Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực Thuế xuất nhập khẩu, Thuế nhập khẩu theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 130 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN THU TRANG



QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG LĨNH VỰC THUẾ
XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM




Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







HÀ NỘI - 2012

2

MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC THUẾ
XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
7
1.1.
Khái niệm và đặc điểm về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

7
1.1.1.
Khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
7
1.1.2.
Đặc điểm về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
10
1.2.
Khái niệm và nội dung cơ bản về quản lý nhà nước trong
lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
11
1.2.1.
Khái niệm về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu
11
1.2.2.
Nội dung cơ bản về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu
12
1.3.
Vai trò của quản lý nhà nước đối với thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu
21
1.3.1.
Kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
21
1.3.2.
Đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước
21
1.3.3.

Bảo hộ sản xuất trong nước
22
1.3.4.
Hạn chế tối đa hành vi vi phạm pháp luật về thuế
23
1.3.5.
Thực hiện các chính sách đối ngoại
23
1.4.
Một số cam kết quốc tế ảnh hưởng đến hoạt động quản lý
nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
24
1.4.1.
Cam kết quốc tế của Tổ chức thương mại thế giới
24
1.4.2.
Cam kết quốc tế của Tổ chức Hải quan thế giới
27
1.4.3.
Cam kết quốc tế của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
29
1.4.4.
Cam kết quốc tế song phương
30
1.5.
Kinh nghiệm và xu hướng đổi mới quản lý nhà nước trong
30

3


lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở một số nước trên
thế giới.
1.5.1.
Kinh nghiệm của Singapore trong quản lý thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu
30
1.5.2.
Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong quản lý thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu
33
1.5.3.
Kinh nghiệm của Đài Loan trong quản lý thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu
34
1.5.4.
Bài học kinh nghiệm cho Việt nam trong việc hoàn thiện
hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu
36

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC THUẾ XUẤT
KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM
39
2.1.
Chủ thể quản lý nhà nước về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
39
2.1.1.
Vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của chủ
thể quản lý nhà nước về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

39
2.1.2.
Cơ cấu tổ chức của cơ quan quản lý nhà nước về thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu
41
2.2.
Hoạt động quản lý nhà nước về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
47
2.2.1.
Hoạt động xây dựng, thu thập thông tin về người nộp thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
47
2.2.2.
Hoạt động quản lý thu nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
cho Ngân sách nhà nước
52
2.2.3.
Quản lý miễn, giảm, hoàn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
74
2.2.4.
Kiểm tra, thanh tra thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
80
2.2.5.
Xử lý vi phạm pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
86
2.2.6.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu
89


Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC
THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM
93
3.1.
Sự cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật
93

4

về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu
3.2.
Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
96
3.2.1.
Theo chương trình cải cách, hiện đại hóa ngành hải quan,
ngành tài chính, cải cách nền hành chính nhà nước
96
3.2.2.
Đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước
98
3.2.3.
Đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và lộ trình thực
hiện các cam kết quốc tế về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
98
3.3.
Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

99
3.3.1.
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về cơ quan quản lý
nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
99
3.3.2.
Hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm của
các bên liên quan trong việc cung cấp thông tin về
người nộp thuế.
101
3.3.3.
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý thu nộp
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
103
3.3.4.
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý miễn,
giảm, hoàn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
110
3.3.5.
Hoàn thiện quy định pháp luật về kiểm tra, thanh tra thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
111
3.3.6.
Hoàn thiện quy định pháp luật về xử lý vi phạm đối với thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
113
3.3.7.
Bổ sung quy định về giá trị thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
tối thiểu không thu, không truy thu, không hoàn, truy hoàn,
xử lý tiền thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nộp thừa.

114
3.3.8.
Hoàn thiện khung pháp lý để triển khai hải quan điện tử
115
3.3.9.
Xây dựng hệ thống chỉ số đánh giá hoạt động quản lý nhà
nước đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
116

KẾT LUẬN
118

TÀI LIỆU THAM KHẢO
121


5

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời
là cần thiết khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà
nước. Nhà nước để có thể tồn tại và hoạt động, thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ của mình thì cần phải có cơ sở vật chất nhất định. Do vậy, Nhà
nước phải dùng quyền lực chính trị vốn có để tập trung một bộ phận của cải
xã hội vào tay Nhà nước. Việc huy động, tập trung nguồn của cải đó được
thực hiện bằng các cách khác nhau, trong đó có hình thức đóng góp bắt buộc
được gọi là thuế. Trong cấu trúc hệ thống thuế ở mỗi quốc gia, thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu là một trong những sắc thuế có ý nghĩa quan trọng, vừa

là nguồn động viên ngân sách quốc gia, vừa là công cụ để điều tiết sản xuất
trong nước, đồng thời cũng là đòn bẩy thúc đẩy kinh tế trong nước và thương
mại quốc tế phát triển. Để phát huy tối đa vai trò của thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu, Nhà nước cần có những chính sách, quy định, công cụ phù hợp để
quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một
đề tài có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn. Pháp luật luôn thay đổi theo
thời gian. Pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu cũng không nằm ngoài quy luật khách quan này.
Một trong những thành công của tiến trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam
là việc Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), Tổ chức Hải quan thế giới (WCO), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á (ASEAN). Việt Nam đã có những chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt pháp lý cho
việc gia nhập này, đặc biệt là những quy định pháp lý về thuế xuất khẩu, nhập
khẩu. Việc hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới đã

