Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Định đoạt phần vốn góp của thành viên trong công ty TNHH theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (648.4 KB, 78 trang )


2
MỤC LỤC


Trang

Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt


Mở đầu
5

Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về định đoạt phần vốn
góp của thành viên trong công ty TNHH

1.1
Khái niệm và bản chất pháp lý của phần vốn góp của thành
viên trong công ty TNHH
8
1.1.1
Khái niệm phần vốn góp của thành viên trong công ty
TNHH
8
1.1.2


Bản chất pháp lý phần vốn góp của các thành viên trong
công ty TNHH
11
1.2
Phân loại các hình thức định đoạt phần vốn góp
12
1.2.1
Chuyển nhượng
12
1.2.2
Các hình thức khác
13
1.3
Các điều kiện đối với việc định đoạt phần vốn góp
17
1.3.1
Cơ sở pháp lý tạo thành các điều kiện
17
1.3.2
Nội dung các điều kiện
21
1.4
Nội dung và hiệu lực của định đoạt phần vốn góp
22
1.4.1
Nội dung
22
1.4.2
Hiệu lực
24

1.4.2.1
Hiệu lực đối với các thành viên
24
1.4.2.2
Hiệu lực đối với công ty
26
1.5
Tranh chấp và giải quyết tranh chấp về định đoạt phần vốn
27

3
góp
1.5.1
Các dạng tranh chấp
27
1.5.2
Hình thức giải quyết tranh chấp
40

Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về định đoạt
phần vốn góp của thành viên trong công ty TNHH

2.1
Cấu trúc và sự phát triển của pháp luật Việt Nam về định
đoạt phần vốn góp của thành viên trong công ty TNHH
43
2.2
Quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về định đoạt
phần vốn góp của thành viên trong công ty TNHH
50

2.3
Nguyên nhân của những khiếm khuyết của pháp luật Việt
Nam về định đoạt phần vốn góp của thành viên trong công
ty TNHH
58

Chƣơng 3: Những kiến nghị chủ yếu nhằm hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về định đoạt phần vốn góp của
thành viên trong công ty TNHH

3.1
Nhu cầu hoàn thiện
64
3.2
Phương hướng hoàn thiện
66
3.3
Kiến nghị các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện
69
3.3.1
Xây dựng hệ thống văn bản pháp luật hoàn chỉnh về công ty
69
3.3.2
Hoàn thiện các quy định của Luật Thương mại
70
3.3.3
Cải cách thủ tục hành chính
72
3.3.4
Công khai và minh bạch chính sách

73
3.3.5
Tạo điều kiện tốt hơn nữa cho hoạt động của công ty
73
3.3.6
Hoàn thiện quy định về chuyển nhượng phần vốn góp
74
3.3.7
Sửa đổi quy định về thừa kế phần vốn góp
74

Kết luận
75

Tài liệu tham khảo
77

4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
SHTT
Sở hữu trí tuệ
VCCI
Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam


































5

MỞ ĐẦU


1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập mạnh mẽ với các nước trong
khu vực và quốc tế vì vậy nền kinh tế của nước ta có những thay đổi hết sức
căn bản để đáp ứng được với nhu cầu hội nhập. Sự phát triển nhanh chóng của
khu vực kinh tế tư nhân và sự cải cách mạnh mẽ của khu vực kinh tế nhà
nước đã thúc đẩy việc cải cách pháp luật công ty ở Việt Nam. Quốc hội đã
ban hành Luật Doanh nghiệp 2005 để tạo ra sân chơi bình đẳng cho các thành
phần kinh tế.
Ở Việt Nam, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm số lượng rất lớn. Do
vậy loại hình công ty TNHH chiếm vị trí quan trọng, luôn là sự lựa chọn của
người đầu tư.
Việc nhượng bán phần vốn góp trong công ty TNHH là một vấn đề
pháp lý và kinh tế có ý nghĩa lớn hiện nay, bởi nó là một tài sản kinh doanh
phụ thuộc nhà đầu tư và nhà đầu tư rất linh động khi sử dụng quyền này để
tiến hành hoạt động kinh doanh. Trong khi đó pháp luật Việt Nam hiện nay
còn khá nhiều bất cập liên quan.
Vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Định đoạt phần vốn góp của thành viên
trong công ty TNHH theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài cho Luận văn thạc
sỹ luật học của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Hiện nay ở nước ta, ngoài một số bài viết đề cập hoặc nghiên cứu một
số khía cạnh của vấn đề định đoạt phần vốn góp trong công ty TNHH, chưa
có một công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc, hệ thống và đầy đủ về
vấn đề: định đoạt phần vốn góp trong công ty TNHH. Trong xu thế phát triển
và hội nhập hiện nay, có nhiều vấn đề đặt ra trong việc định đoạt phần vốn

6

góp trong công ty TNHH, nó đòi hỏi sự hoàn thiện các quy định của pháp luật
nhằm đảm bảo sự an toàn về mặt pháp lý cho các thành viên trong công ty
TNHH. Những kiến nghị của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết
thực cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về định đoạt phần vốn
góp trong công ty TNHH.
3. MỤC ĐÍCH VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Luận văn hướng tới các mục tiên nghiên cứu: (1) Các vấn đề lý luận về
phần vốn góp trong công ty TNHH; (2) Các hình thức định đoạt phần vốn
góp, thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về định đoạt phần vốn góp
trong công ty TNHH; (3) Những hạn chế và phương hướng hoàn thiện quy
định của pháp luật Việt Nam về định đoạt phần vốn góp trong công ty TNHH.
Luận văn chỉ nghiên cứu các vấn đề định đoạt phần vốn góp trong công
ty TNHH theo pháp luật Việt Nam hiện hành và đưa ra các kiến giải liên
quan.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn được thực hiện trên nền tảng các nguyên tắc và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, và những quan
điểm của Đảng cộng sản Việt Nam. Trên cơ sở đó, Luận văn kết hợp sử dụng
các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh,
tổng hợp, thống kê, khái quát hoá để giải quyết nội dung khoa học của đề tài.
5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn được chia làm ba chương như sau:
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH ĐOẠT PHẦN VỐN
GÓP CỦA THÀNH VIÊN TRONG CÔNG TY TNHH
1.1 Khái niệm và bản chất pháp lý của phần vốn góp của thành viên
trong công ty TNHH
1.2 Phân loại các hình thức định đoạt phần vốn góp

