Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ trong Pháp luật Việt Nam Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 121 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TẠ THỊ THANH THỦY

GÓP VỐN KINH DOANH BẰNG TÀI SẢN TRÍ TUỆ
TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TẠ THỊ THANH THỦY

GÓP VỐN KINH DOANH BẰNG TÀI SẢN TRÍ TUỆ
TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành

: Luật kinh tế

Mã số

: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Quang

HÀ NỘI - 2012

2


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÀI SẢN TRÍ TUỆ VÀ

5

GĨP VỐN KINH DOANH BẰNG TÀI SẢN TRÍ TUỆ

1.1.

Một số vấn đề lý luận về tài sản trí tuệ

5


1.1.1.

Khái niệm tài sản trí tuệ

5

1.1.2.

Những đặc điểm chủ yếu của tài sản trí tuệ

9

1.1.3.

Giá trị của tài sản trí tuệ và những yếu tố ảnh hưởng tới giá
trị của tài sản trí tuệ

11

1.1.3.1. Giá trị của tài sản trí tuệ

11

1.1.3.2. Những yếu tố ảnh hưởng tới giá trị của tài sản trí tuệ

13

1.1.4.

Định giá tài sản trí tuệ


16

1.1.4.1. Phương pháp định giá tiếp cận thu nhập

17

1.1.4.2. Phương pháp định giá tiếp cận chi phí

17

1.1.4.3. Phương pháp định giá tiếp cận thị trường

19

1.2.

Pháp luật về góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ

20

1.2.1.

Khái niệm về vốn góp và góp vốn kinh doanh bằng tài sản
trí tuệ

20

1.2.1.1. Vốn góp kinh doanh bằng tài sản trí tuệ


20

1.2.1.2. Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ

23

3


1.2.2.

Quyền góp vốn bằng tài sản trí tuệ và đảm bảo của Nhà
nước đối với việc bỏ vốn tài sản trí tuệ đầu tư vào hoạt động
kinh doanh

25

1.2.3.

Ngun tắc góp vốn và định giá tài sản trí tuệ khi góp vốn

28

1.2.3.1. Nguyên tắc góp vốn

28

1.2.3.2. Nguyên tắc định giá tài sản trí tuệ khi góp vốn

29


1.2.4.

Chủ thể tham gia góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ

32

1.2.5.

Trách nhiệm pháp lý về những khoản nợ và chi phí trong
q trình hoạt động của doanh nghiệp

34

1.2.6.

Thời điểm góp vốn

38

1.2.7.

Chuyển dịch quyền sở hữu tài sản góp vốn

41

1.2.8.

Cấp giấy chứng nhận góp vốn và cổ phiếu


44

1.2.9.

Chuyển nhượng phần vốn góp

45

1.2.10.

Hợp đồng góp vốn

47

Chương 2:

49

THỰC TRẠNG GĨP VỐN KINH DOANH BẰNG TÀI
SẢN TRÍ TUỆ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1.

Một vài nét về hoạt động góp vốn kinh doanh bằng tài sản
trí tuệ trên thế giới

49

2.2.


Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ đã và đang diễn ra
tại Việt Nam nhưng cịn gặp rất nhiều trở ngại vì chưa có đủ
hành lang pháp lý

58

2.2.1.

Góp vốn bằng thương hiệu VINASHIN vào các doanh
nghiệp mới được thành lập

59

2.2.2.

Góp vốn bằng nhãn hiệu SƠNG ĐÀ tại các doanh nghiệp
mới được thành lập

65

2.2.3.

Góp vốn bằng cơng nghệ vào Cơng ty Liên doanh phân bón
Hữu Nghị

68

2.3.

Pháp luật góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ tại Việt


72

4


Nam hiện nay cịn nhiều bất cập
2.3.1.

Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ theo quy định của
Luật Doanh nghiệp và các văn bản dưới luật khác có liên quan

72

2.3.1.1. Khái niệm góp vốn

73

2.3.1.2. Thời điểm góp vốn

73

2.3.1.3. Tài sản góp vốn là quyền sở hữu trí tuệ

74

2.3.1.4. Định giá tài sản góp vốn là quyền sở hữu trí tuệ

75


2.3.1.5. Giấy chứng nhận tài sản góp vốn

78

2.3.2.

Góp vốn bằng tài sản trí tuệ theo quy định của Luật Sở hữu
trí tuệ và Bộ luật Dân sự

79

2.3.3.

Góp vốn bằng tài sản trí tuệ theo quy định của Luật Đầu tư

80

2.4.

Pháp luật định giá tài sản trí tuệ chưa hồn thiện là nguyên
nhân cản trở hoạt động góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ

81

2.5.

Về hệ thống pháp luật về hạch tốn kế tốn tài sản trí tuệ

88


Chương 3:

94

NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HỒN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ GĨP VỐN KINH DOANH BẰNG TÀI SẢN
TRÍ TUỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1

Hồn thiện hệ thống pháp luật về góp vốn kinh doanh bằng
tài sản trí tuệ

94

3.1.1.

Hồn thiện quy định về bảo đảm của Nhà nước đối với bỏ
vốn đầu tư vào hoạt động kinh doanh

94

3.1.2.

Hồn thiện quy định về thời điểm góp vốn

97

3.1.3.


Hồn thiện quy định tài sản góp vốn

98

3.1.3.1. Về khái niệm tài sản góp vốn

98

3.1.3.2. Điều kiện cần và đủ khi tài sản góp vốn là tài sản trí tuệ

99

3.1.4.

Thời điểm chuyển dịch quyền sở hữu tài sản và trách nhiệm
của người góp vốn

100

3.2.

Hồn thiện hệ thống pháp luật về định giá tài sản trí tuệ

102

5


3.3.


