Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Pháp luật quản lý thuế và vấn đề thực thi trong lĩnh vực hải quan Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (772.65 KB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐOÀN MẠNH HẢI

Pháp luật quản lý thuế và vấn đề thực thi
trong lĩnh vực hải quan

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT

HÀ NỘI, 2010


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thời gian qua, thực hiện chính sách đổi mới và hội nhập sâu kinh tế quốc
tế, hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến các sắc thuế đã đƣợc ban hành
tƣơng đối đồng bộ, phạm vi điều chỉnh toàn diện, quy định về thủ tục theo hƣớng
đơn giản, minh bạch. Trong quá trình thực thi, vƣớng mắc phát sinh thƣờng
xuyên đƣợc xem xét tháo gỡ, nội dung không phù hợp, còn thiếu đƣợc chú trọng
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung. Cho nên, ý thức tuân thủ pháp luật của ngƣời nộp
thuế ngày càng đƣợc nâng cao; vai trò của cơ quan quản lý thuế, công chức quản
lý thuế và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan cũng từng bƣớc đƣợc tăng
cƣờng.
Bên cạnh những ƣu điểm nêu trên, pháp luật quản lý thuế, trong đó có
quản lý các loại thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, còn bộc lộ những hạn chế
và chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu điều chỉnh một cách hữu hiệu nhất mọi quan hệ
phát sinh nhƣ: các quy định đƣợc ghi nhận một cách dàn trải, tản mạn trong từng
Luật thuế và chủ yếu ở văn bản dƣới luật; cùng một vấn đề thủ tục nhƣng giữa
các văn bản lại có sự khác nhau, do đó gây khó khăn cho việc hiểu và áp dụng
thống nhất; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể và cơ chế đảm bảo thực hiện chƣa


đầy đủ, rõ ràng…
Sự ra đời của Luật Quản lý thuế năm 2006, với các điểm mới căn bản đã
khắc phục đƣợc những hạn chế này. Cụ thể: Luật Quản lý thuế tạo lập đƣợc
khung pháp lý chung để thực thi hiệu quả công tác quản lý các loại thuế, các
khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nƣớc; xóa bỏ tình trạng chia cắt, tách biệt
phƣơng thức quản lý giữa các loại thuế, phí, lệ phí; làm nền tảng cho việc áp
dụng một cơ chế quản lý thuế tiên tiến; đề cao quyền, đồng thời xác định rõ trách
nhiệm của ngƣời nộp thuế, cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế, cũng
nhƣ cơ quan nhà nƣớc, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc thực hiện
pháp luật về thuế.
Trong lĩnh vực hải quan, Luật Quản lý thuế còn có tác động tích cực là
thúc đẩy nhanh tiến trình cải cách thủ tục hành chính; nâng cao hiệu lực của hệ

1


thống pháp luật quản lý thuế liên quan đến hàng hố xuất nhập khẩu; làm thay
đổi diện mạo cơng tác quản lý thuế của ngành hải quan theo hƣớng hiện đại hóa,
phù hợp với cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thƣơng mại thế giới
(WTO) và thông lệ quốc tế.
Tuy nhiên, cũng chính từ sự ra đời của Luật Quản lý thuế và các văn bản
hƣớng dẫn thi hành mà hàng loạt quy định về trình tự, thủ tục, cơ chế, thẩm
quyền, thời hiệu… ngành Hải quan đang áp dụng phải đƣợc sửa đổi hoặc ban
hành mới; cần một khoảng thời gian nhất định cho sự chuyển biến thực sự trong
nhận thức và tác nghiệp của ngƣời nộp thuế cũng nhƣ cơ quan hải quan, công
chức hải quan; nhanh chóng trang bị đầy đủ, đồng bộ cơ sở vật chất kỹ thuật để
đáp ứng yêu cầu xây dựng dữ liệu thông tin tổng hợp và vận hành một cách hiệu
quả kỹ thuật quản lý rủi ro.
Hiện đang công tác trong ngành Hải quan, đồng thời là học viên của Lớp
cao học Luật Khóa 12, chuyên ngành Luật Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội,

khi lựa chọn đề tài luận văn: “Pháp luật quản lý thuế và vấn đề thực thi trong
lĩnh vực hải quan”, tôi muốn sử dụng kiến thức đã đƣợc học và kinh nghiệm
của bản thân để góp phần nghiên cứu một cách tồn diện, thấu đáo, dƣới cả giác
độ lý luận cũng nhƣ thực tiễn về thực trạng pháp luật quản lý thuế và vấn đề thực
thi trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam hiện nay.
Trƣớc tiên, kết quả nghiên cứu sẽ góp phần xác định tính đồng bộ giữa
luật thủ tục và luật nội dung liên quan đến các loại thuế đối với hàng hóa xuất
nhập khẩu.
Thứ hai, kết quả nghiên cứu sẽ làm rõ việc đổi mới hiệu quả phƣơng thức
quản lý thuế trong lĩnh vực hải quan từ chuyên quản, ngƣời nộp thuế thụ động
thực hiện nghĩa vụ, sang cơ chế ngƣời nộp thuế chủ động tính thuế, nộp thuế đủ,
đúng thời hạn, cũng nhƣ có thể tự xác định các ƣu đãi, quyền lợi về thuế. Cơ
quan hải quan, công chức hải quan tập trung vào việc tuyên truyền, phổ biến,
hƣớng dẫn pháp luật về thuế, kiểm tra, thanh tra, quản lý sự tuân thủ. Qua đó, cơ
quan hải quan và công chức hải quan sẽ tiệm cận đƣợc một cách tối đa phƣơng
châm “Thuận lợi - Tận Tuỵ - Chính xác” mà Tổ chức Hải quan thế giới (WCO)
đƣa ra.

2


2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Trƣớc ngày 22/11/2006 - thời điểm Luật Quản lý thuế năm 2006 đƣợc ban
hành, quy định về trình tự, thủ tục thu, nộp các loại thuế, phí và lệ phí đƣợc ghi
nhận trong cùng luật nội dung, và ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác
nhau. Bên cạnh đó, liên quan đến việc thu, nộp thuế trong lĩnh vực hải quan, cơ
quan hải quan và doanh nghiệp khi làm thủ tục cho hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu chủ yếu căn cứ vào pháp luật hải quan và dẫn chiếu quy định của luật thuế.
Có thể vì những lý do đó, cho đến thời điểm hiện tại, chƣa có một cơng trình
nghiên cứu mang tính chuyên khảo nào thực sự sâu sắc và toàn diện về pháp luật

quản lý thuế và vấn đề thực thi trong lĩnh vực hải quan ở nƣớc ta.
Trong chƣơng trình đào tạo bậc đại học chuyên ngành luật, một số vấn đề
của pháp luật quản lý thuế đƣợc đề cập ở nội dung giảng dạy chung về pháp luật
thuế. Gần đây, một số khoá luận tốt nghiệp đề cập đến lĩnh vực này, nhƣng là
quản lý một sắc thuế cụ thể nào đó, với mơ tả sơ sài và giản đơn về mặt khoa học
pháp lý.
Ở chƣơng trình đào tạo sau đại học chuyên ngành luật, pháp luật quản lý
thuế đƣợc đề cập trong chuyên đề Luật Tài chính - Ngân hàng trong nền kinh tế
thị trƣờng. Có một số luận văn và luận án đề cập đến vấn đề này dƣới giác độ
nghiên cứu về từng vấn đề riêng lẻ trong tồn bộ q trình quản lý thuế nói
chung, chẳng hạn nhƣ luận án tiến sỹ luật học “Những vấn đề lý luận và thực
tiễn của quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp”của nghiên cứu sinh Vũ Văn
Cƣơng; đề tài khoa học “Xây dựng mơ hình quản lý thuế theo cơ chế người nộp
thuế tự kê khai, tự nộp thuế” của phó tổng cục trƣởng Tổng cục Thuế Phạm Duy
Khƣơng và nhóm tác giả... Tuy nhiên, cũng chƣa có cơng trình nào nghiên cứu
pháp luật quản lý thuế và vấn đề thực thi trong lĩnh vực hải quan, dù ở mức độ
cụ thể hay khái qt.
Trên các phƣơng tiện truyền thơng có những nhận định, đánh giá về một
phần nội dung của công tác quản lý thuế trong lĩnh vực hải quan. Ví dụ: “Áp
dụng Luật Quản lý thuế trong lĩnh vực hải quan: giảm phiền hà, tăng nguồn
thu” đăng trên Báo Bà Rịa Vũng Tàu; “Luật Quản lý thuế có tác dụng tích cực
cho công tác thu thuế xuất nhập khẩu” của tác giả Ngọc Linh và bài “Sau hơn