7
1.3 Các điều kiện đối với việc định đoạt phần vốn góp

1.4 Nội dung và hiệu lực của định đoạt phần vốn góp
1.5 Các dạng tranh chấp
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐỊNH ĐOẠT
PHẦN VỐN GÓP CỦA THÀNH VIÊN TRONG CÔNG TY TNHH.
2.1 Cấu trúc và sự phát triển của pháp luật Việt Nam về định đoạt phần
vốn góp của thành viên trong công ty TNHH
2.2 Quy định của pháp luật Việt Nam về định đoạt phần vốn góp của
thành viên trong công ty TNHH
2.3 Nguyên nhân của những khiếm khuyết trong quy định của pháp luật
Việt Nam về định đoạt phần vốn góp của thành viên trong công ty TNHH
Chương 3. NHỮNG KIẾN NGHỊ CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐỊNH ĐOẠT PHẦN VỐN GÓP CỦA THÀNH
VIÊN TRONG CÔNG TY TNHH
3.1 Nhu cầu hoàn thiện
3.2 Phương hướng hoàn thiện
3.3 Những kiến nghị chủ yếu nhằm hoàn thiện pháp luật về định đoạt
phần vốn góp của thành viên trong công ty TNHH










8
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH ĐOẠT PHẦN VỐN GÓP CỦA

THÀNH VIÊN TRONG CÔNG TY TNHH
1.1 Khái niệm và bản chất pháp lý của phần vốn góp trong công ty
TNHH
1.1.1 Khái niệm về phần vốn góp của thành viên trong công ty
TNHH
Công ty ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế – xã
hội và lịch sử nhất định. Lịch sử phát triển của công ty gắn liền với lịch sử
phát triển của hoạt động thương mại và sự phát triển của lực lượng sản xuất
với những tiến bộ về kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện đại.
Sự ra đời của công ty là kết quả của quá trình phát triển kinh tế hàng
hoá. Theo quan niệm chung có thể hiểu: Công ty kinh doanh là một thực thể
kinh doanh được tạo lập trên cơ sở vốn góp của một hay nhiều người. Thông
thường Công ty được chia làm 2 loại chính là Công ty đối nhân và Công ty
đối vốn.
Loại thứ nhất, Công ty đối nhân là những công ty mà việc thành lập
dựa trên sự liên kết chặt chẽ bởi độ tin cậy về nhân thân của các thàn viên
tham gia, sự hùn vốn là yếu tố thứ yếu. Công ty đối nhân thường tồn tại dưới
hai dạng cơ bản là công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản. Công ty
hợp danh là loại hình công ty trong đó các thành viên cùng nhau tiến hành
hoạt động thương mại dưới một hãng chung và cùng liên đới chịu trách nhiệm
vô hạn về mọi khoản nợ của công ty [25, tr.115]. Còn đối với công ty hợp vốn
đơn giản là loại công ty có ít nhất một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn
(thành viên nhận vốn), còn những thành viên khác chỉ chịu trách nhiệm hữu
hạn trong số vốn đã góp vào công ty (thành viên góp vốn).

9
Loại thứ hai, Công ty đối vốn là loại công ty mà những thành viên tham
gia phải góp một phần vốn xác định tạo nên vốn, tài sản riêng của Công ty
trong quá trình hoạt động kinh doanh. Ở Công ty đối vốn yếu tố nhân thân của
người góp vốn thường ít được quan tâm mà vấn đề vốn góp được đề cao. Các

thành viên Công ty đối vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ của
Công ty nghĩa là họ chỉ chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ của Công ty trong
phạm vi phần vốn mà họ góp vào công ty. Các công ty đối vốn thông thường
có công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp vốn cổ phần.
Khác với các loại hình công ty, công ty trách nhiệm hữu hạn là sản
phẩm của hoạt động lập pháp. Các loại công ty khác do các thương gia lập ra,
pháp luât thừa nhận và hoàn thiện nó. Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại
công ty trung gian giữa Công ty đối nhân và Công ty đối vốn, nó vừa có tính
chất của một Công ty đối nhân là các thành viên quen biết nhau; việc thành
lập, quản lý công ty đơn giản hơn công ty cổ phần. Nó có tính chất của công
ty đối vốn vì các thành viên chỉ chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn họ đã góp vào công ty. Vì những lý do đó công ty trách
nhiệm hữu hạn có những đặc trưng cơ bản sau:
- Công ty trách nhiện hữu hạn là một pháp nhân độc lập, địa vị pháp lý
này quyết định chế độ trách nhiệm của công ty.
- Thành viên công ty không nhiều và thường là những người quen biết
nhau.
- Vốn điều lệ chia thành từng phần, mỗi thành viên có thể góp nhiều, ít
khác nhau và bắt buộc phải góp đủ khi công ty thành lập, công ty phải bảo
toàn vốn ban đầu.
- Phần vốn góp không thể hiện dưới hình thức cổ phiếu và rất khó
chuyển nhượng ra bên ngoài.