Hoàn thiện hệ thống pháp luật và các thiết chế kinh tế, xã hội

104

3.4.

Xây dựng chính sách nhằm phát triển giá trị của tài sản trí tuệ

105

KẾT LUẬN

108

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

109

6


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự

LDN

: Luật Doanh nghiệp


LĐT

: Luật Đầu tư

SHTT

: Sở hữu trí tuệ

TSCĐ

: Tài sản cố định

TSHH

: Tài sản hữu hình

TSTT

: Tài sản trí tuệ

TSVH

: Tài sản vơ hình

7


DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu
bảng

Tên bảng

Trang

2.1

Giỏ trị của 10 nhón hiệu hàng đầu thế giới theo Brandz
Top 100 - 2007

51

2.2

Bảng so sỏnh giỏ trị tài sản vụ hỡnh trờn tổng giỏ trị tài
sản của một số nước trờn thế giới năm 1966 và năm 2003

52

2.3

Giỏ trị của 10 nhón hiệu hàng đầu thế giới theo Brandz
Top 100 - 2010

53

8



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong bất cứ
lĩnh vực nào cũng đều gắn liền với vốn. Vốn là yếu tố đầu tiên và giữ vai trò
quan trọng và quyết định đối với một doanh nghiệp, khơng có vốn thì khơng
thể tiến hành sản xuất kinh doanh được. Doanh nghiệp muốn ra đời, tồn tại và
phát triển thì phải quan tâm đến vấn đề tạo lập vốn, quản lý, khai thác và sử
dụng đồng vốn sao cho có hiệu quả, nhằm đem lại nhiều lợi nhuận nhất.
Trước đây, tài sản đưa vào sử dụng làm vốn thường chỉ bao gồm tiền
tệ và vật chất. Tiến đến nền kinh tế hiện đại, nhiều quốc gia nhất là các quốc
gia phát triển đang hướng tới một nền kinh tế dựa trên tri thức (thông tin và
công nghệ), phạm trù vốn được hiểu với nghĩa rộng hơn không chỉ là tiền,
vàng, nhà xưởng, xe cộ... mà nó bao gồm cả tài sản vơ hình (TSVH), trong đó
có tài sản trí tuệ (TSTT). Ngày nay, việc góp vốn bằng giá trị quyền sở hữu trí
tuệ (SHTT) đã trở thành thơng lệ phổ biến trên thế giới bởi vai trò hết sức đặc
biệt của nó. TSTT ngày càng được thừa nhận là có vai trị quyết định đối với
sự phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Với các
doanh nghiệp, TSTT đóng vai trị như là thước đo hiệu quả kinh doanh, sức
cạnh tranh và khả năng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Bằng việc
xây dựng, phát triển và sở hữu các TSTT, uy tín và vị thế của doanh nghiệp
ln được củng cố và mở rộng; khả năng cạnh tranh, thị phần và doanh thu
của doanh nghiệp được nâng cao.
Tại Việt Nam, vấn đề góp vốn bằng TSTT cịn hết sức mới mẻ. Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 đã cho phép nhà đầu tư nước ngồi
góp vốn bằng TSVH này (Khoản 1 Điều 2). Tiếp đó, Luật Doanh nghiệp
(LDN) năm 2005 cũng như LĐT năm 2005 đều cho phép nhà đầu tư được
quyền góp vốn bằng giá trị quyền SHTT với tư cách là một loại TSVH để tiến


9


hành các hoạt động đầu tư, kinh doanh (Điều 4 LDN và Điều 3 Luật Đầu tư
(LĐT)). Tuy vậy, việc đưa TSTT vào hoạt động đầu tư bằng cách nào thì các
doanh nghiệp cịn hết sức lúng túng vì khơng biết phải làm gì. Xuất phát từ
nhận thức tầm quan trọng của giá trị quyền SHTT đối với doanh nghiệp cũng
như đối với nền kinh tế, do yêu cầu thực tế hiện nay trong việc sử dụng nguồn
vốn TSTT vào hoạt động kinh doanh, tác giả chọn nghiên cứu luận văn: "Góp
vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ trong pháp luật Việt Nam".
Khi lựa chọn nghiên cứu đề tài này, mong muốn của tác giả là mang
đến những thông tin nhất định để giúp các doanh nghiệp khai thác tốt hơn
nguồn vốn TSTT mà lâu nay còn đang bị bỏ ngỏ, đặc biệt là thơng qua hoạt
động góp vốn kinh doanh khi doanh nghiệp thành lập hoặc đang hoạt động,
thơng qua đó góp phần vào q trình sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm
pháp luật liên quan như Bộ luật Dân sự (BLDS), Luật SHTT, LDN, LĐT...
trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
TSTT có liên quan đến rất nhiều khía cạnh trong kinh doanh, vì vậy
nó đóng một vai trị quan trọng đối với doanh nghiệp. Hiện nay, góp vốn kinh
doanh bằng TSTT là một nhu cầu tất yếu giúp đưa vào khai thác, sử dụng
TSTT một cách có hiệu quả.
Tuy nhiên, pháp luật quy định về góp vốn kinh doanh bằng TSTT và
thực tiễn thực hiện góp vốn kinh doanh bằng TSTT như thế nào thì vẫn đang
là vấn đề được nhiều người quan tâm. Trong quá trình tìm kiếm thơng tin để
viết luận văn này, tơi chưa có may mắn được gặp bất kỳ cơng trình nghiên
cứu quy mơ hay cuốn sách nào viết về vấn đề này, chỉ có may mắn gặp được
một số bài báo tản mạn trên mạng Internet hoặc một số chuyên đề liên quan
như giá trị TSTT và định giá TSTT, và một số nghiên cứu nhỏ lẻ về góp vốn