3


một năm thực hiện Luật Quản lý thuế: giảm đáng kể tỉ lệ vi phạm pháp luật
thuế” của tác giả Kim Oanh đăng trên Báo Hải quan; “Luật Quản lý thuế sau
một năm thực hiện: chuyển đổi mạnh mẽ, toàn diện” đăng trên Tạp chí Tài
chính; “Luật Quản lý thuế sau một năm thực hiện: vẫn còn vướng mắc” của tác

giả Mai Hằng đăng trên Thời báo Diễn đàn doanh nghiệp…
Các tài liệu nƣớc ngoài bằng tiếng nƣớc ngoài liên quan có thể tìm thấy
đƣợc cũng chỉ đơn giản là việc giới thiệu nội dung quy định quản lý thuế ở nƣớc
sở tại, với những nguyên tắc áp dụng.
3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Phạm vi nghiên cứu của luận văn bao gồm những quy định của pháp luật
quản lý thuế và vấn đề thực thi trong lĩnh vực hải quan ở Việt Nam, xác định
theo các giới hạn sau đây:
- Thứ nhất, đối với vấn đề lý luận về pháp luật quản lý thuế, luận văn chỉ
nghiên cứu khái niệm thuế, quản lý thuế, pháp luật quản lý thuế và mối quan hệ
giữa pháp luật quản lý thuế với một số văn bản pháp luật trong hệ thống pháp
luật Việt Nam.
- Thứ hai, về vấn đề thực thi pháp luật quản lý thuế trong lĩnh vực hải
quan, luận văn chỉ nghiên cứu quy định của pháp luật quản lý thuế liên quan đến
các loại thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc
biệt, lệ phí mà ngành Hải quan đƣợc giao quản lý thu và thực trạng áp dụng.
- Thứ ba, về phƣơng hƣớng và giải pháp, luận văn chỉ tập trung đề xuất
một số nội dung cụ thể, nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật quản lý thuế và vấn
đề thực thi trong lĩnh vực hải quan trong thời gian sắp tới.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là: xác định những lý luận cơ bản của
pháp luật quản lý thuế; quy định của pháp luật quản lý thuế và vấn đề thực thi
trong lĩnh vực hải quan. Qua đó, chỉ ra những bất cập còn tồn tại, đồng thời đề
xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý thuế, để công tác này trong
lĩnh vực hải quan thực sự có hiệu lực và hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động xuất nhập khẩu, khuyến khích doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ.
Với mục đích nhƣ vậy, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:

4



- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý thuế và pháp
luật quản lý thuế: khái niệm thuế, quản lý thuế, pháp luật quản lý thuế và mối
quan hệ giữa pháp luật quản lý thuế với một số văn bản pháp luật khác có liên
quan.
- Phân tích, đánh giá khái quát quy định của pháp luật quản lý thuế và vấn
đề thực thi trong lĩnh vực hải quan, bao gồm: quyền và nghĩa vụ của các đối
tƣợng áp dụng; thủ tục hành chính thuế cơ bản nhƣ khai thuế, ấn định thuế, nộp
thuế; hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế; kiểm tra thuế, thanh tra thuế; cƣỡng chế
thi hành quyết định hành chính thuế; xử lý vi phạm pháp luật về thuế; khiếu nại,
tố cáo về thuế...
- Đề xuất một số giải pháp cụ thể, nhƣ sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn
bản pháp luật, xây dựng cơ chế thực hiện, nhằm hoàn thiện pháp luật quản lý
thuế và vấn đề thực thi trong lĩnh vực hải quan.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện đƣợc những mục đích và nhiệm vụ nêu trên, ngoài phƣơng
pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử làm cơ sở, luận văn còn sử dụng phƣơng pháp phân tích, diễn giải; phƣơng
pháp quy nạp; phƣơng pháp so sánh; phƣơng pháp thống kê.
6. Kết cấu của luận văn
Với những yêu cầu nêu trên, luận văn đƣợc kết cấu gồm phần mở đầu, ba
chƣơng nội dung và kết luận. Cụ thể:
Phần mở đầu
Chƣơng 1: Pháp luật quản lý thuế - Những vấn đề lý luận cơ bản
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật quản lý thuế và vấn đề thực thi trong lĩnh
vực hải quan ở Việt Nam
Chƣơng 3: Một số giải pháp để tiếp tục hoàn thiện pháp luật quản lý thuế
trong lĩnh vực hải quan
Kết luận


5


CHƢƠNG 1
PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN

1.1 Những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý thuế
1.1.1 Khái niệm thuế
Lịch sử phát triển của xã hội loài ngƣời đã chứng minh rằng thuế ra đời là
một tất yếu khách quan, gắn liền với sự hình thành, tồn tại và phát triển của Nhà
nƣớc.
Để có nguồn lực vật chất bảo đảm cho sự tồn tại và thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình, Nhà nƣớc phải dùng quyền lực chính trị vốn có nhằm huy
động một bộ phận của cải xã hội. Công việc đó có thể đƣợc Nhà nƣớc thực hiện
bằng nhiều cách khác nhau nhƣ yêu cầu ngƣời dân đóng góp bắt buộc, vận động
ngƣời dân đóng góp tự nguyện, vay nợ hoặc bán tài sản là tài nguyên quốc gia.
Trong đó, biện pháp huy động tập trung của cải có tính bắt buộc đối với mọi
thành viên trong xã hội đƣợc gọi là thuế.
Các Mác viết: “Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy Nhà nước, là thủ đoạn
đơn giản để kho bạc thu được tiền hay tài sản của người dân để dùng vào việc
chi tiêu của Nhà nước”. Ăng Ghen cũng đã viết: “Để duy trì quyền lực cơng
cộng, cần phải có đóng góp của cơng dân cho Nhà nước, đó là thuế má”. Cịn
theo Lê Nin, “Thuế là cái mà Nhà nước thu của dân nhưng không bù lại” và
“thuế cấu thành nên nguồn thu của Chính phủ, nó được lấy ra từ sản phẩm của
đất đai và lao động trong nước, xét cho cùng thì thuế được lấy ra từ tư bản hay
thu nhập của người chịu thuế” [15 tr.10].
Trong cuốn “Tài chính cơng”, nhà kinh tế học Gaston Jeze đã đƣa ra khái
niệm đƣợc cho là cổ điển nhất và cũng nổi tiếng nhất về thuế: “Thuế là một
khoản trích nộp bằng tiền, có tính chất xác định, khơng hồn trả trực tiếp, do
các cơng dân đóng góp cho Nhà nước thơng qua con đường quyền lực nhằm bù

đắp những chi tiêu của Nhà nước” [14 tr.23].
Để hiểu rõ bản chất của thuế, khi nghiên cứu khái niệm thuế cần chú ý các
đặc điểm sau [15 tr.11-14]:
Thứ nhất, thuế là khoản thu nộp bắt buộc vào ngân sách nhà nƣớc.