10
- Trong quá trình hoạt động, không được phép công khai huy động vốn
trong công chúng (không được phát hành cổ phiếu).
Có thể nói công ty TNHH là mô hình lý tưởng để kinh doanh ở quy mô
vừa và nhỏ. Chính sự phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam nên mô
hình công ty TNHH rất phổ biến ở nước ta.
Khi đưa ra khái niệm “trách nhiệm hữu hạn” thì luật pháp cũng phải

đưa ra một khái niệm khác, vừa để làm nền tảng vừa để làm cho khái niệm
mới hợp lý. Vì vậy trên cơ sở để phù hợp với khái niệm “trách nhiệm hữu
hạn” luật đã tách biệt người bỏ vốn ra khỏi cái cơ ngơi họ thành lập. Cơ ngơi
người bỏ vốn ra để thành lập gọi là “pháp nhân”. “Pháp nhân được hiểu là
một tổ chức thống nhất, độc lập có tài sản riêng và chịu trách nhiệm bằng tài
sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách
độc lập” [26, tr.90]. Pháp nhân là chủ thể khi tham gia các quan hệ trong xã
hội. Vậy nếu pháp nhân gây nợ thì nó phải lấy hết tiền của nó ra mà trả, còn
chủ bỏ vốn ra chỉ mất số tiền mà họ đã góp vào để thành lập ra pháp nhân.
Từ sự phân tích ở trên ta thấy được rằng có sự tách bạch giữa tài sản
của người góp vốn và tài sản của công ty TNHH. Tài sản của người góp vốn
sau khi góp vào để thành lập công ty thì tài sản đó thuộc quyền sở hữu của
công ty TNHH chứ không còn thuộc quyền sở hữu của người góp vốn. Những
người đã góp vốn thành lập công ty trở thành đồng chủ sở hữu công ty. Mỗi
người trong số họ chiếm một phần trong tổng số vốn góp của công ty và được
gọi là phần vốn góp của người góp vốn.
Vậy phần vốn góp là gì?
Theo khoản 5 điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 “Phần vốn góp là tỷ lệ
vốn mà chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung của công ty góp vào vốn điều lệ” .
Qua các phân tích ở trên có thể hiểu theo nghĩa chung nhất, phần vốn
góp là danh từ dùng cho công ty TNHH, nói về giá trị về tài sản, dưới hình

11
thức tiền mặt hay tài sản vô hình hoặc hữu hình, mà người góp vốn vào công
ty TNHH để có những quyền và nghĩa vụ khi công ty được thành lập, hoạt
động và giải thể.
1.1.2 Bản chất pháp lý của phần vốn góp.
Công ty thường được xem xét trên hai phương diện: kinh tế và pháp lý.
Trên phương diện kinh tế, công ty được xem là một doanh nghiệp hay một
thực thể kinh doanh. Và trên phương diện pháp lý, công ty được xem là hành

vi pháp lý hay hành vi thương mại. Do đó phần vốn góp cũng được hiểu theo
nghĩa kinh tế và nghĩa pháp lý, có nghĩa là cần xem xét khái niệm phần vốn
góp từ phương diện kinh tế và từ phương diện pháp lý.
Nếu như xét từ phương diện kinh tế, phần vốn góp là sản nghiệp của
người đã góp vốn vào công ty. Phần vốn góp không phải được hình thành từ
thế giới vật chất như các tài sản hữu hình, cũng không phải được hình thành
từ con tim và khối óc như các đối tượng của sở hữu trí tụê mà phần vốn góp là
sự phân thân về giá trị của tài sản góp vốn vào công ty. Khi người góp vốn
góp vốn vào công ty thì tài sản đó thuộc sở hữu của công ty TNHH đổi lại
người góp vốn trở thành trái quyền đối với phần vốn góp. Tuy người góp vốn
là trái quyền đối với phần vốn góp nhưng do công ty TNHH là loại hình công
ty vừa mang tính đối nhân vừa mang tính đối vốn nên việc thực hiện các
quyền năng của trái quyền có một số hạn chế nhất định.
Xét về phương diện pháp lý thì phần vốn góp là tỷ lệ vốn mà người góp
vốn đã góp vào công ty. Trong công ty thường có nhiều thành viên cùng tham
gia góp vốn để thành lập công ty. Nhưng không phải lúc nào các thành viên
góp vốn cũng góp một số vốn như nhau. Khi góp vốn vào công ty thì tài sản
góp vốn trở thành tài sản của công ty. Các thành viên góp vốn là chủ sở hữu
công ty. Lúc đó vấn đề phát sinh nếu không có sự phân biệt giữa về số vốn
góp vào công ty thì sẽ không có sự khác nhau về quyền và nghĩa vụ của các

12
thành viên góp vốn. Vì vậy khái niệm phần vốn góp là để phân biệt được tỷ lệ
góp vốn vào công ty của các thành viên góp vốn. Phần vốn góp của các thành
viên góp vốn tỷ lệ thuận với số vốn mà họ đã góp vào công ty. Dựa trên phần
vốn góp mà ta cũng có thể xác định được quyền hạn và nghĩa vụ của các
thành viên góp vốn. Trong công ty có nhiều thành viên nên việc điều hành,
quản lý, quyết định những vấn đề cũng dựa trên tỷ lệ phần vốn góp của các
thành viên trong công ty.
1.2 Phân loại các hình thức định đoạt phần vốn góp

1.2.1 Chuyển nhƣợng.
Theo giáo sư Michael Blakeney của Viện nghiên cứu sở hữu trí tuệ
Queen Mary đại học London thì khái niệm chuyển nhượng được hiểu như
sau: Chuyển nhượng là việc chủ sở hữu bán tất cả các quyền SHTT độc quyền
của mình và được một cá nhân khác hoặc pháp nhân khác mua lại các quyền
đó. Khi tất cả các quyền độc quyền đối với một sáng chế đã được bảo hộ được
chủ sở hữu của nó chuyển giao cho một cá nhân hoặc một pháp nhân khác mà
không có một giới hạn bất kỳ về thời gian hoặc các điều kiện khác thì việc
chuyển nhượng các quyền đó xem như đã được thực hiện [27].
Theo giáo trình Luật dân sự của đại học Luật Hà Nội thì khái niệm
chuyển nhượng quyền sử dụng đất là sự thoả thuận của các bên, theo đó
người sử dụng đất chuyển giao đất và quyền sử dụng đất cho người được
chuyển nhượng, còn người được chuyển nhượng trả một khoản tiền nhất định,
tương ứng với giá trị quyền sử dụng đất đó.
Qua phân tích ở trên ta thấy rằng chuyển nhượng là việc chủ sở hữu
giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho người nhận chuyển nhượng và nhận
được từ người nhận chuyển nhượng một khoản tiền tương đương với giá trị
tài sản đó. Ở đây ta thấy có sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay

13
đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ. Từ đó ta có thể rút ra kết luận bản chất
của chuyển nhượng là hợp đồng.
1.2.2 Các hình thức khác.
a. Thừa kế: là một chế định pháp luật dân sự, là tổng hợp các quy phạm
pháp luật điều chỉnh việc dịch chuyển tài sản của người chết cho người khác
theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định, đồng thời quy định phạm vi
quyền, nghĩa vụ và phương thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của người thừa
kế [26, tr.464].
Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho
người khác còn sống theo quyết định của người đó trước khi chết. Nội dung

cơ bản của thừa kế theo di chúc là chỉ định người thừa kế và phân định tài
sản, quyền tài sản cho họ, giao cho họ nghĩa vụ tài sản. Người lập di chúc chỉ
định một hoặc nhiều người trong di chúc và cho họ hưởng một phần hoặc
toàn bộ tài sản của mình. Nếu trong di chúc có nhiều người, mỗi người được
hưởng bao nhiêu phục thuộc vào ý chí của người có tài sản. Người có tài sản
thể hiện ý chí của mình, nhưng ý chí đó có được thực hiện hay không phụ
thuộc vào hình thức biểu lộ ý chí. Vì vậy, một người muốn định đoạt tài sản
của mình bằng di chúc, cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thừa
kế theo di chúc [26, tr.482]. Qua phân tích ở trên ta thấy thừa kế theo di chúc
chỉ thể hiện ý chí của một bên đó là người để lại di sản thừa kế. Vì vậy ta có
thể thấy rằng thừa kế theo di chúc có bản chất là hành vi pháp lý đơn phương.
Thừa kế theo pháp luật là việc di chuyển tài sản của người chết cho
những người thừa kế theo quy định của pháp luật. Cá nhân có quyền sở hữu
đối với tài sản của mình, sau khi chết, số tài sản còn lại được chia đều cho
những người thừa kế. Người được thừa kế của cá nhân là những người có
quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng. Những người
được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi. Mọi

14
người bình đẳng trong việc hưởng di sản của người chết, thực hiện nghĩa vụ
mà người chết chưa thực hiện trong phạm vi di sản nhận. Phạm vi những
người thừa kế rất rộng, vì vậy pháp luật quy định thành nhiều hàng thừa kế.
Trong đó hàng thừa kế thứ nhất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết
thống gần gũi nhất so với các hàng khác. Các hàng thừa kế thứ hai, thứ ba là
những hàng dự bị nếu như người chết không có những người thừa kế ở hàng
thứ nhất hoặc có nhưng họ đều không nhận hoặc không có quyền nhận [26,
tr.494]. Thừa kế theo pháp luật chỉ được đặt ra trong các trường hợp:
+ Không có di chúc
+ Di chúc không hợp pháp;
+ Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước người lập di chúc;

cơ quan tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm
mở thừa kế;
+ Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà
không có quyền hưởng di sản, hoặc từ chối quyền hưởng di sản;
+ Phần di sản không được định đoạt trong di chúc
+ Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng
họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền hưởng di sản hoặc chết trước
người lập di chúc; liên quan đến cơ quan tổ chức được thừa kế theo di chúc
nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.
b, Tặng cho là loại hợp đồng. Trong các loại hợp đồng thông dụng thì
hợp đồng tặng cho có những đặc điểm riêng biệt. Tặng cho tài sản làm phát
sinh quan hệ hợp đồng khi bên được tặng, cho nhận tài sản. Hợp đồng tặng
cho là hợp đồng thực tế, sau khi các bên đã thoả thuận về việc tặng cho mà
chưa chuyển giao tài sản, không làm phát sinh quyền của các bên. Vì vậy hợp
đồng được coi là ký kết khi các bên chuyển giao tài sản. Thời điểm chuyển
giao tài sản cũng là thời điểm chấm dứt hợp đồng [26, tr.374]. Điều 461 Bộ

15
luật dân sự quy định: “Hợp đồng tặng cho là sự thoả thuận giữa các bên, theo
đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được
tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên tặng cho đồng ý nhận”. Căn cứ
vào khái niệm hợp đồng tặng cho tài sản cho thấy đây là một hợp đồng đơn
vụ và không có nghĩa vụ thanh toán giữa các bên. Loại hợp đồng tặng cho này
diễn ra phổ biến. Tuy nhiên còn có hợp đồng tặng cho kèm theo điều kiện
buộc bên được tặng cho phải thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ theo yêu cầu
của bên tặng cho. Trong trường hợp này hợp đồng tặng cho là hợp đồng có
điều kiện. Đối tượng của quan hệ nghĩa vụ mà bên tặng cho yêu cầu bên được
tặng cho thực hiện có thể là tài sản hoặc công việc. Nếu đối tượng của quan
hệ nghĩa vụ này là tài sản thì tài sản phải được phép đưa vào giao dịch, còn
nếu đối tượng của quan hệ nghĩa vụ này là công việc, thì việc thực hiện hoặc

không thực hiện công việc không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội.
Qua phân tích ta thấy được việc thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự của
bên được tặng cho thực chất là một dạng đền bù, thể hiện quan hệ có đi có lại
giữa các bên. Do đó, hợp đồng tặng cho có điều kiện là một loại hợp đồng dân
sự song vụ, theo đó bên tặng cho có nghĩa vụ chuyển giao tài sản cho bên
được tặng cho, còn bên được tặng cho tài sản có nghĩa vụ thực hiện một công
việc theo các điều kiện mà bên tặng cho đưa ra.
c, Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự: Khi đã góp tài sản vào trong
doanh nghiệp, tài sản sẽ được chuyển thành tài sản của doanh nghiệp, không
còn là tài sản thuộc sở hữu của chủ thể góp vốn nữa. Vì vậy, Bộ luật dân sự
quy định quyền tài sản đối với phần vốn góp vào doanh nghiệp được sử dụng
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
+ Thế chấp là việc một bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia và không chuyển giao tài sản
cho bên nhận thế chấp [26, tr.317].

