế của các nước
đang phát triển. Ngân hàng liên doanh đã đóng góp những nhân tố tích cực
cho sự phát triển kinh tế tại các nước này.
1.2. Sơ lược về ngân hàng liên doanh ở một số nước
Ngân hàng liên doanh giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước
ngoài xuất hiện lần đầu tiên trên thế giới vào những năm 50 tại khu vực Châu
Á. Ở Inđônêxia, ngân hàng liên doanh với nước ngoài được thành lập đầu tiên
vào những năm 1953 là ngân hàng PT Bank Perdania. Thời kỳ đầu, từ những
năm 1953 khi bắt đầu cho phép thành lập các ngân hàng liên doanh với nước
ngoài cho đến cuối những năm 60 và đầu những năm 70. Trong giai đoạn này,
do mới giành được độc lập, hệ thống ngân hàng Inđônêxia còn yếu kém. Để
thu hút vốn từ bên ngoài, Chính phủ Inđônêxia đã cho phép các ngân hàng
nước ngoài vào hoạt động dưới một hình thức duy nhất là ngân hàng liên
doanh trên cơ sở cùng góp vốn liên doanh giữa các ngân hàng nước ngoài và
ngân hàng thương mại trong nước với tỷ lệ góp vốn khá chênh lệch bên ngân
hàng thương mại Inđônêxia 20% còn bên ngân hàng nước ngoài vào khoảng
80%. Do vậy, các ngân hàng liên doanh với nước ngoài tại Inđônêxia được

thành lập hầu hết vào giai đoạn này. Từ cuối những năm 60 đầu những năm
70 cho đến cuối những năm 80 và đến nay, nền kinh tế đã phát triển, các ngân
hàng thương mại nội địa Inđônênxia dần lớn mạnh, đáp ứng được nhu cầu
dịch vụ ngân hàng của nền kinh tế, Chính phủ Inđônêxia thực hiện chính sách
hạn chế sự có mặt của các ngân hàng liên doanh. Nhìn chung, sự điều chỉnh
pháp luật đối với ngân hàng liên doanh của Inđônêxia là điển hình của xu
hướng “ thu hẹp dần”. Đây là xu hướng mà ban đầu, việc cho phép thành lập
các ngân hàng liên doanh rất rộng rãi với nhiều ưu đãi… nhằm khuyến khích
sự có mặt của các ngân hàng nước ngoài tại nước sở tại, góp phần đẩy nhanh
thu hút vốn tạo sức bật cho nền kinh tế. Khi hệ thống ngân hàng thương mại
trong nước đã phát triển vững mạnh thì thắt chặt dần các quy định đối với
ngân hàng liên doanh.
Ngược lại với xu hướng “thu hẹp dần” là xu hướng “ mở rộng dần”.
Điển hình của xu hướng này là Trung Quốc. Ngân hàng liên doanh với nước
ngoài xuất hiện tại Trung Quốc cùng với công cuộc mở cửa và được đánh dấu
bằng Bộ luật đầu tư và hợp tác giữa Trung Quốc và nước ngoài ngày
1/7/1979. Để khuyến khích sự có mặt các ngân hàng nước ngoài tại Trung
Quốc, ngay từ đầu Chính phủ Trung Quốc cho phép các ngân hàng nước
ngoài được hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau, ngân hàng nước ngoài
độc lập 100% vốn; chi nhánh ngân hàng nước ngoài; ngân hàng liên
doanh…Dưới những hình thức này, đến nay tại Trung Quốc đã có mặt nhiều
ngân hàng lớn có tầm cỡ của các nước như: Mỹ, Anh…Ngân hàng liên doanh
với nước ngoài tại Trung Quốc được thành lập là liên doanh giữa một bên là
ngân hàng thương mại Trung Quốc có khả năng tài chính tốt và một bên là
các ngân hàng có uy tín và tầm cỡ quốc tế. Khác với Inđônêxia, Trung Quốc
luôn đề cao vai trò ngân hàng thương mại nội địa trong việc liên doanh. Trung
Quốc mở rộng dần mạng lưới và địa bàn hoạt động của các ngân hàng liên
doanh tương ứng với sự lớn mạnh của các ngân hàng thương mại trong nước
và sự hoàn thiện của chính sách tiền tệ.
Tóm lại, sự hiện diện của ngân hàng liên doanh đã đóng góp nhiều