6

đưa đến cho Việt Nam những cơ hội mới nhưng đồng thời cũng làm xuất hiện
những thách thức, ảnh hưởng tiêu cực cho công tác quản lý thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu (như dàn xếp tránh thuế, chuyển giá, ), đòi hỏi hoạt động quản lý
nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải được đổi mới về
thẩm quyền, kỹ năng, biện pháp quản lý. Các quy định của pháp luật về quản lý
nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cần được sửa đổi, bổ
sung để phù hợp hơn với các chuẩn mực, thông lệ và cam kết quốc tế, góp phần
tăng cường quản lý, giám sát thực thi công tác quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia về quyền thu thuế.
Bên cạnh đó, trước yêu cầu cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính theo
Đề án 30 của Chính phủ, các quy định về thủ tục hành chính trong quản lý thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải tiếp tục cải cách hơn nữa, đi đôi với việc tạo cơ

sở pháp lý để thực hiện hiện đại hoá công tác quản lý thuế như kê khai thuế điện
tử, hải quan điện tử
Đồng thời, thực tiễn của Việt Nam về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
trong những năm qua cũng có nhiều biến chuyển. Việc hội nhập quốc tế,
phát triển thương mại quốc tế khiến cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hóa ở Việt Nam có sự thay đổi lớn. Số lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu tăng lên nhanh chóng, nhu cầu xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa dưới
nhiều hình thức đa dạng phong phú. Điều này kéo theo việc quản lý hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu cần phải có sự thay đổi để phù hợp với thực tiễn.
Do đó, việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về việc quản lý thuế
xuất khẩu, nhập khẩu, chính sách thuế xuất khẩu nhập khẩu ở Việt Nam là
một nhu cầu cần thiết.
Từ tất cả những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Quản lý nhà
nƣớc trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo pháp luật Việt
Nam” để nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp cao học luật của mình.

7

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đề tài về pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một đề tài thu hút sự
quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả cả ở phương diện
lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, nghiên cứu về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
trên phương diện chuyên sâu về quản lý nhà nước trong lĩnh vực này thì chưa
có nhiều. Theo dõi các công trình nghiên cứu hoặc tài liệu liên quan đến thuế
xuất khẩu, nhập khẩu cho thấy:
Trong chương trình đào tạo bậc đại học, một số vấn đề của pháp luật
quản lý thuế được đề cập ở nội dung giảng dạy như, “Giáo trình Luật tài
chính Việt Nam” của Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2002; “Giáo trình
Luật thuế Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2005; “Giáo
trình nghiệp vụ thuế” và “Giáo trình lý thuyết thuế” của Học viện Tài

chính năm 2005…
Ở chương trình đào tạo sau đại học chuyên ngành luật, một số luận văn
và luận án đề cập đến vấn đề quản lý thuế dưới giác độ nghiên cứu về từng
vấn đề riêng lẻ trong toàn bộ quá trình quản lý thuế nói chung, chẳng hạn như
luận án tiến sỹ luật học “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của quản lý thuế
theo cơ chế tự khai, tự nộp” của nghiên cứu sinh Vũ Văn Cương; luận văn
thạc sỹ luật học “Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về thuế ở Việt Nam” của tác
giả Trần Trung Nhân; luận văn thạc sỹ luật học “Pháp luật Quản lý thuế và
vấn đề thực thi trong lĩnh vực hải quan” của tác giả Đoàn Mạnh Hải…
Ngoài ra, có một số bài viết nghiên cứu trên báo, tạp chí liên quan đến
quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu như bài viết “Thông tin về người nộp
thuế trong luật quản lí thuế ở nước ta hiện nay” của ThS.Vũ Văn Cương đăng
trên Tạp chí Luật học số 4/2009; “Bản chất của thuế - sự tiếp cận từ các học
thuyết thuế cổ điển và hiện đại” của TS. Nguyễn Văn Tuyến đăng trên Tạp
chí luật học số 4/2009; “Các nguyên tắc của pháp luật thuế và mô hình cấu