6


Nhà kinh tế học nổi tiếng Joseph E. Stiglitz cho rằng, thuế khác với đa số
các khoản chuyển giao tiền từ ngƣời này sang ngƣời kia: trong khi tất cả những
khoản chuyển giao đó là tự nguyện thì thuế lại là bắt buộc [24 tr.456].
Tính bắt buộc thể hiện ở chỗ, thuế đƣợc thực hiện thông qua con đƣờng
quyền lực Nhà nƣớc [13 tr.101-102]. Đối với ngƣời nộp thuế, đây là nghĩa vụ
chuyển giao tài sản của họ cho Nhà nƣớc khi có đủ điều kiện. Đối với cơ quan
quản lý thuế, trong q trình thực thi cơng vụ cũng không đƣợc phép lựa chọn
việc tiến hành hay không tiến hành các hoạt động quản lý thuế.
Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa thuế và các khoản đóng góp tự nguyện
khác, đồng thời có ý nghĩa pháp lý quan trọng trong việc ban hành pháp luật về
thuế, chi phối phƣơng pháp quản lý của cơ quan quản lý thuế.
Thứ hai, thuế khơng mang tính đối khoản cụ thể, khơng hồn trả trực tiếp.
Thuế khơng phải là khoản phải trả khi đối tƣợng nộp thuế đã nhận đƣợc
một lợi ích hay quyền lợi cụ thể nào từ phía Nhà nƣớc. Trƣớc khi thu thuế, Nhà
nƣớc không hề cung ứng trực tiếp một dịch vụ nào cho ngƣời nộp thuế. Sau khi
thu thuế, Nhà nƣớc cũng khơng có sự hồn trả trực tiếp nào cho ngƣời nộp thuế.
Cũng nhƣ vậy, ngƣời nộp thuế không thể phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế
với lý do họ khơng đƣợc hoặc ít đƣợc sử dụng các dịch vụ công.
Đây là một trong số những nội dung để phân biệt thuế với khoản vay của
Nhà nƣớc, phân biệt thuế với phí, lệ phí.
Tuy nhiên, một phần thuế đƣợc hoàn trả gián tiếp cho ngƣời nộp thuế
thông qua các khoản phúc lợi xã hội, phúc lợi công cộng.

Thuế đƣợc thu nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nƣớc, thuế khơng
có đối khoản cụ thể. Nói cách khác, nguồn thu từ mỗi loại thuế khơng đƣợc quy
định gắn với mục đích chi tiêu riêng nào, mà đƣợc sử dụng để đáp ứng nhu cầu
chung của Nhà nƣớc, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nƣớc.
1.1.2 Khái niệm quản lý thuế
Quản lý thuế là quá trình tổ chức, triển khai thực hiện hệ thống chính
sách thuế và các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước của cơ quan quản lý

7


thuế, người nộp thuế và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc thực thi
pháp luật về thuế.
Cơ quan quản lý thuế ở Việt Nam bao gồm:
- Cơ quan thuế: Tổng cục Thuế, Cục Thuế, Chi cục Thuế;
- Cơ quan hải quan: Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan, Chi cục Hải quan
và tƣơng đƣơng.
SƠ ĐỒ BỘ MÁY QUẢN LÝ THUẾ VIỆT NAM HIỆN NAY
Chính phủ
Bộ Tài chính

Cục, Vụ, Viện…

Tổng cục Thuế

Tổng cục Hải quan

Cục Thuế cấp tỉnh


UBND cấp tỉnh

Cục Hải quan tỉnh

CC Thuế cấp huyện

UBND cấp huyện

Chi cục Hải quan…

Trạm, Đội thuế cấp xã

Ghi chú:

Thể hiện quan hệ cơ quan hành chính cấp trên - cấp dƣới;
Thể hiện quan hệ phối hợp

Theo Nghị định số 281-HĐBT ngày 07/08/1990 của Hội đồng Bộ trƣởng
(nay là Chính phủ), hệ thống Thuế Nhà nƣớc đƣợc thành lập để thực hiện công
tác thu và quản lý các loại thuế và các khoản thu khác cho ngân sách trong nội
địa. Bộ máy quản lý thuế đƣợc tổ chức thành hệ thống dọc từ trung ƣơng đến địa
phƣơng. Cơ quan thuế đặt tại địa phƣơng chịu sự lãnh đạo song trùng của ngành
thuế cấp trên và chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp.
Ngày 28/10/2003, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Quyết định số
218/2003/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Tổng cục Thuế trực thuộc Bộ Tài chính. Theo đó, bộ máy quản lý thuế nội
địa đƣợc đổi mới tổ chức theo mơ hình chức năng, thực hiện việc cung cấp thông

8



tin và dịch vụ hỗ trợ ngƣời nộp thuế, đồng thời đẩy mạnh công tác thanh tra,
kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm pháp luật thuế.
Hệ thống Hải quan trƣớc đây trực thuộc Chính phủ, đƣợc tổ chức thành 3
cấp: Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng,
Chi cục Hải quan và tƣơng đƣơng. Cơ quan hải quan đảm nhiệm việc quản lý
thuế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế
tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, lệ phí hải quan.
Kể từ ngày 04/09/2002, theo Quyết định số 113/2002/QĐ-TTg của Thủ
tƣớng Chính phủ, hệ thống cơ quan hải quan đƣợc chuyển vào trực thuộc Bộ Tài
chính.
Việc tổ chức bộ máy, phân định chức năng cho cơ quan thuế quản lý thuế
nội địa, cơ quan hải quan quản lý thuế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu nhƣ ở
Việt Nam hiện nay là mô hình phổ biến đang đƣợc áp dụng trên thế giới. Mơ
hình này có ƣu điểm là sự chun mơn hố sâu sắc, tránh sự chuyên quyền của
cơ quan nhà nƣớc đƣợc giao quản lý thuế và bảo đảm sự giám sát lẫn nhau.
Nhƣng cũng có luận điểm cho rằng, nên sát nhập hai cơ quan quản lý thuế nhƣ
mơ hình Tổng cục Hải quan và Thuế gián thu Nhật Bản hay Cơ quan Hải quan
và Thuế Hoàng gia Anh, để tạo điều kiện thuận lợi trực tiếp nhiều hơn cho doanh
nghiệp, đơn giản hoá một cách tối đa thủ tục hành chính, nhất là tránh đƣợc sự
trùng lắp trong cơng tác quản lý thuế [19].
Đối tƣợng thứ hai tham gia quản lý thuế là ngƣời nộp thuế, bao gồm:
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp thuế, phí, lệ phí hoặc các khoản thu
khác thuộc ngân sách nhà nƣớc do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy
định của pháp luật.
Với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, đối tƣợng nộp thuế này là chủ hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu, tổ chức nhận uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu, cá nhân
có hàng hố xuất khẩu, nhập khẩu khi xuất cảnh, nhập cảnh, gửi hoặc nhận hàng
hoá qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam.
- Tổ chức đƣợc giao nhiệm vụ thu phí, lệ phí thuộc ngân sách nhà nƣớc.

- Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế; tổ chức, cá nhân làm thủ tục về thuế
thay ngƣời nộp thuế. Cụ thể:

9


+ Tổ chức, cá nhân là bên Việt Nam ký hợp đồng với tổ chức cá nhân
nƣớc ngoài kinh doanh tại Việt Nam không theo quy định của pháp luật về đầu
tƣ và khơng thực hiện chế độ kế tốn Việt Nam;
+ Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế khi chi trả thu nhập cho ngƣời có thu
nhập thuộc diện nộp thuế thu nhập đối với ngƣời có thu nhập cao;
+ Tổ chức làm đại lý tàu biển, đại lý cho các hãng vận tải nƣớc ngồi có
trách nhiệm khấu trừ thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động kinh doanh
vận chuyển hàng hoá bằng tàu biển từ cảng biển Việt Nam ra nƣớc ngoài hoặc
giữa các cảng biển Việt Nam;
+ Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế;
+ Đại lý làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu;
+ Tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ bƣu chính, dịch vụ chuyển phát
nhanh quốc tế trong trƣờng hợp nộp thay thuế cho tổ chức, cá nhân nộp thuế;
+ Tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác hoạt động theo Luật các tổ chức tín
dụng trong trƣờng hợp bảo lãnh nộp thuế cho tổ chức, cá nhân nộp thuế.
Cơ quan nhà nƣớc, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc thực hiện
pháp luật về thuế là Bộ tài chính; các cơ quan khác của Nhà nƣớc; Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp; Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên; cơ quan thơng tin, báo chí; hay tổ chức, cá nhân khác có trách nhiệm
trong việc tham gia quản lý thuế.
Nội dung chủ yếu của quản lý thuế gồm:
- Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế;
- Thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế;
- Xoá nợ tiền thuế, tiền phạt;

- Quản lý thông tin về ngƣời nộp thuế;
- Kiểm tra thuế, thanh tra thuế;
- Cƣỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế;
- Xử lý vi phạm pháp luật về thuế;
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế.

10


1.2 Khái niệm pháp luật quản lý thuế
1.2.1 Định nghĩa
Lịch sử lập pháp trên thế giới cho thấy có hai xu hƣớng: một là, vấn đề
quản lý thuế đƣợc ghi nhận trong các luật về chính sách thuế; hai là, vấn đề quản
lý thuế đƣợc quy định tại một văn bản độc lập - gọi là luật quản lý thuế. Mỗi một
cách thức đều có ƣu điểm và nhƣợc điểm nhất định. Tuy nhiên, xu hƣớng thứ
nhất thƣờng gặp phải một số rắc rối trong việc thể hiện nội dung quản lý thuế,
dẫn đến sự ảnh hƣởng tiêu cực đối với hành vi ứng xử của các chủ thể trong q
trình thực thi. Có điều, ranh giới giữa luật quản lý thuế và các luật về chính sách
thuế cũng khơng quá rạch ròi trong cách thể hiện. Bởi lẽ, ranh giới đó cịn phụ
thuộc vào kỹ thuật, trình độ lập pháp và sự lựa chọn của nhà làm luật. Ví dụ: quy
định quản lý thuế có tính chất đặc thù của từng sắc thuế có thể đƣợc đƣa vào các
luật về chính sách thuế, cịn quy định quản lý thuế mang tính chất chung sẽ đƣợc
đƣa vào luật quản lý thuế. Điều này khơng hồn tồn phá vỡ ngun tắc chung,
thậm chí, hoạt động quản lý thuế cịn có thể đạt đƣợc hiệu quả cao hơn.
Để có một cơ cấu thống nhất, đồng bộ, đáp ứng yêu cầu quản lý thuế, luật
quản lý thuế phải đƣợc xây dựng dựa trên các ngun tắc cơ bản. Đó là ngun
tắc trình tự thời gian, nguyên tắc chức năng hay nguyên tắc phạm trù pháp lý
[23].

Nếu theo nguyên tắc trình tự thời gian, luật quản lý thuế đƣợc xây dựng

bắt đầu bằng việc giải thích luật, xác định quyền và nghĩa vụ của ngƣời nộp thuế,
trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý thuế, sau đó đi sâu vào từng nghĩa
vụ, trách nhiệm, quyền hạn cụ thể.
Nếu theo nguyên tắc chức năng, luật quản lý thuế đƣợc xây dựng trên cơ
sở chức năng của cơ quan quản lý thuế nhƣ cung cấp thông tin, kiểm tra, thanh
tra thuế, xử lý nợ thuế, xử lý vi phạm pháp luật thuế, cƣỡng chế thuế… Cơ cấu,
tổ chức của cơ quan quản lý thuế cũng đƣợc thiết kế trong luật, chẳng hạn,
nguyên tắc tổ chức, hoạt động của cơ quan quản lý thuế, cơ cấu tổ chức của bộ
máy quản lý thuế…
Nếu theo nguyên tắc phạm trù pháp lý, luật quản lý thuế đƣợc thiết kế bắt
đầu bằng các khái niệm sử dụng trong luật, quyền và nghĩa vụ của ngƣời nộp

11


thuế, trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý thuế, xử lý vi phạm đối với
ngƣời nộp thuế và cơ quan quản lý thuế…
Dù đƣợc xây dựng, thiết kế theo nguyên tắc nào, luật quản lý thuế bao giờ
cũng có vai trị hết sức quan trọng trong việc quản lý điều hành chính sách thuế.
Ở Việt Nam, ngồi Luật Quản lý thuế năm 2006, các quan hệ xã hội phát
sinh trong q trình quản lý thuế cịn chịu sự điều chỉnh của một số văn bản pháp
luật khác trong hệ thống pháp luật nhƣ Hiến pháp, luật chuyên ngành, văn bản
dƣới luật và điều ƣớc quốc tế có liên quan mà Việt Nam tham gia, ký kết. Tất cả
các quy định đó đƣợc gọi là pháp luật quản lý thuế.
Pháp luật quản lý thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý thuế, nhằm tổ chức thực
hiện các luật thuế và văn bản pháp luật quy định các khoản thu khác thuộc ngân
sách nhà nước.
1.2.2 Đặc điểm của pháp luật quản lý thuế
Pháp luật quản lý thuế có các đặc điểm cơ bản nhƣ sau:

Thứ nhất, phạm vi điều chỉnh của pháp luật quản lý thuế quy định việc
quản lý thuế đối với các loại thuế và các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà
nƣớc do cơ quan thuế và cơ quan hải quan quản lý thu theo quy định của pháp
luật. Đó là quyền và nghĩa vụ của các đối tƣợng áp dụng; thủ tục đăng ký thuế,
khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế; hồn thuế, miễn thuế, giảm thuế; xố nợ tiền
thuế, tiền phạt; quản lý thông tin về ngƣời nộp thuế; kiểm tra thuế, thanh tra
thuế; cƣỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; xử lý vi phạm pháp luật về
thuế; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế; bồi thƣờng thiệt hại do cơ quan quản lý
thuế, công chức quản lý thuế gây ra cho ngƣời nộp thuế.
Thứ hai, đối tƣợng điều chỉnh của pháp luật quản lý thuế là các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình quản lý thuế giữa các đối tƣợng áp dụng là ngƣời
nộp thuế, cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế, cơ quan nhà nƣớc, tổ
chức, cá nhân khác có liên quan đến việc thực hiện pháp luật thuế.
Có thể nói, quản lý thuế là một trong những nội dung quan trọng, không
thể tách rời hoạt động quản lý nhà nƣớc. Quản lý thuế gồm nhiều nội dung khác
nhau, nhƣng bao giờ cũng gắn liền với sự tham gia của Nhà nƣớc. Đó có thể là