16
+ Cầm cố được hiểu là việc một bên giao tài sản thuộc quyền sở hữu
của mình cho bên kia để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Qua đó ta thấy
để phân biệt cầm cố và thế chấp người ta không phụ thuộc vào tài sản bảo
đảm là động sản hay bất động sản, mà phụ thuộc vào đặc điểm tài sản đó có
chuyển giao cho bên nhận bảo đảm giữ hay không. Nếu tài sản bảo đảm được
chuyển giao cho bên nhận bảo đảm giữ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự,
thì hai bên đã áp dụng biện pháp cầm cố tài sản. Việc bên cầm cố giao tài sản
cầm cố cho bên nhận cầm cố phải là giao tài sản thực tế, tức là bên nhận cầm
cố thực sự giữ tài sản cầm cố chứ không phải chỉ chiếm hữu giấy tờ.
Mặt khác ta thấy rằng phần vốn góp của chủ thể góp vốn là quyền tài
sản. Với đặc điểm của quyền tài sản đó là không thể cầm nắm được vì thế
không thể có việc chuyển giao tài sản bảo đảm từ người cầm cố cho người
nhận cầm cố. Vì vậy không thể áp dụng biện pháp bảo đảm cầm cố cho tài sản

bảo đảm là phần vốn góp mà chỉ áp dụng biện pháp thế chấp.
+ Bảo lãnh là việc người thứ ba cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện
nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ, nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo
lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có
thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được
bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.
Ta có thể thấy sự khác nhau giữa chế định bảo lãnh với các chế định
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác là ở chỗ bảo lãnh là biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự, trong đó người thứ ba dùng tài sản thuộc sở hữu của
mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự của người khác chứ không phải là
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của chính chủ sở hữu tài sản như các chế định
bảo đảm khác. Như vậy, trong biện pháp bảo lãnh, bên bảo đảm không phải là
bên có nghĩa vụ được bảo đảm, đồng thời không chỉ có hai chủ thể chính là
bên có quyền và bên có nghĩa vụ, mà ít nhất có ba bên chủ thể: bên bảo đảm

17
(bên bảo lãnh), bên nhận bảo đảm (là bên có quyền – bên nhận bảo lãnh) và
bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh). Bên bảo lãnh là người thứ ba (trong
quan hệ nghĩa vụ dân sự) cam kết với bên có quyền là sẽ thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên có nghĩa vụ nếu đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có
nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Tuy nhiên, biện pháp bảo lãnh cũng có mối quan hệ với các biện pháp
bảo đảm khác. Điều này thể hiện ở chỗ bên bảo lãnh sử dụng tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình để cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược hay ký quỹ để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cho bên được bảo lãnh (được gọi là áp
dụng biện pháp bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh). Nghĩa vụ dân sự
của bên bảo lãnh trong trường hợp này là thực hiện nghĩa vụ thay cho bên
được bảo lãnh nếu khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự mà bên được bảo
lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ với bên nhận bảo
lãnh.

1.3 Các điều kiện đối với việc định đoạt phần vốn góp
1.3.1 Cơ sở pháp lý tạo thành các điều kiện
a, Quy định pháp luật về quyền tài sản.
Theo như phân tích ở trên ta có thể thấy rằng phần vốn góp là quyền tài
sản của thành viên góp vốn vào công ty. Theo quy định tại Điều 181 Bộ luật
dân sự: “Quyền tài sản là quyền giá trị được bằng tiền và có thể chuyển giao
trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”. Từ định nghĩa trên ta
khẳng định quyền tài sản phải đáp ứng được hai yêu cầu:
+ Quyền tài sản trị giá được bằng tiền.
+ Có thể chuyển giao cho người khác trong giao dịch dân sự.
Giá trị của các quyền tài sản có được thông qua các hình thức pháp lý
khác nhau như:

18
+ Thông qua giao kết hợp đồng dân sự như quyền đòi nợ, quyền sử
dụng tài sản thuê…
+ Được cơ quan nhà nước giao quyền sử dụng như quyền sử dụng đất,
quyền khai thác khoáng sản…
+ Bằng trí tuệ của mình sáng tạo ra tác phẩm hoặc được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền công nhận quyền sở hữu công nghiệp.
Quyền tài sản có thể được chia thành hai loại: quyền đối vật và quyền
đối nhân. Quyền đối vật được biển hiện như quyền cầm cố, quyền thế chấp,
quyền hưởng hoa lợi… Quyền đối nhân của một người thường tương ứng với
nghĩa vụ tài sản của người khác. Qua quy định tại Điều 181 ta thấy rằng
quyền tài sản là một tài sản vô hình, các tài sản vô hình ngoài việc đáp ứng
được hai điều kiện quy định tại Điều 181 Bộ luật dân sự cần phải có một số
đặc điểm sau đây:
+ Tài sản vô hình cần phải nhận dạng được. Việc nhận dạng tài sản vô
hình có thể thông qua một số chứng cứ hữu hình để có thể mô tả được loại tài
sản vô hình đó. Ví dụ: một sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn hoá, nghệ

thuật, khoa học – công nghệ nếu mới chỉ hình thành trong ý nghĩ của người
sáng tạo ra chúng, thì chưa được coi là tác phẩm và người có ý nghĩ đó chưa
được pháp luật bảo vệ quyền tác giả. Chỉ khi người có ý nghĩ sáng tạo thể
hiện các tác phẩm của mình dưới một hình thức vật chất nhất định, thì tác
phẩm đó mới được coi là đối tượng của quyền tác giả. Một sáng chế, phát
minh, nhãn hiệu hàng hoá… được pháp luật bảo vệ khi chủ sở hữu đăng ký
các phát minh, sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá… này tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
+ Cũng như việc người ta có thể nhận biết được điểm bắt đầu sự tồn tại
của tài sản đó, các chủ thể cũng có thể nhận biết được sự kết thúc (hay sự phá
huỷ của tài sản vô hình này). Ví dụ: quyền đòi nợ kết thúc khi người có nghĩa