bằng TSVH hay TSTT vì vấn đề đưa ra nghiên cứu cịn hết sức mới mẻ. Các

10


cơng trình nghiên cứu trên mới chỉ mang tính chất gợi mở, đi sâu vào nghiên
cứu một khía cạnh, lĩnh vực cụ thể chứ chưa đi vào nghiên cứu một cách tồn
diện, đầy đủ và có hệ thống vấn đề góp vốn kinh doanh bằng TSTT - một vấn
đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn làm sáng tỏ về mặt lý luận TSTT và góp vốn kinh doanh
bằng TSTT. Trên cơ sở các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện đề
xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động góp vốn kinh doanh
bằng TSTT.
Mục đích của đề tài được cụ thể hóa ở những nhiệm vụ nghiên cứu
sau đây:
- Nghiên cứu vấn đề lý luận về TSTT, giá trị của TSTT và những yếu
tố ảnh hưởng đến giá trị TSTT cũng như định giá TSTT.
- Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn
của hoạt động góp vốn kinh doanh bằng TSTT.
- Đánh giá những ưu, nhược điểm của các quy định hiện hành đối với
thực tiễn của hoạt động góp vốn kinh doanh bằng TSTT.
- Đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện các quy định pháp luật và
nâng cao hiệu quả góp vốn kinh doanh bằng TSTT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ luật học, tác giả tập trung nghiên
cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về TSTT; góp vốn kinh doanh bằng TSTT;
những quy định của pháp luật về góp vốn kinh doanh bằng TSTT và thực tiễn
của hoạt động góp vốn kinh doanh bằng TSTT, từ đó bước đầu đưa ra những
kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hơn nữa

hiệu quả của hoạt động góp vốn kinh doanh bằng TSTT.

11


5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phép biện chứng
của triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở cho q trình
nghiên cứu. Ngồi ra, các phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so
sánh, khảo sát, thu thập,… được sử dụng phù hợp với từng mặt, từng lĩnh vực
nghiên cứu của đề tài. Các quy định của Hiến pháp, BLDS, Luật SHTT, LDN,
LĐT…. có liên quan đến góp vốn kinh doanh bằng TSTT được sử dụng với
tư cách là cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý cho quá trình nghiên cứu.
6. Kết quả của luận văn
Luận văn nghiên cứu những vấn đề về lý luận chung về TSTT, góp vốn
kinh doanh bằng TSTT, pháp luật về góp vốn kinh doanh bằng TSTT và thực
tiễn hoạt động góp vốn kinh doanh bằng TSTT, đánh giá các quy định của pháp
luật hiện hành cũng như thực tiễn thực hiện, từ đó đưa ra các kiến nghị đồng bộ
cả về mặt lập pháp và tổ chức thực hiện nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động góp
vốn kinh doanh bằng TSTT thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Góp vốn kinh
doanh bằng TSTT là vấn đề thực tiễn đang diễn ra rất sôi động, tuy nhiên, hiện
nay chưa có bất kỳ một đề tài nào nghiên cứu về vấn đề này. Do đó, kết quả của
luận văn sẽ là nguồn tài liệu tham khảo rất hữu ích cho các nhà hoạch định chính
sách, các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp và những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tài sản trí tuệ và góp vốn kinh
doanh bằng tài sản trí tuệ.
Chương 2: Thực trạng góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ theo

pháp luật Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Những giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật về góp vốn
kinh doanh bằng tài sản trí tuệ ở Việt Nam.

12


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÀI SẢN TRÍ TUỆ
VÀ GĨP VỐN KINH DOANH BẰNG TÀI SẢN TRÍ TUỆ

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÀI SẢN TRÍ TUỆ

1.1.1. Khái niệm tài sản trí tuệ
Trước thập niên 90, khái niệm "tài sản" được nhiều người biết đến chỉ
bao gồm tiền tệ và vật chất. Trong nền kinh tế hiện đại, nhiều quốc gia nhất là
các quốc gia phát triển đang hướng tới một nền kinh tế dựa trên tri thức, khái
niệm này dần được thay đổi, "tài sản" không chỉ là tiền, vàng, nhà xưởng, xe
cộ... là những TSHH mà nó bao gồm cả TSVH, trong đó có TSTT.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mạnh mẽ như hiện
nay, TSTT nổi lên như một khái niệm mới và là một loại tài sản đặc biệt quan
trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, cho dù đó là nước phát
triển, đang phát triển hay là nước kém phát triển. Trong cuốn "Sở hữu trí tuệ một cơng cụ đắc lực để phát triển kinh tế" của Tiến sỹ Kamil Idris, Tổng giám
đốc Tổ chức SHTT thế giới (WIPO): "tài sản trí tuệ là thuật ngữ mơ tả những
ý tưởng, sáng chế, công nghệ, tác phẩm nghệ thuật, âm nhạc và văn học,
những cái vơ hình khi mới được tạo ra nhưng trở nên đáng giá dưới dạng sản
phẩm hữu hình" [50]. Như vậy, nếu hiểu theo khái niệm này, TSTT chính là
các sản phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, là các giải pháp công nghệ,
các ý tưởng kinh doanh, v.v...
Trong phạm vi quốc gia, pháp luật Việt Nam thừa nhận TSTT là một

loại tài sản gắn liền với các thành quả sáng tạo của con người. TSTT có thể là
sản phẩm sáng tạo khoa học, công nghệ (như các bí quyết kỹ thuật, sáng chế,
dữ liệu thử nghiệm, phần mềm máy tính, cơng trình nghiên cứu...), hoặc sản
phẩm sáng tạo văn học, nghệ thuật (như các tác phẩm văn học/ âm nhạc/ hội