8

trúc của hệ thống pháp luật thuế” của TS. Nguyễn Văn Tuyến đăng trên Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật số 8/2008; bài viết “Phát triển bền vững và một số
vấn đề đặt ra cho hệ thống pháp luật thuế Việt Nam” của TS. Phạm Thị Giang
Thu đăng trên Tạp chí Luật học số 4/2009
Các công trình nghiên cứu trên phần nhiều đề cập đến một khía cạnh
trong công tác quản lý thuế nói chung mà chưa đề cập chuyên sâu về quản lý
nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, nhập khẩu.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Mục đích Luận văn của tác giả là đưa ra một cái nhìn tổng quát nhất các
vấn đề lý luận về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu; thực trạng pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng về vấn đề này. Trên
cơ sở đó có sự so sánh, đối chiếu pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực

thuế xuất khẩu, nhập khẩu ở Việt Nam qua các thời kỳ, so sánh đối chiếu pháp
luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt
Nam với pháp luật nước ngoài, các Cam kết quốc tế mà Việt Nam ký kết, tham
gia có liên quan. Đồng thời Luận văn cũng đưa ra một số ý kiến đóng góp, kiến
nghị với hy vọng góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý
nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam.
Với mục đích như trên, Luân văn có nhiệm vụ:
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: khái niệm thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu; quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
- Phân tích, đánh giá khái quát các quy định của pháp luật về quản lý nhà
nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thực tiễn áp dụng như:
cơ quan quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thủ tục hành chính quản lý
thuế cơ bản như khai thuế, ấn định thuế, thu nộp thuế; miễn, giảm, hoàn thuế;
kiểm tra, thanh tra thuế; xử lý vi phạm pháp luật vê thuế…Các quy định này

9

sẽ được phân tích đánh giá trên cơ sở đánh giá sự thay đổi so với quy định cũ
của pháp luật trước đây kết hợp với so sánh đối chiếu với pháp luật nước
ngoài, các Cam kết quốc tế có liên quan;
- Trên cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật về quản lý nhà nước trong
lĩnh vực thuế xuất khẩu, nhập khẩu để rút ra những mặt được cũng như chưa
được, nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về
quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định hiện hành về quản lý nhà
nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, nhập khẩu ở Việt Nam ; các cam kết quốc
tế về lĩnh vực này mà Việt Nam đã ký kết, tham gia cũng như một số quy định
của pháp luật nước ngoài về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, xác định theo

các giới hạn sau:
- Đối với vấn đề lý luận về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu, luận văn chỉ nghiên cứu khái niệm thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu, quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
- Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt
động quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là cơ
quan Hải quan.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cở sở phương pháp luận của triết
học Mác- Lênin về chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện
chứng, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp
quyền, chính sách của nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tác giả sử dụng phương pháp so sánh bằng cách đối chiếu từng giai
đoạn lịch sử phát triển, đối chiếu với pháp luật nước ngoài, cam kết quốc tế
liên quan.

10

Tác giả cũng sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp số liệu từ các báo
cáo định kỳ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đánh giá một cách chính
xác, khách quan thực trạng quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu.
Trên cơ sơ những phương pháp nghiên cứu này, tác giả làm sáng tỏ nội
dung đề tài nghiên cứu.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn có 3 chương sau đây:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về quản lý nhà nước trong lĩnh
vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế

xuất khẩu, thuế nhập khảu ở Việt Nam
Chương 3; Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước
trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam


11

Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC TRONG LĨNH VỰC THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP
KHẨU
1.1. Khái niệm và đặc điểm về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
1.1.1. Khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Lịch sử phát triển xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời, tồn
tại và phát triển là đòi hỏi cần thiết, khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại
và phát triển của Nhà nước. Nhà nước muốn tồn tại, hoạt động và phát triển
cần phải có cơ sở vật chất nhất định. Do vậy, Nhà nước phải dùng quyền lực
chính trị vốn có để tập trung một bộ phận của cải trong xã hội vào tay Nhà
nước. Việc huy động này được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như
quyên góp của dân, vay dân và dùng quyền lực bắt dân phải đóng góp. Trong
đó, quyên góp và vay của dân là những hình thức không mang tính ổn định
lâu dài, thường chỉ được sử dụng giới hạn trong những trường hợp đặc biệt.
Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên, Nhà nước dùng quyền lực chính
trị buộc dân phải đóng thuế.
Theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm như sau: C.Mác viết:
“Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy Nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc
thu được tiền hay tài sản của người dân để dùng vào việc chi tiêu của Nhà
nước”. Ph.Ăng ghen cũng đã viết: “Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải
có đóng góp của công dân cho Nhà nước, đó là thuế má.” Còn theo Lê Nin,
“Thuế là cái mà Nhà nước thu của dân nhưng không bù lại” và “thuế cấu
thành nên nguồn thu của Chính phủ, nó được lấy ra từ sản phẩm của đất đai

và lao động trong nước, xét cho cùng thì thuế được lấy ra từ tư bản hay thu
nhập của người chịu thuế” [27].
Tài liệu giảng dạy về thuế tại một số trường đại học tại Việt Nam đưa ra
khái niệm về thuế như sau: “Thuế là khoản thu nộp mang tính chất bắt buộc