19
vụ thanh toán xong khoản nợ; quyền sử dụng đất của một chủ thể kết thúc khi
hết thời hạn sử dụng đất mà pháp luật đã quy định hoặc khi chủ thể đó chuyển
quyền sử dụng đất cho người khác…
+ Chủ sở hữu tài sản vô hình được pháp luật bảo vệ khi quyền sở hữu
bị xâm phạm, thì ngược lại chủ sở hữu cũng phải chịu trách nhiệm pháp lý khi
thực hiện quyền sở hữu tài sản vô hình này.
b, Quy định của pháp luật về quyền chủ sở hữu.
Thành viên khi góp vốn thành lập công ty trở thành chủ sở hữu đối với
phần vốn góp. Quyền của chủ sở hữu bao gồm các quyền sau:
- Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản
- Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức
từ tài sản.
- Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ
bỏ quyền sở hữu đó.
Ở trong phạm vi nghiên cứu đề tài ta chỉ tập trung làm rõ quyền định
đoạt của chủ sở hữu.
Là một trong ba quyền năng của chủ sở hữu, quyền định đoạt tài sản

được hiểu là quyền quyết định số phận pháp lý của tài sản và quyền này được
thể hiện dưới hai góc độ:
+ Định đoạt về số phận thực tế của vật, tức là chủ thể có quyền định
đoạt vật làm cho vật không còn trên thực tế nữa như: tiêu dùng hết, huỷ bỏ,
hoặc từ bỏ quyền chủ sở hữu (vứt bỏ hoặc tiêu huỷ tài sản đi). Trong việc
định đoạt số phận thực tế của vật, chủ thể định đoạt vật chỉ cần bằng hành vi
của mình tác động trực tiếp đến vật đó [5, tr.445].
+ Định đoạt số phận pháp lý của vật là việc chuyển giao sở hữu đối với
tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác. Thông thường, việc định đoạt số
phận pháp lý của vật phải thông qua giao dịch dân sự phù hợp với ý chí của

20
chủ sở hữu. Các hình thức định đoạt pháp lý rất đa dạng, có thể là việc định
đoạt đối với tài sản như bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để lại thừa kế…
Hoặc thông qua các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp
luật. Ví dụ như: định đoạt việc phân chia lợi nhuận của doanh nghiệp theo
quy định của điều lệ doanh nghiệp, hay quyết định góp vốn để thực hiện hoạt
động kinh doanh tại một doanh nghiệp nào đó…[5, tr.445].
Việc chủ sở hữu, hoặc chủ thể khác được chủ sở hữu uỷ quyền định
đoạt tài sản thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản sẽ làm chấm dứt hoặc
thay đổi các quan hệ pháp luật liên quan đến tài sản đó. Việc định đoạt tài sản
phải tuân theo những điều kiện nhất định. Chủ sở hữu có thể tự mình định
đoạt tài sản hoặc uỷ quyền cho người khác định đoạt tài sản của mình.
c, Quy định của Hiến pháp về bảo vệ chủ sở hữu.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam,
công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước đã đạt được những thành tựu bước
đầu vô cùng quan trọng, nhất là những năm đầu của thập kỷ 90. Để đáp ứng
được nhu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới trong giai đoạn hiện nay, Quốc
hội đã quyết định sửa đổi Hiến pháp 1980. Hiến pháp sửa đổi (được Quốc hội
thông qua ngày 15/5/1992) đã thừa kế những quy định của các bản Hiến pháp

trước đây và đã xác nhận chế độ kinh tế của nước ta bao gồm ba hình thức sở
hữu chủ yếu. Điều 15 – Hiến pháp sửa đổi 1992 ghi nhận: “Nhà nước phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể là nền tảng”.
Với xu thế phát triển của một nền kinh tế đa dạng, Hiến pháp sửa đổi
1992 đã xác nhận sự tồn tại của hình thức sở hữu tư nhân, nhiều thành phần

21
kinh tế khác nhau cùng tồn tại và phát triển. Để tạo điều kiện cho lực lượng
sản xuất phát triển mạnh mẽ, Nhà nước chủ trương cho các thành phần kinh tế
thuộc sở hữu tư nhân phát triển với nhiều hình thức tổ chức kinh doanh đa
dạng. Mức độ và phạm vi của sở hữu tư nhân ngày càng được mở rộng. Điều
21 của Hiến pháp sửa đổi năm 1992 đã quy định: “Kinh tế cá thể, kinh tế tư
bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành
lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành
nghề có lợi cho quốc kế dân sinh”.
1.3.2 Nội dung các điều kiện
Quyền định đoạt tài sản là một quyền năng quan trọng của quyền sở
hữu, bởi nó liên quan đến việc quyết định số phận pháp lý của tài sản khi
chuyển quyền sở hữu từ chủ thể này sang chủ thể khác hoặc số phận thực tế
của tài sản. Bởi vậy, để bảo vệ quyền sở hữu tài sản của chủ sở hữu, Điều 196
Bộ luật dân sự quy định: “ Việc định đoạt tài sản phải do người có năng lực
hành vi dân sự thực hiện theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp pháp
luật có quy định về trình tự, thủ tục định đoạt tài sản thì phải tuân theo trình
tự thủ tục đó”. Theo quy định trên thì khi định đoạt tài sản phải tuân theo
những điều kiện nhất định. Các điều kiện đó là:
+ Người định đoạt tài sản phải là người có năng lực hành vi dân sự thực