13


họa/ mỹ thuật ứng dụng/ sân khấu/ điện ảnh, các sản phẩm liên quan như các
cuộc biểu diễn, trình diễn, các sản phẩm ghi âm/ghi hình...), hoặc sản phẩm
sáng tạo kinh doanh, thương mại (như bí mật thương mại, tên thương mại,
nhãn hiệu hàng hóa/dịch vụ, tên miền...). Như vậy, một khi TSTT được luật
hóa, nghiễm nhiên tài sản đó trở thành những tài sản cụ thể và được pháp luật
bảo vệ mặc dù đây là những TSVH. Mặc dù các TSTT là các sản phẩm sáng
tạo trí tuệ mang bản chất vơ hình nhưng có khả năng lan truyền khơng có giới
hạn và quan trọng hơn có thể do nhiều người cùng chiếm hữu. Hơn thế, TSTT
với khả năng vật chất hóa vơ tận, thường mang lại những giá trị vơ cùng to
lớn, do đó rất dễ bị sao chép hoặc bắt chước. Trong khi đó, việc khuyến khích
hoạt động sáng tạo, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, thúc đẩy cạnh tranh
lành mạnh là những mục tiêu ln đồng hành cùng với chính sách phát triển
tổng thể của một quốc gia, do đó việc bảo vệ các TSTT đương nhiên là một
việc làm cần thiết nếu không muốn nói là đặc biệt quan trọng để đảm bảo các
mục tiêu đó. Cùng với q trình phát triển của văn hóa, khoa học, kỹ thuật,
kinh tế, người ta dần dần cũng cụ thể hóa được một cách tổng thể các TSTT
gồm những tài sản gì, đó chính là các tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật,
sáng chế, kiểu dáng cơng nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, tên
thương mại, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh và quyền chống
cạnh tranh khơng lành mạnh...
Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có bất kỳ một văn bản nào quy định
khái niệm TSTT mặc dù thuật ngữ này đã được sử dụng phổ biến trong các văn

bản pháp luật cũng như trong đời sống thực tế. BLDS năm 2005 mới đưa ra
khái niệm tài sản nói chung bằng cách liệt kê các hình thái biểu hiện của nó là
"tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [34, Điều 163],
trong đó "Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao
trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ" [34, Điều 181]. Luật SHTT
năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT năm 2009 chỉ
đưa ra khái niệm quyền SHTT "là quyền của các tổ chức cá nhân đối với

14


TSTT, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở
hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng" [39, Điều 4.1], tuy nhiên
lại không quy định thế nào là TSTT. Mặc dù khái niệm quyền SHTT được
định nghĩa thông qua khái niệm TSTT nhưng khái niệm về TSTT lại được
hiểu thông qua các khái niệm về quyền SHTT, trong đó quyền SHTT bao
gồm: quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công
nghiệp và quyền đối với giống cây trồng, theo đó:
- Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do
mình sáng tạo ra hoặc sở hữu;
- Quyền liên quan đến quyền tác giả (còn gọi là quyền liên quan) là
quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình,
chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa;
- Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với
sáng chế, kiểu dáng cơng nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn
hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra
hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh;
- Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với
giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được
hưởng quyền sở hữu.

Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 04 khơng có khái niệm TSTT, nhưng
có nêu TSCĐ vơ hình là "tài sản khơng có hình thái vật chất nhưng xác định
được giá trị và do doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong sản xuất, kinh doanh,
cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu chuẩn
ghi nhận TSCĐ vơ hình" [3, Mục 06]. Theo đó, các loại TSTT là một bộ
phận của TSCĐ vơ hình, được ghi nhận theo chuẩn mực kế toán Việt Nam
bao gồm:
▪ Bản quyền, bằng sáng chế: Phản ánh giá trị TSCĐ vơ hình là các chi
phí thực tế chi ra để có bản quyền tác giả, bằng sáng chế.

15


▪ Nhãn hiệu hàng hóa: Phản ánh giá trị TSCĐ vơ hình là các chi phí
thực tế liên quan trực tiếp tới việc mua nhãn hiệu hàng hóa.
▪ Phần mềm máy vi tính: Phản ánh giá trị TSCĐ vơ hình là tồn bộ
các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có phần mềm máy vi tính.
▪ ...
Theo Thông tư số 203/2009/TT-BTC ngày 20/10/2009 về hướng dẫn
chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định cũng khơng giải
thích thế nào là TSTT mà nêu ra định nghĩa TSCĐ hữu hình và TSCĐ vơ
hình, trong đó đã liệt kê TSTT là một bộ phận của TSCĐ vơ hình:
Tài sản cố định vơ hình là những tài sản khơng có hình thái
vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư thỏa mãn các
tiêu chuẩn của tài sản cố định vơ hình, tham gia vào nhiều chu kỳ
kinh doanh, như một số chi phí liên quan trực tiếp tới đất sử dụng;
chi phí về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản
quyền tác giả... [7, Khoản 2 Điều 2].
Như vậy, theo nghĩa rộng, chúng ta có thể hiểu: TSTT là một loại đặc
biệt của TSVH, đây là tài sản do trí tuệ con người sáng tạo ra thông qua các

hoạt động tư duy, sáng tạo trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn
học và nghệ thuật, không thể xác định được bằng các đặc điểm vật chất của
chính nó nhưng lại có giá trị vì có khả năng sinh ra lợi nhuận và thường
được pháp luật bảo vệ khỏi sự sử dụng trái thẩm quyền. Theo nghĩa hẹp có
thể hiểu TSTT gồm: các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; các
chương trình biểu diễn, các bản ghi âm và các chương trình phát sóng; các
sáng chế; các kiểu dáng cơng nghiệp; các bí mật kinh doanh; các nhãn hiệu;
bản quyền, bằng sáng chế, bí quyết thương mại, bí quyết kinh doanh; chỉ
dẫn địa lý; tên thương mại; giống cây trồng mới; thiết kế bố trí mạch tích
hợp bán dẫn...