nhân tố tích cực cho sự phát triển nền kinh tế thị trường. Và xuất phát từ
những hoàn cảnh kinh tế  xã hội khác nhau mà sự ra đời, phát triển và sự
điều chỉnh của pháp luật đối với ngân hàng liên doanh mỗi nước là khác nhau.
1.3. Sự hình thành của Ngân hàng liên doanh và vai trò của nó
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
1.3.1. Sự hình thành ngân hàng liên doanh ở Việt Nam
Sau Đại hội Đảng lần thứ VI, nước ta bắt đầu đổi mới cơ chế kinh tế,
trong đó quan hệ thị trường dần được củng cố và phát triển. Trên cơ sở đổi
mới trong quan hệ kinh tế đối ngoại, cuối năm 1987 Luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam ra đời đánh dấu sự chuyển biến quan trọng của đời sống kinh tế
đất nước. Sự ra đời của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhằm khai thác
có hiệu quả mọi tiềm năng đất nước (về tài nguyên và lao động) để tăng tích
luỹ, tăng nguồn hàng về xuất khẩu, giải quyết tình trạng thiếu công ăn việc
làm và phát triển ngoại thương, mở rộng hợp tác quốc tế qua đó phát triển nền
kinh tế cho theo kịp thời đại. Nó đã tạo ra một kênh thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam trong tất cả các lĩnh vực: kinh tế, tài chính do vậy, lĩnh
vực tài chính  ngân hàng không nằm ngoài dòng thu hút đầu tư đó.
Trong báo cáo của Uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư (SCCI) 1990
đã nhận xét: “Để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cần giải quyết tốt khâu ngân
hàng vì không một dự án nào không liên quan đến việc giải quyết vốn và tín
dụng, giám sát và điều tiết thông qua hệ thống tiền tệ, những nhược điểm hiện
nay của ngân hàng nước ta cũng như sự vắng mặt của các ngân hàng nước
ngoài đã trở thành cản trở đối với nhiều dự án”. Trước yêu cầu đó, Hội đồng
nhà nước đã ban hành Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh Ngân
hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính tháng 5 năm 1990. Pháp lệnh
Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính 1990 (sau đây gọi là Pháp
lệnh Ngân hàng năm 1990) đã đưa ra mục tiêu cải cách hệ thống ngân hàng,
định hướng rõ chính sách và cơ chế nghiệp vụ cũng như về cơ cấu tổ chức của
hệ thống ngân hàng, tạo lập môi trường pháp lý cho hoạt động của các tổ chức
tín dụng.

Một trong những mục tiêu của cải cách hệ thống ngân hàng là làm cho
hệ thống ngân hàng ngày càng đa dạng hơn để các tổ chức tín dụng đáp ứng
được tốt hơn với môi trường và hoàn cảnh kinh tế mới. Đây là cơ sở pháp lý
và điều kiện nền tảng cho sự ra đời của ngân hàng liên doanh. Lần đầu tiên
khái niệm “ngân hàng nước ngoài” và “ngân hàng liên doanh” được đưa ra
trong Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990. Pháp lệnh này cũng dành toàn bộ
chương V để điều chỉnh những vấn đề cơ bản nhất đối với ngân hàng liên
doanh với nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, phù hợp với Luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam, phù hợp với các hình thức đầu tư trực tiếp của nước ngoài
trong Luật đầu tư. Sau khi ban hành Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990, ngày 15
tháng 6 năm 1991 Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quy chế về chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh hoạt động tại Việt Nam (ban
hành kèm theo Nghị định số 189/HĐBT ngày 15/6/1991) đã quy định chi tiết
về việc cấp phép, khai trương nội dung và phạm vi hoạt động, tài chính và
hoạch toán, thay đổi, gia hạn, chấm dứt hoạt động và thanh lý. Để chi tiết hoá
hơn nữa, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 178/NHTT ngày
5/10/1991 hướng dẫn thực hiện quy chế về chi nhánh ngân hàng nước ngoài
và ngân hàng liên doanh hoạt động tại Việt Nam.
Có thể nói, Luật đầu tư và Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990 là hai văn
bản pháp quy quan trọng nhất chi phối sự thành lập và hoạt động của ngân
hàng liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài tại Việt Nam.
Tháng 1 năm 1991, ngân hàng liên doanh đầu tiên được thành lập tại
Việt Nam là ngân hàng liên doanh IndoVina (viết tắt là IVB). Ngân hàng IVB
ra đời trên cơ sở liên doanh giữa ngân hàng Công thương Việt Nam và ngân
hàng Summa Handel Bank Inđônêxia với giấy phép đầu tư số 135/GPĐT của
Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (SCCI) cấp ngày 21/11/1990 và đã
khai trương hoạt động từ ngày 21/01/1991. Tuy nhiên, sau khi ban hành Nghị
định 189/HĐBT ngày 15/6/1991 và thực hiện theo Pháp lệnh Ngân hàng năm
1990 thì ngân hàng liên doanh IVB đã được Ngân hàng Nhà nước cấp lại giấy
phép hoạt động số 08/NHGP ngày 29/10/1992. Đây là ngân hàng liên doanh