12

mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều
kiện nhất định” [49]; “Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân
và pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định
nhằm sử dụng cho mục đích công cộng” [31].
Có thể khái quát khái niệm về thuế như sau: Thuế là một khoản đóng
góp bắt buộc mà các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ phải thực hiện theo luật
định cho Nhà nước với mức độ, thời hạn cụ thể để Nhà nước thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình.
Với tính chất là một khoản đóng góp bắt buộc của người dân cho Nhà
nước, theo thời gian, theo sự phát triển kinh tế, xã hội, mỗi quốc gia đặt ra cho
mình những sắc thuế và chính sách thuế riêng phù hợp nhu cầu phát triển của
đất nước. Một trong những sắc thuế quan trọng, chiếm tỉ trọng lớn trong
nguồn thu thuế của Nhà nước là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu có nguồn gốc từ lâu đời, được sử dụng rộng rãi trên thế
giới và còn được gọi là thuế quan. Xét trong quá trình vận động của hàng hóa
qua cửa khẩu thì thuế quan có hai loại: Thuế xuất khẩu là loại thuế đánh trên
hàng hóa xuất khẩu qua khỏi biên giới quốc gia; Thuế nhập khẩu là loại thuế
đánh trên hàng hóa nhập khẩu từ thị trường nước ngoài vào thị trường trong
nước. Theo thời gian, cùng với xu hướng phát triển, hoạt động kinh tế mỗi
nước ngày càng liên kết, hợp tác với nhau trong một tổng thể chứ không còn
giới hạn trong chính quốc gia đó. Vì vậy, các khái niệm “tự cung, tự cấp”,
“bế quan tỏa cảng” dần trở nên xa lạ với thời đại mới, thay vào đó là các khái
niệm “kinh tế mở”, “toàn cầu hóa”. Hàng hóa dịch vụ sản xuất trong nước có

thể xuất khẩu ra nước ngoài, đồng thời hàng hóa dịch vụ nước ngoài nhập
khẩu vào trong nước để đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước. Để
quản lý, kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu vào quốc gia, điều tiết nền
kinh tế, đồng thời để tăng thêm nguồn thu cho Ngân sách, Nhà nước đặt ra

13

thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và có những chính sách áp dụng phù hợp với
từng thời kỳ. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ra đời như là chiếc cầu nối để
hòa nhập kinh tế thế giới mà không phá vỡ tính cân bằng của nền kinh tế cũng
như phát huy tính lợi thế của mỗi quốc gia và trở thành công cụ điều tiết vĩ
mô nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới.
Theo Từ điển Luật học: “Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại
thuế gián thu đánh vào các loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua biên
giới”[48].
Theo Từ điển Kinh tế học (Anh – Việt – Giải thích): “Thuế nhập khẩu là
khoản thuế mà Chính phủ đánh vào sản phẩm nhập khẩu. Thuế nhập khẩu
được sử dụng để tăng nguồn thu cho Chính phủ và bảo hộ ngành sản xuất
trong nước khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài [48].
Để có thể đưa ra một khái niệm đầy đủ về thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu ta phải xác định được thuế xuất khẩu, nhập khẩu hàm chứa những nội
dung cơ bản sau:
Một là, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại thuế gián thu, một
yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hóa;
Hai là, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu áp dụng đối với hàng hóa được
phép xuất khẩu, nhập khẩu;
Ba là, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có nét khác biệt so với các loại
thuế khác là không áp dụng đối với hàng hóa sản xuất và tiêu thụ ở thị trường
nội địa mà chỉ đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu; luôn gắn với hoạt động
xuất nhập khẩu để quản lý hoạt động này và do vậy thuế xuất khẩu, thuế nhập

khẩu là một trong những công cụ thuộc chính sách kinh tế thương mại quốc tế
của một quốc gia.
Từ những nội dung trên, ta có thể định nghĩa: “Thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu là một loại thuế gián thu, một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng

14

hóa; do các tổ chức, cá nhân xuất nhập khẩu hàng hóa thuộc đối tượng chịu
thuế, thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi đóng góp cho Nhà nước theo luật định.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một bộ phận quan trọng trong hệ thống
chính sách kinh tế tài chính, thương mại vĩ mô tổng hợp, gắn liền với cơ chế
quản lý xuất nhập khẩu và chính sách đối ngoại của một quốc gia”.
1.1.2. Đặc điểm về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại thuế quan trọng, có những
đặc điểm riêng phân biệt với các loại thuế khác. Điều này thể hiện ở những
đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu. Nhà
nước sử dụng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để điều chỉnh hoạt động ngoại
thương thông qua việc tác động vào cơ cấu giá cả của hàng hóa. Thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu là một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hóa xuất nhập
khẩu. Người nộp thuế là người thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa,
người chịu thuế là người tiêu dùng cuối cùng. Việc tăng, giảm thuế suất thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu sẽ tác động trực tiếp tới giá cả hàng hóa, từ đó ảnh
hưởng tới nhu cầu của người tiêu dùng hàng hóa, buộc nhà sản xuất, xuất
nhập khẩu hàng hóa phải điều chỉnh sản xuất kinh doanh cho phù hợp.
Thứ hai, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là loại thuế gắn liền với hoạt
động ngoại thương. Hoạt động ngoại thương giữ vai trò quan trọng trong sự
phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một
công cụ quan trọng của Nhà nước nhằm kiểm soát hoạt động ngoại thương
thông qua việc kê khai, tính thuế đối với các hàng hóa xuất nhập khẩu. Việc