12


sự tham gia nhân danh chính mình khi Nhà nƣớc ban hành pháp luật quản lý
thuế, tham gia, ký kết điều ƣớc quốc tế có liên quan, hay tham gia thông qua việc
uỷ quyền cho cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế.
Thứ ba, phƣơng pháp điều chỉnh của pháp luật quản lý thuế là phƣơng
pháp mệnh lệnh quyền uy và phƣơng pháp bình đẳng thỏa thuận.
Xuất phát từ tính chất của các quan hệ pháp luật phát sinh trong quá trình
quản lý thuế, để sự tác động của pháp luật có hiệu quả, pháp luật quản lý thuế sử
dụng phƣơng pháp mệnh lệnh quyền uy là chủ yếu, nhất là với quan hệ giữa cơ
quan quản lý thuế và ngƣời nộp thuế.
Nhƣ đã đề cập, tính bắt buộc là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân

biệt thuế và các hình thức động viên tài chính khác của ngân sách Nhà nƣớc.
Việc chuyển giao một phần thu nhập dƣới hình thức thuế khơng gắn với lợi ích
cụ thể của ngƣời nộp thuế. Thêm nữa, bản chất của quản lý thuế xét đến cùng là
quản lý việc thu thuế - nộp thuế. Cho nên, không thể sử dụng phƣơng pháp bình
đẳng, tự nguyện trong quan hệ pháp luật quản lý thuế giữa cơ quan quản lý thuế
và ngƣời nộp thuế.
Cơ quan quản lý thuế có quyền ấn định thuế, kiểm tra thuế, thanh tra thuế,
cƣỡng chế thi hành quyết định hành chính về thuế… [1 Điều 9] và yêu cầu ngƣời
nộp thuế phải thực hiện. Ngay cả khi ngƣời nộp thuế sử dụng quyền của mình
nhƣ tự xác định ƣu đãi về thuế, miễn thuế, giảm thuế, hồn thuế... [1 Điều 6],
tính chất quyền uy cũng không bị mất đi. Bởi lẽ, các quyền này ngƣời nộp thuế
có đƣợc là do Nhà nƣớc cho phép hay thừa nhận. Nếu khai báo sai căn cứ miễn
thuế, giảm thuế, hoàn thuế... làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế
đƣợc hoàn, ngƣời nộp thuế sẽ bị xử lý vi phạm hành chính, thậm chí bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, pháp luật quản lý thuế cũng sử dụng phƣơng pháp bình
đẳng, thỏa thuận trong quan hệ phối hợp giữa các cơ quan quản lý thuế với nhau,
giữa cơ quan quản lý thuế với các cơ quan nhà nƣớc khác, mặt trận tổ quốc, hay
quan hệ giữa tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế với ngƣời nộp
thuế… [13 tr.42]

13


1.2.3 Nguyên tắc quản lý thuế
Điều 4 Luật quản lý thuế năm 2006 quy định:
“1. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Nộp thuế theo
quy định của pháp luật là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi tổ chức, cá nhân. Cơ
quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia quản lý thuế.
2. Việc quản lý thuế thực hiện theo quy định của Luật này và các quy định

khác của pháp luật có liên quan.
3. Việc quản lý thuế phải bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng; bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người nộp thuế”.
Trƣớc khi Luật Quản lý thuế ra đời, trong các luật về chính sách thuế
khơng có quy định cụ thể về nguyên tắc quản lý thuế. Ngay cả dự thảo Luật
Quản lý thuế ngày 09/01/2006, trƣớc bản dự thảo trình Quốc hội khố XI, kỳ
họp thứ 10 (từ ngày 17/10/2006 đến ngày 29/11/2006) thông qua Luật Quản lý
thuế, cũng vẫn chƣa có nội dung này.
Nguyên tắc quản lý thuế là những tƣ tƣởng chủ đạo, xuyên suốt trong các
quy định cũng nhƣ quá trình thực thi pháp luật quản lý thuế.
Nguyên tắc quản lý thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đƣợc xác
định cụ thể: bảo đảm cơng khai, minh bạch, bình đẳng; bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của ngƣời nộp thuế; trên cơ sở đánh giá quá trình chấp hành pháp luật
thuế của ngƣời nộp thuế có ƣu tiên và tạo thuận lợi đối với ngƣời nộp thuế thuộc
đối tƣợng chấp hành tốt pháp luật về thuế.
Ngƣời nộp thuế chấp hành tốt pháp luật về thuế là chủ hàng chấp hành tốt
pháp luật hải quan và khơng cịn nợ tiền thuế q hạn, khơng cịn nợ tiền phạt
chậm nộp thuế tại thời điểm đăng ký tờ khai hải quan.
Các nguyên tắc quản lý thuế bao gồm:
1.2.3.1 Nguyên tắc mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm
tham gia quản lý thuế
Nguyên tắc này đƣợc xây dựng xuất phát từ vai trò, chức năng của thuế là
nguồn thu chủ yếu của ngân sách quốc gia và đƣợc sử dụng để phục vụ nhu cầu
chi tiêu của Nhà nƣớc cho toàn xã hội.

14


Tham gia quản lý thuế, các đối tƣợng áp dụng pháp luật quản lý thuế có
thể đóng vai trị của ngƣời nộp thuế, của cơ quan quản lý thuế, công chức quản

lý thuế, hay của tổ chức, cá nhân khác có liên quan. Trong từng mối quan hệ
quản lý thuế cụ thể, các chủ thể đƣợc xác định có quyền và nghĩa vụ nhất định.
Chính vì vậy, họ đều trực tiếp hoặc gián tiếp nhận đƣợc lợi ích từ hoạt động
quản lý thuế, cho nên phải có trách nhiệm tham gia quản lý thuế. Chẳng hạn, Hội
đồng nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình quyết định
nhiệm vụ thu ngân sách hàng năm và giám sát thực hiện pháp luật thuế; Ủy ban
nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
chỉ đạo các cơ quan có liên quan phối hợp với cơ quan quản lý thuế lập dự toán
thu ngân sách nhà nƣớc, tổ chức thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách nhà nƣớc trên
địa bàn; cơ quan thơng tin, báo chí có trách nhiệm tun truyền, phổ biến chính
sách pháp luật về thuế, phản ánh và phê phán các hành vi vi phạm pháp luật về
thuế; tổ chức, cá nhân khác có trách nhiệm cung cấp thơng tin liên quan đến việc
xác định nghĩa vụ thuế theo đề nghị của cơ quan quản lý thuế, phối hợp thực
hiện các quyết định xử lý vi phạm pháp luật về thuế.
1.2.3.2 Nguyên tắc nộp thuế theo quy định của pháp luật là nghĩa vụ
và quyền lợi của mọi tổ chức, cá nhân
Quản lý thuế trƣớc tiên phải dựa trên nguyên tắc đề cao vai trò của ngƣời
nộp thuế trong việc tự tính, tự khai, tự nộp thuế và tự chịu trách nhiệm trƣớc
pháp luật. Cơ quan quản lý thuế chủ yếu thực hiện chức năng tuyên truyền, hỗ
trợ ngƣời nộp thuế, kiểm tra, thanh tra thuế.
Thực hiện nguyên tắc này, cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm tuyên
truyền sâu rộng, liên tục về chính sách thuế, các quy định về quản lý thuế để
khuyến khích, nâng cao tính tuân thủ pháp luật của ngƣời nộp thuế, nhằm đạt
đƣợc sự tự giác thực hiện nghĩa vụ. Chẳng hạn, phát hiện hồ sơ khai thuế có sai
sót trƣớc khi cơ quan quản lý thuế thực hiện kiểm tra, thanh tra tại trụ sở ngƣời
nộp thuế, ngƣời nộp thuế đƣợc khai bổ sung hồ sơ khai thuế trong thời hạn nhất
định và khơng bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi này. Đồng thời, thực hiện
quản lý rủi ro theo nghĩa xác định đƣợc rủi ro để quản lý, cơ quan quản lý thuế
cũng cần có những biện pháp để hạn chế sự vi phạm của ngƣời nộp thuế.