giữa hai bên trong đó phần vốn góp của mỗi bên ngân hàng là 50% trong tổng
số 10 triệu USD vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh. Các đối tác tham gia
ngân hàng liên doanh:
 Bên ngân hàng Việt Nam là ngân hàng Công thương Việt Nam  một
trong những ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất và giữ vị trí quan
trọng trơng hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
 Bên đối tác nước ngoài là ngân hàng Summa của Inđônêxia, là ngân
hàng thuộc tập đoàn Soeryadjaya đăng ký kinh doanh tại Đức, có trung tâm
quản lý tại Inđônêxia và văn phòng đại diện tại nhiều nước trên thế giới như
Mỹ, Hồng Kông. Sau nhiều biến động của tình hình kinh doanh tháng 8/1993,
ngân hàng IVB thay đổi đối tác mới là ngân hàng Dagang Natinonal. Đến
ngày 14/6/2000 Ngân hàng thương mại Thế Hoa, một trong ba ngân hàng
thương mại lớn nhất Đài Loan đã tham gia liên doanh trong ngân hàng IVB
thay thế ngân hàng Dagang Natinonal.
Từ đó đến nay, ở nước ta đã có 5 ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam
với nước ngoài được thành lập: ngân hàng liên doanh Shinhanvinabank (đầu
tiên là ngân hàng liên doanh First Vina); ngân hàng liên doanh Indovinabank,
ngân hàng liên doanh Vidpublicbank, ngân hàng liên doanh Vinasiam (Việt 
Thái), ngân hàng liên doanh Việt  Nga.
Ngân hàng liên doanh Việt  Nga là ngân hàng liên doanh được thành
lập mới nhất trong gần 10 năm trở lại đây. Ngân hàng liên doanh Việt  Nga là
ngân hàng liên doanh giữa ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và ngân
hàng Ngoại thương của Nga với số vốn điều lệ là 10 triệu USD, trong đó ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đóng góp 51% số vốn. Số vốn điều lệ đến
nay được tăng lên 62.5 triệu USD. Ngân hàng liên doanh Việt  Nga đã khai
trương hoạt động vào ngày 19/11/2006, trụ sở chính được đặt tại Hà Nội.
Nhìn chung, sự ra đời của các ngân hàng liên doanh là hoàn toàn phù
hợp với đặc điểm kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, mô hình ngân
hàng góp phần thực hiện mục tiêu thúc đẩy sự phát triển kinh tế Việt Nam nói
chung và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng dần hoà nhập vào thị trường

thế giới và thị trường tài chính quốc tế.
1.3.2. Vai trò của ngân hàng liên doanh tại Việt Nam
Sự xuất hiện của các ngân hàng liên doanh có ảnh hưởng quan trọng
đến việc phát triển kinh tế hàng hoá, thúc đẩy giao lưu hợp tác kinh tế, quốc
tế. Trước hết, sự xuất hiện của các ngân hàng liên doanh đã góp phần tạo ra
môi trường đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Ngày nay, khi
đầu tư vào một nước cụ thể các nhà đầu tư quan tâm đầu tiên là ở nước đó hệ
thống ngân hàng có đủ mạnh không? hỗ trợ gì cho họ? ngân hàng của nước họ
đã có mặt chưa? Môi trường đầu tư hấp dẫn sẽ thu hút được nguồn vốn ngoại
tệ từ nước ngoài, đáp ứng một phần nhu cầu vốn phát triển kinh tế trong nước.
Sự có mặt ngân hàng liên doanh với nước ngoài là đánh dấu một bước khởi
đầu của thời kỳ tăng cường hợp tác kinh tế  quốc tế; tăng cường hợp tác kinh
tế đối ngoại.
Trong ngân hàng liên doanh, do bản chất là sự góp vốn kinh doanh tiền
tệ giữa ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài nên ngân hàng trong
nước cũng được trực tiếp tham gia vào quản lý kinh doanh cùng bên nước
ngoài, vì vậy ngân hàng nước sở tại có điều kiện để học tập kinh nghiệm,
quản lý, nghệ thuật kinh doanh, tiếp thu công nghệ ngân hàng tiên tiến từ đó
hoàn thiện và phát triển công nghệ ngân hàng trong nước. Ngân hàng liên
doanh là nơi đào tạo ra một đội ngũ cán bộ nghiệp vụ và quản lý trong nền
kinh tế thị trường do các cán bộ nước sở tại làm việc tại các ngân hàng liên
doanh, được học hỏi tác phong, nghiệp vụ của bên nước ngoài.
Ngân hàng liên doanh còn tăng cường đáp ứng các dịch vụ ngân hàng
với nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng mới, góp phần cải thiện hoạt động dịch
vụ ngân hàng, tạo ra nhiều kênh để thu hút vốn cho sự phát triển kinh tế.
Ngân hàng liên doanh thành lập tại nước sở tại với tư cách là một loại
hình tổ chức tín dụng trong hệ thống ngân hàng nước sở tại. Hơn nữa, ngân
hàng thương mại trong nước không còn được sự bảo hộ như trước, qua đó
thúc đẩy cạnh tranh, trao đổi kinh nghiệm hoạt động ngân hàng, tạo ra một
môi trường cạnh tranh lành mạnh, cải thiện môi trường dịch vụ ngân hàng