đánh thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thường căn cứ vào giá trị và chủng loại
hàng hóa cũng như chính sách thương mại trong từng thời kỳ.
Thứ ba, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chịu ảnh hưởng trực tiếp của các
yếu tố quốc tế như: sự biến động kinh tế thế giới, xu hướng thương mại quốc

15

tế. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu điều chỉnh vào hoạt động xuất nhập khẩu
hàng hóa của một quốc gia. Sự biến động của kinh tế thế giới, xu hướng
thương mại quốc tế trong từng thời kỳ sẽ tác động trực tiếp tới hàng hóa xuất
nhập khẩu của các quốc gia, nhất là trong giai đoạn tự do hóa thương mại, mở
cửa và hội nhập quốc tế như hiện nay. Để đạt được những mục tiêu đặt ra,
chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải có sự linh hoạt, thay đổi phù
hợp theo sự biến động của kinh tế thế giới và thương mại quốc tế, đồng thời
cũng phải đảm bảo tuân thủ theo các cam kết quốc tế mà mỗi quốc gia ký kết,
tham gia.
1.2. Khái niệm và nội dung cơ bản về quản lý nhà nƣớc trong lĩnh
vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
1.2.1. Khái niệm về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu
Khái niệm quản lý nhà nước hiểu theo nghĩa rộng được thực hiện bởi tất
cả các cơ quan nhà nước. Cũng có khi do nhân dân trực tiếp thực hiện bằng
hình thức bỏ phiếu toàn dân, hoặc do các tổ chức xã hội, các cơ quan xã hội
thực hiện nếu được nhà nước giao quyền thực hiện chức năng nhà nước. Quản
lý nhà nước ở đây không phải là quản lý cái tổ chức chính trị gọi là nhà nước,
mà là sự quản lý có tính chất nhà nước, do nhà nước thực hiện thông qua bộ
máy nhà nước, trên cơ sở quyền lực nhà nước, nhằm thực hiện các nhiệm vụ
và chức năng của nhà nước [54].
Quản lý nhà nước hiểu theo nghĩa hẹp tức là hoạt động chấp hành và
điều hành của nhà nước - chỉ là một trong bốn loại hoạt động của nhà nước

nếu xét theo pháp luật hiện hành của nhà nước ta (ba loại hoạt động khác là:
hoạt động lập pháp và giám sát sự thi hành pháp luật, hoạt động kiểm sát, hoạt
động xét xử). Hoạt động này chủ yếu được thực hiện bởi hệ thống cơ quan
nhà nước đứng đầu là Chính phủ [54].

16

Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có thể
được hiểu như sau:
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu là việc nhà nước tác động có tổ chức và bằng pháp quyền đối với
các quá trình kinh tế xã hội và hành vi của con người nhằm thực hiện các mục
tiêu chung thông qua công cụ thuế quan. Theo cách hiểu này, phạm vi của
hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
bao gồm toàn bộ các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp về lĩnh vực
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hay xét theo pháp luật hiện hành của nước ta
là toàn bộ bốn loại hoạt động lập pháp; hoạt động chấp hành, điều hành; hoạt
động kiểm sát và hoạt động xét xử.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu là việc cơ quan Hải quan sử dụng quyền lực nhà nước để tổ chức thực hiện
các quy định về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng hoá xuất nhập
khẩu. Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn, khái niệm quản lý nhà nước
trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được hiểu theo nghĩa hẹp.
1.2.2. Nội dung cơ bản về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu
Khi đề cập đến quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu, chúng ta cần phải quan tâm đến chủ thể quản lý, đối tượng quản
lý, nội dung quản lý.
1.2.2.1. Chủ thể quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu

Chủ thể quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
là cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước như: hệ thống các cơ quan lập
pháp với vai trò là người nghiên cứu và xây dựng hệ thống pháp luật thuế; các
cơ quan hành pháp với tư cách là người chỉ đạo, điều hành công tác quản lý

17

thuế. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu đề tài, luận văn chỉ đề cập đến cơ
quan Hải quan là chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động quản lý nhà nước trong
lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu với nhiệm vụ được quy định tại Điều
11 Luật Hải quan đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005: “thực hiện kiểm tra,
giám sát hàng hoá, phương tiện vận tải; phòng, chống buôn lậu, vận chuyển
trái phép hàng hoá qua biên giới; tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu; thống kê hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu;
kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách
thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu”.
1.2.2.2. Đối tượng chịu sự quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Đối tượng chịu sự quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là các tổ chức
và cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Tổ chức, cá nhân
nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bao gồm: Chủ hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu; tổ chức nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu; cá nhân có hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu khi xuất cảnh, nhập cảnh, gửi hoặc nhận hàng hóa qua cửa
khẩu, biên giới Việt Nam; đối tượng được ủy quyền, bảo lãnh và nộp thay
thuế (Đại lý làm thủ tục hải quan trong trường hợp được đối tượng nộp thuế
ủy quyền nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
bưu chính, dịch vụ chuyển phát nhanh quốc tế trong trường hợp nộp thay thuế
cho đối tượng nộp thuế); tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác hoạt động theo
quy định của Luật các tổ chức tín dụng trong trường hợp bảo lãnh, nộp thay
thuế cho đối tượng nộp thuế.