16


1.1.2. Những đặc điểm chủ yếu của tài sản trí tuệ
TSTT là tài sản mang tính chất vơ hình, được thể hiện ra bằng những
lợi ích kinh tế. Chúng khơng có cấu tạo vật chất mà tạo ra những quyền và
những ưu thế và giá trị thu nhập cho người sở hữu chúng. TSTT có đặc điểm
chủ yếu sau:
Một là tính sáng tạo, đổi mới. Mỗi một TSTT là một sản phẩm của
hoạt động sáng tạo (như một tác phẩm, một sáng chế hay một kiểu dáng công
nghiệp), là một thực thể hoàn toàn mới hoặc là một thực thể đã biết nhưng
được bổ sung cái mới, trên cơ sở nền tảng thơng tin, tri thức được tích lũy từ
trước. Các TSTT ln chứa đựng trong đó lao động sáng tạo của con người
chứ không phải là sản phẩm sao chép của người khác. Tính mới là nét đặc
trưng của sản phẩm trí tuệ, buộc các tác giả của sản phẩm trí tuệ (một sáng
chế, một kiểu dáng mới, một sáng tác mới hoặc một tác phẩm văn học, khoa
học, nghệ thuật…) phải động não nhiều để làm ra và phải làm được trước
những người khác. Trên thực tế rất hay xảy ra tranh chấp về tính mới.
Hai là tính vơ hình. TSTT tồn tại chủ yếu dưới dạng thơng tin, tri thức

(khơng có bản chất vật chất), do đó không thể nhận biết được sự tồn tại của tài
sản này bằng giác quan của con người mà chỉ bằng nhận thức (thơng qua q
trình tự nhận thức hoặc truyền thụ). Sự bùng nổ của khoa học kỹ thuật, sự
cạnh tranh quyết liệt trên thương trường và những yếu tố khác có thể dẫn đến
tăng/giảm nhanh chóng giá trị của một TSTT như sáng chế, kiểu dáng, nhãn
hiệu... và ngược lại. Ví dụ, sự xuất hiện một số loại xe có kiểu dáng giống hệt
xe DREAM II của hãng HONDA, như DEALIM, LIFAN, HONGDA,… do
Hàn Quốc và Trung Quốc sản xuất trên thị trường nhằm lợi dụng uy tín đã đạt
được của hãng HONDA đã gây thiệt hại không nhỏ đến thị phần và lợi nhuận
của hãng này.
Ba là tính xác định được. Mặc dù TSTT tồn tại vơ hình nhưng con
người vẫn có khả năng nhận biết và xác định được TSTT. Sở dĩ như vậy vì

17


TSTT ln được thể hiện dưới một hình thức vật chất xác định (mơ tả, liệt kê,
cơng thức, hình vẽ, ảnh...). Đồng thời, mỗi TSTT là một đối tượng tồn tại độc
lập, có nội dung/bản chất xác định, có chức năng, cơng dụng, ý nghĩa xác
định, thậm chí có giá trị xác định. Theo hướng dẫn của Ủy ban chuẩn mực kế
toán quốc tế (Financial Accounting Standards Board - FASB), một TSVH
được coi là có thể xác định được khi:
- Có thể tách rời (có khả năng tách rời, bán, tặng cho, cho thuê, trao
đổi, cấp lisence,... một cách riêng biệt hoặc là một phần của một gói). Hoặc
- Hình thành thông qua hợp đồng hoặc những quyền hợp pháp khác,
bất kể là quyền này có thể được chuyển giao hoặc có thể được tách rời từ một
phần độc lập hoặc từ những quyền và nghĩa vụ khác.
Bốn là tính kiểm sốt được. Do TSTT có khả năng được vật chất hóa
nên trở thành đối tượng chịu sự tác động có chủ đích của con người như khai
thác/sử dụng, duy trì, cất giữ, phát triển, mua bán, trao đổi, cho thuê, góp vốn,

chuyển nhượng,..., nhằm mang lại kết quả nhất định, trong đó quan trọng nhất
là tạo ra giá trị. Một TSTT thường là kết quả của một quá trình đầu tư sức lực,
thời gian và tiền bạc nên khả năng kiểm soát TSTT xuất phát từ các quyền
pháp lý của chủ sở hữu TSTT được pháp luật bảo vệ. Ví dụ, chủ sở hữu của
một sáng chế có quyền thu lợi ích kinh tế từ sáng chế đó và có quyền hạn chế
sự tiếp cận của các đối tượng khác với lợi ích mà sáng chế đó mang lại.
Năm là tính sinh lợi. Do có bản chất tài sản, các TSTT đều có khả
năng sinh lợi (tạo ra giá trị), nghĩa là khi được khai thác, sử dụng, mua bán,
cho thuê, trao đổi, góp vốn, TSTT có khả năng mang lại thu nhập bằng tiền
hoặc bằng tài sản khác cho người kiểm sốt tài sản đó. Ví dụ: Năm 2003,
Unilever đã thương lượng được với Cơng ty hóa phẩm P/S trong việc
chuyển nhượng nhãn hiệu kem đánh răng P/S với giá 5,3 triệu US để có cơ
hội sở hữu trên 65% thị phần kem đánh răng mà nhãn hiệu P/S đã thiết lập
được trước đó.