hiện theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 17 Bộ luật dân sự
thì năng lực hành vi của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của
mình xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự. Bộ luật dân sự cũng quy định năng
lực hành vi dân sự ở từng độ tuổi nhất định phù hợp với khả năng nhận thức
của người có tài sản. Người thành niên từ đủ 18 tuổi trở lên là người có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ có toàn quyền định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu
của mình, hoặc định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác khi được
người đó uỷ quyền, trừ những trường hợp người đó bị Toà án tuyên bố mất

22
năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự khi định đoạt
tài sản. Pháp luật cũng quy định những người dưới 18 tuổi khi định đoạt tài
sản phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ những giao dịch
nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi của người
đó. Tuy nhiên đối với người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, nếu có tài sản
riêng thì có thể tự mình định đoạt tài sản mà không phải có sự đồng ý của
người đại diện theo pháp luật của người đó.
+ Đối với những tài sản mà pháp luật quy định trình tự, thủ tục định
đoạt tài sản, thì khi định đoạt tài sản người định đoạt tài sản phải tuân thủ theo
quy định đó. Những tài sản pháp luật quy định trình tự, thủ tục định đoạt tài
sản thường là bất động sản hoặc các tài sản là động sản phải đăng ký quyền sở
hữu.
1.4 Nội dung và hiệu lực của định đoạt phần vốn góp
1.4.1 Nội dung của định đoạt phần vốn góp
Việc định đoạt phần vốn góp trong công ty TNHH thường được thực
hiện thông qua hình thức là hợp đồng. Nội dung của định đoạt phần vốn góp
chính là nội dung của hợp đồng. Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các điều
khoản trong hợp đồng. Một hợp đồng có thể bao gồm nhiều điều khoản do
các bên thoả thuận, điều khoản do pháp luật quy định. Các điều khoản này
làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên. Trong khoa học pháp lý, điều

khoản của hợp đồng được chia làm 3 loại: điều khoản căn bản, điều khoản
thông thường và điều khoản tuỳ nghi.
Điều khoản căn bản là những điều khoản bắt buộc các bên phải thoả
thuận, nếu thiếu các điều khoản này thì hợp đồng không thể giao kết được.
Người ta còn gọi các điều khoản căn bản là điều kiện cần và đủ để hình thành
hợp đồng. Tuỳ thuộc vào từng đối tượng của hợp đồng mà có thể có những
điều khoản căn bản nhất định. Điều khoản căn bản do pháp luật quy định hoặc

23
do các bên thoả thuận. Song, đều xuất phát từ yêu cầu khách quan của các
quan hệ phát sinh trong giao lưu dân sự.
Điều khoản thông thường: đó là các điều khoản mà các bên có thể thoả
thuận trong khi giao kết hợp đồng hoặc không thoả thuận. Các điều khoản này
đã được quy định trong luật, vì vậy nếu các bên không có những thoả thuận
trong hợp đồng khác với những quy định của pháp luật, thì những quy định
của pháp luật sẽ được áp dụng giao kết hợp đồng. Khi có tranh chấp sẽ căn cứ
vào những quy định của pháp luật để giải quyết.
Điều khoản tuỳ nghi: là những điều khoản nêu ra các phương thức khác
nhau để các bên tự lựa chọn hoặc những điều khoản luật không nêu các bên tự
thoả thuận trong khi giao kết hợp đồng.
Như vậy, có những điều khoản phải thoả thuận trong hợp đồng, quyết
định sự hình thành của hợp đồng nhưng lại có những điều khoản không nhất
thiết phải thoả thuận trong hợp đồng. Đối với phần vốn góp trong công ty
TNHH thì nội dung của định đoạt phần vốn góp bắt buộc phải có những nội
dung sau:
+ Bên được chuyển nhượng, tặng cho phần vốn góp. Tuỳ theo các hình
thức định đoạt phần vốn góp mà bên được chuyển quyền sở hữu phần vốn góp
có những đặc điểm khác nhau. Đối với việc định đoạt phần vốn góp thông qua
hình thức chuyển nhượng thì bên nhận chuyển nhượng phải là người có năng
lực hành vi và năng lực pháp luật dân sự đầy đủ. Còn đối với việc định đoạt

phần vốn góp qua hình thức tặng cho, để lại thừa kế theo di chúc thì người
nhận chuyển nhượng không đòi hỏi phải có năng lực hành vi và năng lực
pháp luật dân sự đầy đủ.
+ Đối tượng được định đoạt chính là phần vốn góp của thành viên trong
công ty TNHH.