1.2.2.3. Nội dung quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập
Một trong những nội dung quan trọng của quản lý nhà nước đối với thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu là việc xây dựng mô hình tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

18

Hiện nay, các nước trên thế giới quản lý thuế theo ba (03) mô hình: (i) tổ
chức bộ máy quản lý theo sắc thuế là việc tổ chức bộ máy quản lý thuế thành
từng phòng/ban riêng biệt để quản lý một hoặc một số loại thuế cụ thể; (ii) tổ
chức bộ máy quản lý thuế theo chức năng là việc cơ quan thuế tổ chức bộ
máy thành các bộ phận riêng lẻ để thực hiện từng chức năng quản lý chính đối
với tất cả các loại thuế; (iii) tổ chức bộ máy quản lý thuế theo nhóm đối tượng
nộp thuế là việc tổ chức bộ máy quản lý thuế theo từng phòng/ban chịu trách
nhiệm cung cấp đầy đủ các dịch vụ và quản lý một nhóm đối tượng nộp thuế
xác định [12]. Mối quan hệ tổ chức bộ máy của cơ quan quản lý thuế với
Chính phủ cũng được xây dựng theo một số mô hình như: mô hình cơ quan
quản lý thuế (bao gồm cả cơ quan Hải quan) là cơ quan trực thuộc Chính phủ,
đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ hoặc mô hình cơ quan quản lý
thuế trực thuộc sự quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Hiện hành, Việt Nam đang áp dụng mô hình quản lý thuế theo chức
năng và cơ quan quản lý thuế trực thuộc sự quản lý trực tiếp của Bộ trưởng
Bộ Tài chính.
Cùng với việc xây dựng mô hình thì xây dựng cơ chế quản lý nhà nước
đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng là một nội dung quan trọng trong
quản lý nhà nước đối với lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhâp khẩu. Cơ chế
quản lý thuế thường tồn tại theo hai phương thức: (i) cơ chế cơ quan quản lý
thuế tính thuế và ra thông báo thuế; (ii) cơ chế người nộp thuế tự kê khai, tự
nộp thuế. Trong đó, quản lý thuế theo cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế là
phương thức quản lý thu thuế tiên tiến, hiện đại đang được hầu hết các nước

trên thế giới áp dụng. Theo cơ chế này thì các tổ chức, cá nhân nộp thuế căn
cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh trong kỳ kê khai của m
́
ình và căn cứ vào
các quy định của pháp luật về nghĩa vụ thuế tự tính ra số thuế phải nộp ngân
sách Nhà nước, từ đó tự kê khai và tự thực hiện nghĩa vụ nộp số thuế đã kê

19

khai vào Ngân sách Nhà nước theo đúng thời hạn qui định của pháp luật. Cơ
quan thuế không can thiệp vào quá trình kê khai, nộp thuế của tổ chức, cá
nhân kinh doanh, nhưng cơ quan thuế sẽ tiến hành thanh tra, kiểm tra và áp
dụng các biện pháp xử phạt, cưỡng chế theo luật định đối với những trường
hợp có hành vi vi phạm pháp luật về thuế như không kê khai, kê khai không
đúng, không nộp thuế, trốn thuế, gian lận về thuế
Trước đây, Việt Nam áp dụng quản lý thuế theo cơ chế cơ quan quản lý
thuế tính thuế và ra thông báo thuế. Năm 2006, Luật Quản lý thuế số 78
được ban hành với quy định về việc áp dụng quản lý thuế theo cơ chế người
nộp thuế tự kê khai, tự nộp thuế. Điều 30 Luật Quản lý thuế số 78 năm 2006
quy định:
“Điều 30. Nguyên tắc khai thuế và tính thuế
1. Người nộp thuế phải khai chính xác, trung thực, đầy đủ các nội dung
trong tờ khai thuế theo mẫu do Bộ Tài chính quy định và nộp đủ các loại
chứng từ, tài liệu quy định trong hồ sơ khai thuế với cơ quan quản lý thuế.
2. Người nộp thuế tự tính số thuế phải nộp, trừ trường hợp việc tính thuế
do cơ quan quản lý thuế thực hiện theo quy định của Chính phủ.”
Đây được coi là bước ngoặt quan trọng trong lộ trình cải cách thuế ở
nước ta nhằm hướng đến một nền quản lý thuế tiên tiến, phù hợp với thông lệ
quốc tế. Để vận hành cơ chế quản lý thuế theo phương thức này, các quy định
pháp luật về quản lý thuế phải chặt chẽ, minh bạch để làm sao quy định của

pháp luật vừa là hành lang pháp lý tạo điều kiện cho người nộp thuế chủ
động, tự giác thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhưng đồng thời cũng có cơ chế
kiểm soát chặt chẽ từ phía cơ quan quản lý thuế để người nộp thuế thực hiện
đúng theo quy định.
Bên cạnh nội dung về xây dựng mô hình tổ chức và cơ chế quản lý, khi
nói đến quản lý nhà nước đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chúng ta