nước sở tại.
Có thể nói với ngân hàng liên doanh, các mục tiêu cơ bản đối với các
nước đặc biệt là các nước đang phát triển đặt ra về vốn, kỹ thuật, công nghệ
và kinh nghiệm quản lý kinh doanh ngân hàng tiên tiến, đào tạo sử dụng cán
bộ ngân hàng đều có thể đạt được nhất là trong việc tiếp cận công nghệ mới.
1.4. Khái niệm quy chế pháp lý của Ngân hàng liên doanh
Trong đời sống xã hội, khái niệm quy chế được sử dụng trong nhiều
trường hợp và trong nhiều lĩnh vực như quy chế của các tổ chức chính trị,
chính trị  xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, quy chế trường đại học, quy chế
tuyển sinh
Theo Từ điển Luật học do Viện Khoa học pháp lý phát hành thì quy
chế được định nghĩa và giải thích như sau: "Quy chế là một văn bản hoặc toàn
thể văn bản có chứa quy phạm pháp luật hoặc quy phạm xã hội do cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục nhất định, có hiệu
lực bắt buộc thi hành đối với thành viên của cơ quan, tổ chức thuộc phạm vi
điều chỉnh của quy chế. Quy chế thường được ban hành để quy định những
vấn đề về tổ chức, hoạt động của một cơ quan, tổ chức, cộng đồng; về trình tự
tiến hành một hoạt động nghiệp vụ cụ thể; địa vị pháp lý, trách nhiệm, thẩm
quyền, phương thức tham gia hoạt động chung của một đối tượng nhất định"
[20, tr. 642].
Như vậy, có thể xác định những dấu hiệu cơ bản sau đây của quy chế:
Thứ nhất, hình thức của quy chế là văn bản, đó có thể là một văn bản
(văn bản đơn hành) hoặc tập hợp một số văn bản có chứa quy tắc xử sự (quy
phạm pháp luật hay quy phạm xã hội).
Thứ hai, quy chế do cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ban hành.
Thứ ba, quy định của quy chế có giá trị ràng buộc trách nhiệm thi hành
của đối tượng thuộc phạm vị áp dụng của quy chế.
Từ những dấu hiệu chung trên đây, cho phép nhận diện những dấu hiệu
cơ bản của quy chế pháp là: Một là, quy chế pháp lý là văn bản hoặc tập hợp
các văn bản do cơ quan nhà nước ban hành chứa các quy phạm pháp luật cùng