15


Vì nộp thuế là nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân khi tham gia quan hệ pháp
luật quản lý thuế với vai trò là ngƣời nộp thuế, cho nên, nếu không tự giác thực
hiện một cách đầy đủ, đúng hạn theo quy định của pháp luật, ngƣời nộp thuế sẽ
bị áp dụng các biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc.
1.2.3.3 Nguyên tắc quản lý thuế phải bảo đảm công khai, minh bạch,
bình đẳng; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời nộp thuế
Quản lý thuế phải đƣợc thực hiện trên cơ sở cải cách thủ tục hành chính
thuế theo hƣớng đơn giản, rõ ràng, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của ngƣời nộp thuế nhƣ đƣợc hƣớng dẫn thực hiện pháp luật thuế, đƣợc
cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ về thuế; yêu
cầu cơ quan quản lý thuế giải thích việc tính thuế, ấn định thuế, giữ bí mật thơng
tin; u cầu cơ quan có thẩm quyền trƣng cầu giám định chất lƣợng, chủng loại
hàng hoá xuất nhập khẩu; ký hợp đồng với tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ
tục về thuế thay mặt mình làm các thủ tục về thuế... Bên cạnh đó, quản lý thuế
phải xác định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan quản lý thuế, công
chức quản lý thuế dựa trên nguyên tắc “cán bộ, công chức nhà nƣớc chỉ đƣợc
thực hiện những gì mà pháp luật cho phép”.
Quy định rõ các loại giấy tờ của từng loại hồ sơ thuế: hồ sơ khai thuế, hồ
sơ miễn thuế, hồ sơ hoàn thuế... không chỉ giúp ngƣời nộp thuế tự xác định
quyền và nghĩa vụ của mình, mà cịn tránh đƣợc sự tuỳ tiện của công chức thuế,
công chức hải quan khi thực thi công vụ. Thời hạn nộp hồ sơ khai thuế, nộp thuế
phải đƣợc thống nhất trong sự phù hợp với từng loại thuế và tình hình thực tế
của đời sống kinh tế - xã hội. Thời hạn nộp thuế đƣợc quy định gắn với thời hạn
khai thuế, vừa bảo đảm phù hợp với tính chất của từng sắc thuế, vừa tạo thuận
lợi cho ngƣời nộp thuế dễ nhớ, dễ thực hiện. Quy định về xử lý vi phạm hành
chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến quản lý thuế, vấn đề trách nhiệm
vật chất của cán bộ công chức quản lý thuế cũng phải đƣợc cơng khai hố.

Đơn giản, minh bạch nội dung của công tác quản lý thuế giúp ngƣời nộp
thuế có cơ sở thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ, đồng thời, tạo điều kiện để tăng
cƣờng vai trò kiểm tra, giám sát của Nhà nƣớc, cộng đồng xã hội đối với việc
thực thi của cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế. Cơ quan quản lý thuế,

16


theo yêu cầu cải cách thủ tục hành chính thuế, phải phân công, phân nhiệm một
cách cụ thể, bảo đảm giải quyết công việc trong mối quan hệ với ngƣời nộp thuế
trên cơ sở thấu hiểu, chia sẻ. Thực tế cho thấy, sự không minh bạch trong quản
lý thuế là nguyên nhân căn bản tạo ra sự bất bình đẳng, tham nhũng, lạm thu,
đồng thời làm suy yếu tính pháp định của của các sắc thuế, dẫn đến tình trạng
trốn thuế, gian lận thuế.
Quản lý thuế phải đƣợc thực thi trên cơ sở thể hiện sự cơng bằng, bình
đẳng, có nghĩa là không phân biệt đối xử giữa các đối tƣợng nộp thuế về địa vị
pháp lý cũng nhƣ quyền và nghĩa vụ. Sự cơng bằng, bình đẳng cịn thể hiện ở
một chính sách thuế ổn định, thống nhất. Để làm đƣợc điều này, nhà hoạch định
chính sách cần có dự liệu chính xác về những vấn đề kinh tế - xã hội phát sinh
gắn với phạm vi quản lý thuế. Qua đó, ngƣời nộp thuế có thể xây dựng phƣơng
án kinh doanh khơng chỉ trong ngắn hạn, cịn cơ quan quản lý thuế cũng thiết kế
đƣợc phƣơng pháp quản lý thuế hiệu lực và hiệu quả [25].
1.2.4 Mối quan hệ giữa pháp luật quản lý thuế và một số văn bản
pháp luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam
1.2.4.1 Mối quan hệ giữa pháp luật quản lý thuế với các luật thuế,
pháp lệnh phí, lệ phí
Trong mối quan hệ hình thức - nội dung, pháp luật quản lý thuế là tổng
hợp các quy phạm pháp luật nhằm tổ chức thực hiện các luật thuế, cũng nhƣ
pháp lệnh phí và lệ phí. Vì vậy, vấn đề hiệu quả của luật về chính sách thuế phụ
thuộc khá lớn vào pháp luật quản lý thuế. Cho dù luật về chính sách thuế phản

ánh chuẩn xác, khoa học chính sách thuế nhƣng nếu pháp luật quản lý thuế quản lý cách thức vận hành của chính sách thuế - khơng phù hợp, có thể làm vơ
hiệu hố các luật thuế, pháp lệnh phí, lệ phí.
Pháp luật quản lý thuế và các luật về chính sách thuế có mối quan hệ nội
tại thống nhất với nhau. Sự thay đổi nội dung của luật thuế tất yếu kéo theo sự
thay đổi của pháp luật quản lý thuế, nhất là khi pháp luật quản lý thuế có quy
định những vấn đề quản lý mang tính chất đặc thù của từng sắc thuế. Tuy nhiên,
nói nhƣ vậy khơng có nghĩa sự thay đổi của pháp luật quản lý thuế hoàn toàn
phụ thuộc vào sự thay đổi của luật thuế, mà pháp luật quản lý thuế có tính độc

17


lập tƣơng đối của nó. Sự thay đổi cơ bản của pháp luật quản lý thuế phần lớn phụ
thuộc vào cơ chế, phƣơng thức quản lý thuế của một quốc gia, phụ thuộc vào ý
thức tuân thủ luật pháp của các thành viên trong xã hội.
Luật Quản lý thuế năm 2006 và các văn bản hƣớng dẫn thực hiện không
chỉ quy định những vấn đề chung về tổ chức thực hiện các luật thuế, mà còn quy
định cả những nội dung tổ chức thực hiện riêng của từng luật thuế. Hơn nữa, số
lƣợng điều luật quy định nội dung quản lý đặc thù chiếm tỷ lệ khá nhiều, đặc biệt
là quy định quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Vì vậy, khi các
luật về chính sách thuế đƣợc ban hành, sửa đổi, bổ sung (theo kế hoạch, dự kiến
năm 2010 Quốc hội sẽ ban hành Luật Thuế bảo vệ môi trƣờng, Luật sửa đổi, bổ
sung Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu…), đƣơng nhiên kéo theo sự sửa đổi,
bổ sung Luật Quản lý thuế. Vơ hình chung, các luật mới về chính sách thuế có
thể phá vỡ tính ổn định của Luật Quản lý thuế.
Bên cạnh đó, pháp luật quản lý thuế vẫn cịn đảm nhiệm sứ mệnh “giải
quyết tình thế” cho các luật về chính sách thuế. Chẳng hạn, Điều 65 Luật Quản
lý thuế quy định trƣờng hợp đƣợc xoá nợ tiền thuế, tiền phạt:
“1. Doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản đã thực hiện các khoản thanh toán
theo quy định của pháp luật phá sản mà khơng cịn tài sản để nộp tiền thuế, tiền

phạt;
2. Cá nhân được pháp luật coi là đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi
dân sự mà khơng có tài sản để nộp tiền thuế, tiền phạt cịn nợ”.
Đây là nội dung thuộc phạm vi điều chỉnh của luật về chính sách thuế,
song các luật thuế hiện hành chƣa quy định. Vì vậy, nhà làm luật đã đƣa vào
Luật Quản lý thuế để phù hợp với thực tiễn quản lý thuế.
Thậm chí, pháp luật quản lý thuế cịn “lấn sân” phạm vi điều chỉnh của
luật về chính sách thuế. Ví dụ: khoản 3, khoản 4, Điều 42 Luật Quản lý thuế quy
định thời hạn nộp thuế và điều kiện để đƣợc áp dụng thời hạn nộp thuế đối với
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu:
“a) Đối với hàng hoá xuất khẩu là ba mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ
khai hải quan;