18


Sáu là thời gian sử dụng hữu ích của một TSTT thường là một đại
lượng biến đổi, không cố định, có thể dài ngắn khác nhau, nhưng khơng phải
là vơ hạn định. Sản phẩm trí tuệ, ngồi các tác phẩm văn chương hay nghệ
thuật, các sản phẩm khác có tính thời gian, vì khoa học kỹ thuật ngày nay biến
đổi rất nhanh. Việc quy định bảo hộ độc quyền có thời hạn cho các sản phẩm
trí tuệ chính là động lực khuyến khích phát triển trong cuộc chạy đua cải tiến
công nghệ. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một cuộc đua khơng
có đích cuối cùng và khơng có người chiến thắng mãi mãi. Một nhãn hiệu
ngày hôm nay được khách hàng ưa chuộng, nhưng ngày mai có thể nó phải
nhường lại sự ưa thích đó cho nhãn hiệu khác. Ngay cả những nhãn hiệu đã
rất nổi tiếng trên thị trường nhiều năm như "Coca Cola", "Honda" một ngày
nào đó cũng có thể bị nhãn hiệu khác thay thế. Hoặc thí dụ như các phần mềm

máy tính Word Perfect hay Fox-Pro, trước đây được sử dụng khá rộng rãi
nhưng đến nay chỉ cịn rất ít người sử dụng vì đã có những phần mềm khác
như Microsoft Word và Microsoft Excel tiện lợi hơn ra đời cạnh tranh khiến
các nhà sản xuất và kinh doanh phần mềm trên gặp rất nhiều khó khăn. Trái
lại, Bill Gate chủ tịch tập đồn Microsoft là người sở hữu tác quyền Window
thơng dụng trên hầu hết các máy vi tính hiện nay đã trở thành người giàu nhất
thế giới.
1.1.3. Giá trị của tài sản trí tuệ và những yếu tố ảnh hưởng tới giá
trị của tài sản trí tuệ
1.1.3.1. Giá trị của tài sản trí tuệ
Theo Các Mác, hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị.
Trong đó, "giá trị sử dụng là cơng dụng của hàng hóa để thỏa mãn một nhu
cầu nào đó của con người, cịn giá trị của hàng hóa được xác định ở mặt chất
và lượng" [25]. Nếu hiểu giá trị của TSTT như một loại hàng hóa, về mặt chất
sẽ là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong TSTT đó, về mặt
lượng là tổng thời gian lao động đã hao phí để sản xuất ra TSTT đó.

19


Theo quan điểm của kinh tế học hiện đại, TSTT chính là một thứ
TSVH được hình thành qua q trình đầu tư cơng sức và tiền của, có thể mua
bán được, và hồn tồn có thể xác định được giá trị. Cho dù TSTT là TSVH
nhưng nguyên tắc xác định giá trị của chúng vẫn có thể tiến hành được dựa
trên cơ sở chi phí. Theo nguyên tắc này, giá trị của loại TSVH này được phản
ánh trong báo cáo kế tốn của doanh nghiệp theo chi phí mà doanh nghiệp đã
chi ra để có được các tài sản đó.
Ủy ban tiêu chuẩn và thẩm định giá quốc tế (International Valuation
Standards Courcil, viết tắt là IVSC) đã đưa ra khái niệm giá trị như sau: "Giá trị
là số tiền ước tính của hàng hóa và dịch vụ tại một thời điểm nhất định" [25].

Thuật ngữ giá trị (value) theo quan điểm của IVSC là thuật ngữ mang tính giả
thiết, khơng có trên thực tế mà là mức giá dự tính của người mua, người bán
hàng hóa và dịch vụ tại một thời điểm nhất định. Giá trị thể hiện mức giá dự
tính sẽ được chấp nhận trong một cuộc giao dịch và giá trị thị trường thể hiện
mức giá cả dự tính sẽ được chấp nhận trong một cuộc giao dịch bình đẳng.
Hơn nữa, chúng ta cũng cần chú ý rằng giá trị theo khái niệm của
IVSC được định giá bằng một vật ngang giá, đó là tiền. Việc được ước tính
bằng tiền sẽ cho thấy một cách dễ dàng hơn giá trị của hàng hóa, đồng thời dễ
dàng cho việc tiến hành các giao dịch trên thị trường.
- Giá cả (price) là số tiền được yêu cầu, được đưa ra hoặc được trả cho
một hàng hóa hoặc dịch vụ nhất định.
- Chi phí (Cost) là mức giá được trả cho hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc
là một số tiền cần có để tạo ra hoặc để sản xuất ra hàng hóa hoặc dịch vụ. Khi
hàng hóa hoặc dịch vụ đã được hồn tất thì chi phí của hàng hóa hoặc dịch vụ
đó trở thành một thực tế lịch sử và được gọi là giá gốc. Mức giá được trả để
có được hàng hóa dịch vụ đó trở thành chi phí đối với người mua [22].
Dựa trên các định nghĩa của IVSC ta có thể suy ra các khái niệm giá
trị và giá cả sau đối với TSTT:

20


Giá trị của TSTT (Value of intellectual assets) là số tiền ước tính của
TSTT đó ở tại một thời điểm nhất định.
Giá cả của TSTT (Price of intellectual assets) là số tiền được yêu cầu,
được đưa ra hoặc được trả cho một TSTT nhất định.
Chi phí của TSTT (Cost of intellectual assets) là số tiền cần có để tạo
ra TSTT đó.
Như vậy, có thể khái quát là giá trị TSTT là giá trị của lợi ích kinh tế
trong tương lai của TSTT được xác định vào thời điểm hiện tại, được biểu