20

phải nói đến nội dung tổ chức triển khai thực hiện các quy định của pháp luật
liên quan đến thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Nội dung cơ bản của việc tổ
chức thực hiện các quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
bao gồm:
Một là, thu thập thông tin về đối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu.
Thông tin về đối tượng nộp thuế cho biết “lai lịch”, “lịch sử” hoạt động
của đối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Những thông tin liên quan
đến doanh nghiệp cung cấp cho cơ quan Hải quan là những căn cứ để cơ quan
Hải quan ra các quyết định quản lý như quyết định hình thức mức độ kiểm tra,
quyết định việc có được ân hạn thuế hay không …
Để quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, cơ quan quản lý thuế trước
hết phải thực hiện tốt việc quản lý đối tượng nộp thuế như: Đăng ký mã số
thuế , quản lý đối tượng nộp thuế theo hệ thống mã số, nắm bắt cập nhật các
thông tin về đối tượng nộp thuế…Các thông tin này giúp cho cơ quan quản lý
thuế quản lý chặt chẽ đối tượng nộp thuế, quản lý hồ sơ đối tượng nộp thuế để
lưu trữ, tra cứu, kiểm tra khi cần thiết.
Hai là, quản lý thu nộp Ngân sách Nhà nước.
Một hệ thống thuế hiện đại phải được thể hiện ở quy trình quản lý thu
thuế hiện đại, tối ưu. Trên cơ sở tự tính thuế, đối tượng nộp thuế xuất khẩu,
nhập khẩu có nghĩa vụ nộp đầy đủ số thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu vào

Ngân sách theo quy định. Cơ quan Hải quan có trách nhiệm theo dõi việc thu
nộp và tổ chức việc thu đòi khi quá thời hạn mà đối tượng nộp thuế chưa nộp
vào Ngân sách. Việc quản lý các phát sinh về tiền thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu cần được thực hiện theo chuẩn mực kế toán hiện hành.
Cơ quan Hải quan tổ chức thực hiện việc thu thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu và quản lý người nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bao gồm một số

21

công việc cơ bản sau: (i) Tiếp nhận, kiểm tra việc khai thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu: phục vụ cho việc xác định chính xác số tiền thuế phải nộp, phát
hiện và ngăn chặn vi phạm, cập nhật số liệu để cung cấp thông tin cho các bộ
phận tiếp theo với độ tin cậy cao; (ii) Ấn định thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, khi thực hiện cơ chế người nộp thuế
tự tính, tự khai, tự nộp, cơ quan quản lý thuế sẽ không tính thuế và ra thông
báo thuế, người nộp thuế tự tính tự khai số tiền thuế phải nộp và tự nộp tiền
thuế vào ngân sách. Tuy nhiên, trong trường hợp người khai thuế dựa vào các
tài liệu không hợp pháp để khai báo căn cứ tính thuế, tính và kê khai số thuế
phải nộp; không kê khai hoặc kê khai không đầy đủ, chính xác các căn cứ tính
thuế làm cơ sở cho việc tính thuế; người khai thuế từ chối hoặc trì hoãn, kéo
dài quá thời hạn quy định việc cung cấp các tài liệu liên quan cho cơ quan Hải
quan để xác định chính xác số thuế phải nộp; cơ quan Hải quan có đủ bằng
chứng về việc khai báo trị giá không đúng với trị giá giao dịch thực tế; hoặc
người khai thuế không tự tính được số thuế phải nộp thì cơ quan Hải quan sẽ
ấn định thuế. Căn cứ để ấn định thuế là hàng hoá thực tế xuất khẩu, nhập
khẩu; số lượng, trị giá, mức thuế suất, phương pháp tính thuế; tài liệu và các
thông tin khác có liên quan; (iii) Kế toán, thống kê thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu; (iv) Quản lý tốt nợ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Ba là, quản lý miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; giảm thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu; hoàn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

Quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bao gồm việc kiểm soát các quá
trình miễn, giảm, hoàn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Việc xét miễn, giảm,
hoàn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cần thiết phải thực hiện theo đúng quy
định của pháp luật.
Miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một dạng ưu đãi thuế theo quy
định của pháp luật mà theo đó, chủ thể nộp thuế được miễn nộp toàn bộ số