18


b) Đối với hàng hoá nhập khẩu là hàng tiêu dùng phải nộp xong thuế
trước khi nhận hàng; trường hợp có bảo lãnh về số tiền thuế phải nộp thì thời
hạn nộp thuế không quá ba mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan;
c) Đối với hàng hóa nhập khẩu là vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng
hóa xuất khẩu là hai trăm bảy lăm ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan;
trường hợp đặc biệt thì thời hạn nộp thuế có thể dài hơn hai trăm bảy lăm ngày
phù hợp với chu kỳ sản xuất, dự trữ vật tư, nguyên liệu của doanh nghiệp theo
quy định của Chính phủ;
d) Đối với hàng hố kinh doanh theo phương thức tạm nhập, tái xuất hoặc
tạm xuất, tái nhập là mười lăm ngày, kể từ ngày hết thời hạn tạm nhập, tái xuất
hoặc tạm xuất, tái nhập;
đ) Đối với hàng hoá khác là ba mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải
quan;
4. Để được áp dụng thời hạn nộp thuế theo quy định tại các điểm c, d, và

đ khoản 3 Điều này, người nộp thuế phải đáp ứng một trong hai điều kiện sau
đây:
a) Có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong thời gian ít nhất là ba trăm
sáu lăm ngày tính đến ngày đăng ký tờ khai hải quan mà khơng có hành vi gian
lận thương mại, trốn thuế, không nợ tiền thuế quá hạn, tiền phạt, chấp hành tốt
chế độ báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật;
b) Được tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác hoạt động theo quy định của
Luật Các tổ chức tín dụng bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.
Trường hợp không đáp ứng một trong hai điều kiện trên thì người nộp
thuế phải nộp thuế trước khi nhận hàng”.
Những quy định này thực chất thể hiện chính sách thuế xuất khẩu, nhập
khẩu ở Việt Nam và đáng lẽ phải đƣợc ghi nhận ở Luật Thuế xuất khẩu, Thuế
nhập khẩu.
1.2.4.2 Mối quan hệ giữa pháp luật quản lý thuế với pháp luật hải
quan
Trong mối quan hệ với pháp luật hải quan, pháp luật quản lý thuế đóng
vai trị là cơng cụ để cơ quan hải quan thực hiện một trong những nhiệm vụ quan

19


trọng của mình là quản lý thu các loại thuế liên quan đến hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu, cũng nhƣ lệ phí hải quan. Nội dung của pháp luật quản lý thuế phải
đƣợc kết nối một cách tƣơng thích với các quy định của pháp luật hải quan về
quy trình nghiệp vụ kiểm tra, giám sát hải quan; quy trình xác định trị giá hải
quan; quy trình kiểm tra sau thông quan; các biện pháp nghiệp vụ đặc thù của lực
lƣợng kiểm soát hải quan…
Ngƣợc lại, quy định của pháp luật hải quan phải đảm bảo thực hiện đƣợc
nguyên tắc quản lý thuế, vận hành cơ chế tự khai - tự nộp và thu đúng, thu đủ
các loại thuế liên quan đến hàng hoá xuất nhập khẩu.

Luật Quản lý thuế năm 2006 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành còn thiếu
quy định về nguyên tắc xử lý mối quan hệ giữa cơ quan thuế và cơ quan hải
quan. Hiện nay, tổ chức của Hải quan Việt Nam có 33 Cục Hải quan tỉnh, liên
tỉnh. Thực hiện đề án cải cách, hiện đại hoá, Hải quan sẽ đƣợc tổ chức theo mơ
hình hải quan vùng (dự kiến khoảng 10 Hải quan vùng). Trong khi đó, tổ chức
của cơ quan thuế gồm 63 Cục Thuế tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng (theo
đơn vị hành chính lãnh thổ). Nếu mối quan hệ giữa Cục Hải quan với Cục Thuế
không đƣợc xác định cụ thể, việc quản lý ngƣời nộp thuế trên thực tế, nhất là vấn
đề cung cấp và xử lý thông tin - nội dung quan trọng khi áp dụng phƣơng pháp
quản lý thuế hiện đại sẽ khó có thể đƣợc thực hiện một cách hiệu quả.
Mặt khác, còn nhiều quy định của pháp luật quản lý thuế đƣợc chuyển
dịch một cách cơ học từ pháp luật hải quan, vì vậy ít nhiều khơng tránh khỏi tính
chất khiên cƣỡng. Ví dụ, điểm a, b, c, khoản 4, Điều 32 Luật Quản lý thuế quy
định về thời hạn nộp hồ sơ khai thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu nhƣ
sau:
“4. Đối với hàng hố xuất khẩu, nhập khẩu thì thời hạn nộp hồ sơ khai
thuế là thời hạn nộp tờ khai hải quan:
a) Đối với hàng hoá nhập khẩu thì hồ sơ khai thuế được nộp trước ngày
hàng hố đến cửa khẩu hoặc trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày hàng hoá
đến cửa khẩu. Tờ khai hải quan có giá trị làm thủ tục về thuế trong thời hạn
mười lăm ngày, kể từ ngày đăng ký;

20


b) Đối với hàng hố xuất khẩu thì hồ sơ khai thuế được nộp chậm nhất là
tám giờ trước khi phương tiện vận tải xuất cảnh. Tờ khai hải quan có giá trị làm
thủ tục về thuế trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày đăng ký;
c) Đối với hành lý mang theo của người nhập cảnh, xuất cảnh, thuộc diện
chịu thuế xuất khẩu, nhập khẩu, tờ khai hải quan được nộp ngay khi phương tiện

vận tải đến cửa khẩu nhập hoặc trước khi tổ chức vận tải chấm dứt việc làm thủ
tục nhận hành khách lên phương tiện vận tải xuất cảnh. Hành lý gửi trước hoặc
sau chuyến đi của người nhập cảnh được thực hiện theo quy định tại điểm a
khoản này”.
Quy định “Tờ khai hải quan có giá trị làm thủ tục về thuế trong thời hạn
mười lăm ngày, kể từ ngày đăng ký” để phù hợp với quy định về thời hạn khai
và nộp tờ khai hải quan của Luật Hải quan “tờ khai hải quan có giá trị làm thủ
tục hải quan trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày đăng ký” [2 Điều 18],
nhƣng lại không chỉ rõ làm thủ tục về thuế là thủ tục khai thuế, tính thuế, nộp
thuế hay tất cả các thủ tục đó.
1.2.4.3 Mối quan hệ giữa pháp luật quản lý thuế với một số văn bản
quy phạm pháp luật khác
Pháp luật quản lý thuế không chỉ có mối quan hệ chặt chẽ với các luật
thuế, pháp lệnh phí và lệ phí, pháp luật hải quan, mà cịn có mối quan hệ chặt
chẽ với một số văn bản pháp luật khác, nhƣ pháp luật dân sự, tố tụng dân sự,
pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, pháp luật thanh tra, pháp lệnh điều tra các vụ
án hình sự, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính… Đây là các mối quan hệ
tƣơng tác, hỗ trợ lẫn nhau theo sự phân định giữa các luật chuyên ngành, đƣợc
thiết kế dựa trên nguyên tắc cơ cấu chức năng. Vì vậy, khi nghiên cứu, xây dựng
và vận dụng quy định của pháp luật quản lý thuế, cần có sự lƣu ý về tính hệ
thống, và xem xét đến tính tồn diện với các văn bản pháp luật đó. Cụ thể: quy
định của pháp luật quản lý thuế về thanh tra thuế phải đƣợc xây dựng và thực
hiện trên các nguyên tắc cơ bản của pháp luật thanh tra; quy định của pháp luật
quản lý thuế về xử lý vi phạm pháp luật về thuế phải đƣợc xây dựng và thực hiện
dựa trên các nguyên tắc cơ bản của pháp luật xử lý vi phạm hành chính; pháp
luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự…