hiện dưới hình thức giá cả.
1.1.3.2. Những yếu tố ảnh hưởng tới giá trị của tài sản trí tuệ
Chúng ta đã biết giá trị, giá cả, chi phí của TSTT là gì, nhưng khi xem
xét trên thị trường, có thể dễ dàng nhận thấy là giá trị của từng TSTT là khác
nhau. Liên quan đến giá trị của TSTT, chúng ta cũng cần tìm hiểu các yếu tố
ảnh hưởng tới giá trị của TSTT. Qua thực tế cho thấy, các nhân tố sau đây có
ảnh hưởng tới giá trị của TSTT:
- Tính hữu ích:
Tính hữu ích của TSTT thể hiện khả năng làm thỏa mãn nhu cầu của
người sử dụng tài sản đó hay nói cách khác thể hiện giá trị sử dụng của hàng
hóa là TSTT [22]. Tính hữu ích chính là một thuộc tính cơ bản tạo nên giá trị
của TSTT, nếu khơng tồn tại tính hữu ích, tức nó khơng mang lại lợi ích gì
cho con người thì tài sản đó khơng thể coi là có giá trị. TSTT sẽ chỉ có giá trị
khi nó làm thỏa mãn một nhu cầu nào đó của con người khi sử dụng tài sản
đó, hay nói cách khác là nó có tính hữu ích.
Tính hữu ích của TSTT thể hiện ở chỗ nó tạo ra những lợi ích nhất
định cho người sở hữu hoặc người sử dụng đó. Tài sản càng có tính hữu ích
cao, tức là càng sinh ra nhiều lợi ích cho người sử dụng thì giá trị càng cao, và
ngược lại, giá trị của TSTT sẽ thấp khi nó chỉ tạo ra được một số ít các lợi ích

21


cho người sử dụng. Nói theo cách khác, giá trị của một TSTT cao hay thấp
một phần do giá trị những lợi ích mà nó tạo ra. Tuy nhiên, tính hữu ích chỉ là
một trong các yếu tố ảnh hưởng tới giá trị, khơng có các thuộc tính khác như
tính có nhu cầu hay tính khan hiếm, tính có thể chuyển giao thì cũng sẽ bị coi
là khơng có giá trị.
- Tính khan hiếm:
Tính khan hiếm của TSTT có thể hiểu như tác động của yếu tố cung

tài sản đối với thị trường ở hiện tại và tương lai. Trong trường hợp các yếu tố
khác không đổi, cung tài sản khi cao hơn cầu trên thị trường sẽ tạo ra sự vượt
cung, thừa tài sản trên thị trường và chưa tạo ra sự khan hiếm, khi cung bằng
với cầu sẽ không tạo ra khan hiếm vào thời điểm hiện tại mà có thể là trong
tương lai, và tất nhiên khi cung thấp hơn cầu sẽ xuất hiện sự thiếu trên thị
trường và khi đó tạo ra sự khan hiếm, điều này sẽ đẩy cho giá TSTT lên cao.
Nếu như mọi yếu tố khác như nhau thì giá trị khác nhau là kết quả của sự thay
đổi mức khan hiếm của các hàng hóa dịch vụ trên thị trường.
Ví dụ, cơng ty A là công ty chuyên bán phần mềm kế toán dành cho
quản trị doanh nghiệp, và phần mềm của cơng ty A là phần mềm duy nhất có
trên thị trường, khơng có đối thủ cạnh tranh, khi đó các cơng ty khác muốn
mua phần mềm kế tốn bắt buộc phải mua của cơng ty A, khi đó cơng ty A có
thể đẩy giá lên một mức cao hợp lý để nhằm kiếm nhiều lợi nhuận. Nhưng
nếu trên thị trường có các cơng ty khác cũng có khả năng cung cấp những
phần mềm kế tốn với cơng dụng tương đương với phần mềm của công ty A,
sự khan hiếm được giảm xuống, khi đó cơng ty A sẽ buộc phải giảm giá của
phần mềm để có thể cạnh tranh.
- Tính có u cầu:
Tính có u cầu của TSTT có thể hiểu như sự tác động của yếu tố cầu
của thị trường lên giá trị của TSTT. Trong trường hợp mà các yếu tố khác
khơng đổi, thì cầu càng cao tất nhiên sẽ dẫn tới giá của tài sản cũng càng cao.

22


Tính có u cầu của TSTT thể hiện nhu cầu của các khách hàng trên thị
trường đối với TSTT, và khả năng kinh tế có thể của khách hàng để chi trả
cho TSVH này.
Một ví dụ điển hình là: Năm 1995, J.K.Rowling gửi bản thảo cuốn
truyện Harry Porter đầu tiên để xuất bản và cuốn truyện bị 12 nhà xuất bản từ

chối. Sau đó nhà xuất bản Bloomsbury đã đồng ý xuất bản cuốn truyện này và
trả cho Rowling 1500 £ tiền bản quyền. Sau 12 năm, sáu tập Harry Porter đã
được dịch ra 65 ngôn ngữ và 325 triệu bản đã tạo nên một cơn sốt trong văn
hóa đọc của thế giới và Rowling trở thành người giàu hơn nữ hồng Elizabeth II.
- Tính có thể chuyển giao được:
Tính có thể chuyển giao thể hiện sự chuyển giao quyền sở hữu, quyền
kiểm soát TSTT từ chủ thể này sang chủ thể khác. Phương thức chuyển giao
có thể là riêng biệt hoặc từng phần. Đây cũng là một đặc tính quan trọng ảnh
hưởng tới giá trị của TSTT bởi nếu có tính hữu ích, tính khan hiếm, tính có
u cầu mà khơng thể chuyển giao được thì cũng khơng thể coi là tài sản.
Việc chuyển giao TSTT giữa các thủ thể thường được thực hiện thơng qua
một hợp đồng, ví dụ: Hợp đồng chuyển giao quyền SHTT về công nghệ, về
nhãn hiệu hàng hóa hoặc về bản quyền… Trong hợp đồng chuyển giao quyền
SHTT ghi nhận sự thỏa thuận hợp tác giữa một bên là chủ sở hữu quyền
SHTT (bên chuyển giao quyền SHTT) và một bên thứ hai để có được quyền
sử dụng các quyền đó (bên được chuyển giao quyền SHTT) bằng việc trả một
khoản tiền theo thỏa thuận (phí hoặc tỷ lệ phí chuyển giao quyền SHTT). Tuy
nhiên, một hợp đồng chuyển giao quyền SHTT chính thức chỉ có thể thực
hiện nếu quyền SHTT mà doanh nghiệp muốn chuyển giao quyền SHTT cũng
được bảo hộ tại một nước hoặc các nước khác có liên quan đến doanh nghiệp.
Nếu quyền SHTT không được bảo hộ tại các nước đó thì khơng chỉ khơng thể
chuyển giao quyền SHTT mà cũng khơng có quyền cấm người khác sử dụng
quyền đó.