điều chỉnh nhiều quan hệ xã hội gắn bó với nhau. Với cách nhìn nhận này,
khái niệm quy chế pháp lý tương đồng với khái niệm chế độ pháp lý; Hai là,
quy định của quy chế pháp lý do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
nên được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước. Dấu hiệu này cho
phép phân biệt quy chế pháp lý với quy chế xã hội; Ba là, là văn bản chứa quy
phạm pháp luật nên trình tự, thủ tục ban hành, thẩm quyền ban hành phải thực
hiện đúng theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trong thực tiễn
cho thấy, các quy chế về một chủ thể, ví dụ: Quy chế Trường đại học, Quy
chế của các tổ chức đều điều chỉnh hai nội dung cơ bản là quy định về tổ
chức và quy định về hoạt động.
Tóm lại, từ những lập luận trên đây có thể biểu đạt quy chế pháp lý của
ngân hàng liên doanh như sau: Quy chế pháp lý của ngân hàng liên doanh là
tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành quy định về tổ chức và hoạt động của ngân hàng liên doanh.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
1. Ngân hàng liên doanh là TCTD có bản chất pháp lý thuộc loại hình
Công ty TNHH có từ hai thành viên trở lên.
2. Quy chế pháp lý của ngân hàng liên doanh gồm các quy tắc xử sự
được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước.Sự ra đời của các ngân
hàng liên doanh mang tính tất yếu khách quan, phù hợp với tình hình lịch sử
và điều kiện kinh tế của các nước đang phát triển. Ngân hàng liên doanh đã
đóng góp những nhân tố tích cực cho sự phát triển kinh tế tại các nước.

Chương 2
QUY CHẾ PHÁP LÝ
CỦA NGÂN HÀNG LIÊN DOANH Ở VIỆT NAM

2.1. Mô hình ngân hàng liên doanh theo pháp luật Việt Nam
2.1.1. Khái niệm ngân hàng liên doanh
Trước khi có Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990, pháp luật nước ta chưa

có quy định về ngân hàng liên doanh. Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990 đã
đánh dấu một nấc thang pháp lý mới trong đổi mới hệ thống ngân hàng nước
ta và sự ra đời của ngân hàng liên doanh. Trong Pháp lệnh Ngân hàng năm
1990, khái niệm ngân hàng liên doanh được hiểu là ngân hàng được thành lập
bằng vốn góp của Bên ngân hàng Việt Nam và Bên ngân hàng nước ngoài, có
trụ sở tại Việt Nam, hoạt động theo pháp luật Việt Nam (Điều 1); quy chế
pháp lý về ngân hàng liên doanh được quy định tại chương V: Chi nhánh ngân
hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh tại Việt Nam.
Để cụ thể hơn các quy định pháp lý về ngân hàng liên doanh và khắc
phục những hạn chế không phù hợp của Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990, Nhà
nước ta đã ban hành Luật các TCTD năm 1997 và sửa đổi bổ sung năm 2004
trong đó có các quy định áp dụng riêng đối với ngân hàng liên doanh. Theo
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD năm 2010 không trực
tiếp và chính thức đưa ra khái niệm về ngân hàng liên doanh mà chỉ gián tiếp
thông qua các nội dung của khái niệm ngân hàng, và định nghĩa tổ chức tín
dụng, tổ chức tín dụng nước ngoài.
Theo Điều 4 của Luật các TCTD thì:
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các
hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng
phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các
hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu
hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân
hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã.
Tổ chức tín dụng nước ngoài là tổ chức tín dụng được thành lập theo
pháp luật nước ngoài.
Nghị định số 13/1999/ NĐCP ngày 17/3/1999 về tổ chức hoạt động
của Tổ chức tín dụng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng
nước ngoài tại Việt Nam đã có những quy định cụ thể về khái niệm ngân hàng
liên doanh. Gần đây nhất, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/2006/NĐ

CP ngày 28 tháng 2 năm 2006 về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân
hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài,
văn phòng đại diện tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam thay thế Nghị
định 13 nói trên, quy định chi tiết về ngân hàng liên doanh tại chương III.
Nghị định số 22/2006/ NĐCP đã có những bổ sung chi tiết hơn thay thế Nghị
định 13 về khái niệm ngân hàng liên doanh tại khoản 5 Điều 7: “Ngân hàng
liên doanh là ngân hàng được thành lập tại Việt Nam, bằng vốn góp của Bên
Việt Nam (gồm một hoặc nhiều ngân hàng Việt Nam) và Bên nước ngoài
(gồm một hoặc nhiều ngân hàng nước ngoài) trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Ngân hàng liên doanh được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu
hạn, là pháp nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam”.
Qua khái niệm nêu trên ta thấy, ngân hàng liên doanh có một số đặc
điểm như sau:
Cơ sở pháp lý để hình thành ngân hàng liên doanh là hợp đồng liên
doanh. Một hoặc nhiều ngân hàng Việt Nam hợp tác kinh doanh với một hoặc
nhiều ngân hàng nước ngoài. Bên nước ngoài bỏ vốn đầu tư vào Việt Nam để
hoạt động ngân hàng là các tổ chức tín dụng nước ngoài chứ không phải bất
kỳ tổ chức, cá nhân nước ngoài nào.

×