21



Nghiên cứu Luật Quản lý thuế năm 2006 và các văn bản hƣớng dẫn thi
hành cho thấy, một số quy định của pháp luật quản lý thuế chƣa đảm bảo tính
tƣơng thích với các luật thủ tục khác trong lĩnh vực hành chính, kinh tế thƣơng
mại, dân sự, hay hình sự.
1.2.5 Kết cấu của pháp luật quản lý thuế gắn với việc thực thi trong
lĩnh vực hải quan.
Quản lý nhà nƣớc về hải quan là hoạt động quản lý đối với hàng hoá đƣợc
xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, phƣơng tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá
cảnh của tổ chức, cá nhân trong nƣớc và nƣớc ngoài trong lãnh thổ hải quan; về
tổ chức và hoạt động của Hải quan.
Hải quan Việt Nam có nhiệm vụ thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hố,
phƣơng tiện vận tải; phịng, chống bn lậu, vận chuyển trái phép hàng hố qua
biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu; thống kê hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu; kiến nghị chủ trƣơng, biện pháp
quản lý nhà nƣớc về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh,
nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
[2 Điều 11].

Cơ quan hải quan nơi làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá theo
chức năng và thẩm quyền đƣợc phân cấp kiểm tra việc kê khai, tính thuế, thực
hiện miễn thuế, giảm thuế, hồn thuế, khơng thu thuế, truy thu thuế của ngƣời
khai hải quan; thu thuế và quản lý việc nộp thuế [2 Điều 69].
Điều đó có nghĩa, việc tổ chức, thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu, bao gồm cả pháp luật nội dung (các luật chính sách
thuế) và pháp luật về thủ tục (pháp luật quản lý thuế) là một phần của quản lý
nhà nƣớc về hải quan.
Hiện tại, theo quy định của pháp luật, Hải quan là cơ quan quản lý thu các
loại thuế liên quan đến hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu nhƣ thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng; lệ phí hải quan. Đƣơng
nhiên, cơ quan hải quan cũng là cơ quan thực hiện các nội dung quản lý thuế liên

quan đến hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đối với các loại thuế, lệ phí đó.

22


Do vậy, ngoài những quy định chung về quản lý thuế, kết cấu của pháp
luật quản lý thuế gắn với việc thực thi trong lĩnh vực hải quan bao gồm:
Nhóm một, thực trạng về quyền và nghĩa vụ của các đối tƣợng áp dụng
pháp luật quản lý thuế liên quan đến hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Cụ thể:
- Quyền và nghĩa vụ của ngƣời nộp thuế;
- Trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan hải quan;
- Trách nhiệm của cơ quan nhà nƣớc, tổ chức, cá nhân khác có liên quan
đến việc thực hiện pháp luật về thuế.
Nhóm hai, thực trạng về thủ tục hành chính thuế cơ bản liên quan đến
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Cụ thể:
- Thủ tục khai thuế, ấn định thuế, nộp thuế;
- Thủ tục hoàn thuế; miễn thuế, giảm thuế;
- Thủ tục quản lý thông tin về ngƣời nộp thuế;
- Thủ tục kiểm tra sau thông quan, thanh tra thuế;
- Thủ tục xử lý vi phạm hành chính về hải quan trong lĩnh vực thuế;
- Thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế;
- Thủ tục xác nhận nghĩa vụ thuế;
- Thủ tục bồi thƣờng thiệt hại do cơ quan hải quan, công chức hải quan
gây ra cho ngƣời nộp thuế theo quy định của pháp luật.
1.3 Các yếu tố bảo đảm thực thi pháp luật quản lý thuế trong lĩnh vực
hải quan
Để bảo đảm thực thi một cách có hiệu lực và hiệu quả pháp luật quản lý
thuế đối với các loại thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế
giá trị gia tăng liên quan đến hàng hố xuất khẩu, nhập khẩu, cũng nhƣ lệ phí hải
quan, cần xét đến các yếu tố cơ bản sau đây:

Một là, các văn bản pháp luật quản lý thuế phải đƣợc ban hành một cách
đầy đủ, đồng bộ, nhằm tạo ra hành lang pháp lý hoàn chỉnh, an toàn cho công tác
quản lý thuế cũng nhƣ công tác quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng
hoá của cơ quan hải quan, đồng thời, tạo thuận lợi một cách tối đa cho dòng lƣu
chuyển thƣơng mại quốc tế.

23


Luật Quản lý thuế đƣợc Quốc hội khố XI thơng qua ngày 29/11/2006 và
có hiệu lực từ ngày 01/07/2007. Các văn bản quy phạm pháp luật hƣớng dẫn
thực hiện Luật Quản lý thuế trong lĩnh vực hải quan phải đƣợc ban hành gồm:
Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế; Nghị
định quy định việc xử lý vi phạm hành chính và cƣỡng chế thi hành quyết định
hành chính trong lĩnh vực hải quan; Thông tƣ hƣớng dẫn thực hiện quản lý thuế
đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; Thơng tƣ hƣớng dẫn thi hành Nghị định
quy định việc xử lý vi phạm hành chính và cƣỡng chế thi hành quyết định hành
chính trong lĩnh vực hải quan; Thơng tƣ quy định về điều kiện đăng ký và hoạt
động của đại lý làm thủ tục hải quan.
Sau gần hai năm thực hiện Luật Quản lý thuế, sự ra đời của Thông tƣ
79/2009/TT-BTC ngày 20/04/2009 của Bộ Tài chính hƣớng dẫn về thủ tục hải
quan; kiểm tra giám sát hải quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế
đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thể hiện các văn bản quy phạm pháp luật
dƣới luật nêu trên đã lần lƣợt đƣợc ban hành một cách đầy đủ phục vụ công tác
quản lý thuế. Tuy nhiên, vẫn còn những quy định của văn bản hƣớng dẫn chƣa
đồng bộ với hệ thống, thậm chí mâu thuẫn với văn bản có giá trị pháp lý cao
hơn. Có những quy định lại khơng phù hợp với thực tiễn quản lý của cơ quan hải
quan hoặc chƣa thực sự tạo thuận lợi một cách tối đa cho ngƣời nộp thuế.
Bên cạnh đó, ngồi u cầu đảm bảo thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp
của ngƣời nộp thuế, pháp luật quản lý thuế đồng thời phải tạo điều kiện để cơ

quan hải quan thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý thuế.
Hai là, quy định của pháp luật quản lý thuế phải thống nhất với quy định
của pháp luật hải quan liên quan đến việc quản lý thu các loại thuế, lệ phí nêu
trên.
Quản lý thuế là một trong những nhiệm vụ cơ bản của cơ quan hải quan.
Khi hoạt động, cơ quan hải quan chủ yếu dựa vào quy định của Luật Hải quan và
các văn bản khác có liên quan. Do đó, việc kết nối giữa thủ tục hành chính thuế,
với ý nghĩa là một phần trong quy trình thủ tục hải quan, phải đƣợc pháp luật
quản lý thuế và pháp luật hải quan quy định một cách thống nhất. Với tƣ cách là
đối tƣợng áp dụng, cả ngƣời khai hải quan, ngƣời nộp thuế và cơ quan hải quan,

24


×