23


1.1.4. Định giá tài sản trí tuệ
Định giá TSTT là cơ sở để thực hiện các hoạt động góp vốn kinh
doanh bằng TSTT cũng như nhiều hoạt động kinh tế khác đối với TSTT như

chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng TSTT, sáp nhập và mua lại
doanh nghiệp, cổ phần hóa, phát hành cổ phiếu, vay vốn, giải quyết tranh
chấp... Định giá tài sản nói chung có thể được hiểu là việc đánh giá giá trị
của tài sản phù hợp với thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định.
Định giá tài sản là việc tư vấn, định các mức giá cụ thể cho từng loại tài sản
làm căn cứ cho các hoạt động giao dịch mua, bán tài sản, hàng hóa, dịch vụ
đó trên thị trường. Đối với các loại tài sản, hàng hóa, dịch vụ do nhà nước
định giá (các cơ quan có thẩm quyền quy định) thì các mức giá cụ thể của
từng loại tài sản, hàng hóa mang tính bắt buộc mọi đối tượng tham gia hoạt
động giao dịch, mua bán phải thực hiện. Đối với các tài sản, hàng hóa, dịch
vụ khơng thuộc danh mục Nhà nước định giá thì do các tổ chức, cá nhân tự
định giá theo quy luật thị trường làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch mua
bán, trao đổi.
Theo Tiến sĩ Robert Pikethly, Senior Member Oxford Intellectual Property
Research Centre, "định giá một tài sản trí tuệ liên quan tới việc đưa ra quyết định
về tương lai giống như việc mức giá thị trường cổ phiếu do nhà đầu tư quyết
định trên cơ sở hiệu quả kinh doanh trong tương lai của công ty" [Dẫn theo 47].
Do đó, định giá TSTT được hiểu là việc ước tính giá trị thị trường của TSTT
như sáng chế, nhãn hiệu,..., trong đó, giá trị thị trường của TSTT là sự tính
tốn thu nhập tiềm năng của sản phẩm hoặc dịch vụ sử dụng TSTT đó. Tóm
lại, giá trị của TSTT được xác định bởi lợi ích kinh tế trong tương lai do
TSTT đó mang lại được quy đổi về thời điểm hiện tại. Quan niệm này phù
hợp với định nghĩa của tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam "Thẩm định giá là
việc đánh giá hoặc đánh giá lại giá trị của tài sản phù hợp với thị trường tại
một địa điểm, thời điểm nhất định theo tiêu chuẩn của Việt Nam hoặc thơng
lệ quốc tế" [46, Điều 4]. Theo đó, giá trị mà hoạt động định giá hướng tới là

24



giá trị thị trường của TSTT, tức là mức giá ước tính sẽ được mua bán trên thị
trường vào thời điểm định giá, giữa một bên là người mua sẵn sàng mua và
một bên là người bán sẵn sàng bán, trong một giao dịch mua bán khách quan
và độc lập, trong điều kiện thương mại bình thường.
Hiện nay, việc định giá TSTT người ta có áp dụng một số phương
pháp định giá TSTT khác nhau. Mỗi phương pháp có những ưu, nhược điểm
riêng và một số phương pháp có tính áp dụng cao hơn các phương pháp khác
trong các trường hợp/vụ việc cụ thể.
1.1.4.1. Phương pháp định giá tiếp cận thu nhập
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất. Theo phương pháp
này, việc tính tốn giá trị của TSTT dựa trên bản chất của TSTT và được đánh
giá trên cơ sở lợi ích kinh tế mà tài sản đó mang lại trong quá khứ, hiện tại
hoặc dự kiến tạo ra lợi ích kinh tế trong tương lai. Về cơ bản, phương pháp
này tập trung vào nguồn thu nhập ước tính mà chủ thể quyền SHTT mong
muốn nhận được trong thời gian hiệu lực của văn bản bảo hộ quyền SHTT. Vì
vậy, phương pháp này sử dụng chiết khấu nguồn tiền mặt được tạo ra giá trị
hiện tại cho thu nhập tương lai. Có hai phương pháp ứng dụng cách tiếp cận
này là phương pháp phân tích dịng tiền chiết khấu (DCF) và phương pháp
vốn hóa thu nhập. Theo Bộ Tiêu chuẩn hướng dẫn định giá quốc tế đối với
việc định giá TSVH do Hội đồng tiêu chuẩn định giá quốc tế (IVSC) cơng bố
năm 2009 thì phương pháp tiếp cận thu nhập được khuyến nghị áp dụng do
cách tiếp cận này cho kết quả đáng tin cậy hơn các cách tiếp cận khác.
1.1.4.2. Phương pháp định giá tiếp cận chi phí
Phương pháp tiếp cận chi phí dựa trên quan điểm đơn giản rằng một
tài sản không thể đánh giá nhiều hơn chi phí để thay thế một tài sản khác có
cơng dụng tương đương. Theo phương pháp này, giá để có được hoặc phát
triển một tài sản mới cần tương xứng với những lợi ích kinh tế sẽ được tạo ra
từ nó. Phương pháp này được sử dụng để ước tính các lợi ích trong tương lai

25



×