24
+ Số lượng phần vốn góp được định đoạt dựa trên tỷ lệ giá trị phần vốn
góp trên tổng số vốn điều lệ của công ty.
Đây là những nội dung bắt buộc phải có trong việc định đoạt phần vốn
góp. Ngoài ra trong việc định đoạt phần vốn góp còn có các nội dung khác tuỳ
thuộc vào hình thức định đoạt phần vốn góp.
- Định đoạt phần vốn góp thông qua hình thức chuyển nhượng thì phải
có thêm những nội dung như:
+ Giá và phương thức thanh toán. Giá cả do các bên tự do thoả thuận.
Giá của phần vốn góp phụ thuộc rất nhiều vào tình hình hoạt động của công
ty. Vì người sở hữu phần vốn góp được hưởng rất nhiều quyền lợi với tư cách
là thành viên của công ty. Nếu công ty làm ăn có lãi thì giá trị phần vốn góp
sẽ được tăng lên, ngược lại nếu công ty làm ăn thua lỗ thì giá trị phần vốn góp
sẽ bị giảm xuống. Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác như
cung cầu… Về phương thức thanh toán các bên có thể thoả thuận thanh toán
bằng đồng Việt Nam, hoặc đồng ngoại tệ, bằng vàng …
+ Quyền và nghĩa vụ của mỗi bên: đây là nội dung không thể thiếu
trong hợp đồng, nó quyết định một hợp đồng có hình thành và thực hiện được
hay không.
1.4.2 Hiệu lực của định đoạt phần vốn góp
1.4.2.1 Hiệu lực đối các bên tham gia định đoạt phần vốn góp
Phần vốn góp là một tài sản vô hình. Tài sản này không chiếm hữu
được. Đó chỉ là quyền định giá được bằng tiền và không gắn liền với bất kỳ
vật cụ thể nào. Luật pháp Việt Nam gọi chung những tài sản vô hình đó là

quyền tài sản. Việc mua bán quyền tài sản được điều chỉnh bởi Điều 449 Bộ
luật dân sự và một số các quy định riêng tại luật chuyên ngành như Luật
doanh nghiệp, Luật đầu tư…

25
Giống như hợp đồng mua bán có đối tượng là một vật, hợp đồng
chuyển nhượng phần vốn góp được đặc trưng bởi bên chuyển nhượng có
nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu phần vốn góp cho bên nhận chuyển nhượng.
Đổi lại bên nhận chuyển nhượng phải trả một khoản tiền cho bên chuyển
nhượng (Điều 449 Bộ luật dân sự 2005).
Ta thừa nhận rằng nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu tài sản là nghĩa vụ
quan trọng nhất của bên chuyển nhượng trong hợp đồng chuyển nhượng. Thế
nhưng chỉ chừng đó nghĩa vụ liệu có đủ để đảm bảo cho quyền lợi của bên
giao kết còn lại của hợp đồng. Ở các hợp đồng mua bán có đối tượng là một
vật, người bán có nghĩa vụ cung cấp các thông tin cần thiết về tài sản, bảo
đảm chất lượng vật mua bán và bảo hành vật mua bán cho người mua.
Phần vốn góp như ta đã biết chỉ là một quyền tài sản - một tài sản vô
hình mà không thể nhận biết được bằng các giác quan tiếp xúc. Bên nhận
chuyển nhượng tự nhận định giá trị của phần vốn góp (có thể do họ tự thu
thập hoặc do bên chuyển nhượng cung cấp). Các thông tin này là những thông
tin đặc biệt, bởi vì có liên quan đến tình hình hoạt động của công ty phát hành
phần vốn góp, nhất là tình hình tài chính. Giả thiết rằng bên chuyển nhượng
đã cung cấp các thông tin không đầy đủ và trung thực cho bên nhận chuyển
nhượng, do đó dẫn đến việc bên nhận chuyển nhượng có sự nhầm lẫn về giá
trị của phần vốn góp. Thế thì, trong hoàn cảnh luật không quy định rằng cung
cấp thông tin và bảo đảm giá trị của phần vốn góp là nghĩa vụ của bên chuyển
nhượng thì bên nhận chuyển nhượng liệu có quyền yêu cầu đền bù thiệt hại
hoặc huỷ bỏ hợp đồng? Tất nhiên, bên nhận chuyển nhượng hoàn toàn có thể
bảo vệ quyền lợi của mình bằng cách ghi nhận các tình huống dự liệu này
thông qua các điều khoản ràng buộc một các rành mạch trong hợp đồng

chuyển nhượng. Nhưng nếu không có các điều khoản như thế, bên nhận
chuyển nhượng sẽ phải làm gì để bảo vệ lợi ích của mình. Liệu có thể áp dụng

26
tương tự pháp luật các quyền và nghĩa vụ của bên mua và bên bán trong hợp
đồng mua bán vật cho hợp đồng mua bán quyền tài sản.
Trong luật cộng hoà Pháp, người chuyển nhượng phần hùn và cổ phần
trong công ty có nghĩa vụ của người bán đối với người mua giống như các
hợp đồng mua bán vật hữu hình, đặc biệt là các nghĩa vụ bảo đảm về các
khuyết tật bị che dấu.
Đối với các tài sản hữu hình nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu của
bên bán cho bên mua được cho là hoàn thành khi bên bán giao cho bên mua (
đối với tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu) hoặc khi đăng ký quyền sở
hữu cho bên mua (đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu). Đối với tài sản
vô hình, thời điểm chuyển giao quyền sở hữu là thời điểm bên mua nhận được
giấy tờ xác nhận về quyền sở hữu đối với quyền về tài sản đó hoặc từ thời
điểm đăng ký việc chuyển giao quyền sở hữu (khoản 3 điều 449 Bộ luật dân
sự). Vấn đề là phần vốn góp thuộc loại tài sản nào: phải đăng ký quyền sở
hữu hay không phải đăng ký quyền sở hữu [2].
1.4.2.2 Hiệu lực đối với công ty
Hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp giữa các bên giao
kết chỉ phát sinh hiệu lực với công ty khi đăng ký vào sổ thành viên công ty
hoặc khi được cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư phê chuẩn (đối với phần
vốn góp trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Theo quy định tại
khoản 2 điều 33 nghị định số 88/2006/NĐ-CP của Chính phủ thì trong thời
hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày quyết định thay đổi, công ty phải gửi thông
báo đến Phòng đăng ký kinh doanh nơi công ty đã đăng ký kinh doanh. Kèm
theo thông báo phải có hợp đồng chuyển nhượng và các giấy tờ chứng thực đã
hoàn tất việc chuyển nhượng có xác nhận của công ty. Khi nhận được thông
báo, Phòng đăng ký kinh doanh trao giấy biên nhận và đăng ký thay đổi thành

viên trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ.

×