22

tiền thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải nộp. Về bản chất, trường hợp miễn
thuế khác với trường hợp không thuộc diện chịu thuế. Không thuộc diện chịu
thuế là trường hợp không phát sinh quan hệ pháp luật giữa cá nhân, tổ chức
với Nhà nước, trong khi đó với trường hợp miễn thuế, giữa chủ thể nộp thuế
và Nhà nước có phát sinh quan hệ pháp luật về thuế, do đó phát sinh các thủ
tục về thuế như kê khai thuế, ra quyết định miễn thuế, quyết toán thuế [28].
Giảm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một dạng ưu đãi thuế theo quy
định của pháp luật mà theo đó, chủ thể nộp thuế sẽ được miễn một phần số
tiền thuế phải nộp. Đôi khi có sự khó khăn trong việc phân biệt về mặt lý luận
giữa trường hợp giảm thuế và trường hợp quy định thuế suất thấp. Giữa hai
trường hợp này có sự khác biệt cơ bản sau: (i) Việc giảm thuế thường chỉ
được áp dụng cho một khoảng thời gian nhất định chứ không phải là liên tục
lâu dài như việc áp dụng mức thuế suất thấp. Để được ưu đãi thuế dưới hình
thức giảm thuế, chủ thể nộp thuế phải có đơn đề nghị giảm thuế; (ii) Việc
giảm thuế có thể nhằm khuyến khích hoạt động sản xuất kinh doanh, hoặc là
chia sẻ với chủ thể nộp thuế khi gặp thiệt hại và những mục tiêu khác nhằm
đảm bảo công bằng, hợp lý trong việc thu thuế. Trong khi đó, việc áp dụng
mức thuế suất thấp chỉ nhằm duy nhất mục đích khuyến khích; (iii) Việc giảm
thuế có nhiều mức độ và một số trường hợp cơ quan thuế có quyền quyết định
áp dụng mức giảm thuế phù hợp. Trong khi đó, việc áp dụng mức thuế suất
thấp là do luật thuế quy định; (iv) Giảm thuế được thực hiện thông qua quyết

định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền [28].
Hoàn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là việc cơ quan Hải quan quyết
định trả một phần hoặc toàn bộ số tiền thuế mà Nhà nước đã nhận từ người
nộp thuế. Về bản chất, hoàn thuế là hành vi của cơ quan quản lý thuế trả lại
phần thuế đã thu thừa so với số thuế được quyền thu theo quy định của pháp
luật. Để được hoàn thuế, cá nhân, tổ chức có yêu cầu hoàn thuế phải gửi hồ sơ

23

đề nghị hoàn thuế đến cơ quan thuế quản lý trực tiếp hoặc cơ quan Hải quan
có thẩm quyền [28].
Bốn là, kiểm tra, thanh tra thuế xuất, thuế nhập khẩu.
Kiểm tra, thanh tra thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một hoạt động tất
yếu của cơ quan quản lý thuế để duy trì và kiểm soát hoạt động thực thi pháp
luật về thuế do nhà nước ban hành; có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Với chính sách khuyến khích chủ thể nộp
thuế tự kê khai, tính thuế và nộp thuế như hiện nay thì công tác kiểm tra thuế
là hết sức quan trọng nhằm đảm bảo phòng, chống gian lận thuế.
Kiểm tra thuế là hành vi của cơ quan quản lý thuế nhằm xác minh các
thông tin liên quan đến nghĩa vụ nộp thuế để từ đó đánh giá mức độ chấp
hành pháp luật thuế của chủ thể nộp thuế. Theo Michel Bouvier, trích của
J.Bruron, thì kiểm tra thuế là một hoạt động nhằm xem xét tính trung thực,
tính chính xác của cơ sở tính thuế mà người nộp thuế đã kê khai (Michel
Bouvier, Nhập môn luật thuế đại cương và lý thuyết thuế, NXB chính trị quốc
gia, 2005) [28].
Kiểm tra thuế xuất nhập khẩu là việc cơ quan Hải quan áp dụng các biện
pháp nghiệp vụ kiểm tra hồ sơ hải quan, kiểm tra thực tế hàng hóa nhằm xác
định tính chân thực của các khai báo hải quan về thuế xuất nhập khẩu. Tùy
theo giai đoạn kiểm tra, chúng ta chia kiểm tra thuế đối với hàng hóa xuất
nhập khẩu thành nhiều loại khác nhau, như: nếu căn cứ vào tình trạng hàng

hóa đã hay chưa thông quan, phân thành kiểm tra trước, trong và sau khi
thông quan; nếu phân theo địa điểm tiến hành kiểm tra có kiểm tra tại trụ sở
doanh nghiệp và kiểm tra tại cơ quan Hải quan.
Thanh tra thuế là hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan quản lý thuế
nhằm xác minh một nội dung cụ thể trong quan hệ pháp luật thuế. Mục đích
của hoạt động thanh tra thuế là nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các vi

24

phạm pháp luật thuế, bảo đảm lợi ích hợp pháp của Nhà nước và các chủ thể
có liên quan trong quan hệ pháp luật thuế…[28].
Thanh tra thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là việc cơ quan Hải quan thực
hiện các biện pháp nhằm xác minh, làm rõ việc chấp hành pháp luật về thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu của đối tượng nộp thuế, công chức quản lý thuế, đối tượng
liên quan khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc khi có khiếu nại, tố cáo.
So với kiểm tra thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thanh tra thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu có tính chất khác biệt hơn. Thanh tra thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu không phân loại thanh tra trước, trong và sau khi thông quan,
thanh tra tại trụ sở doanh nghiệp và tại cơ quan Hải quan, mà phân loại thành
thanh tra người nộp thuế hoặc thanh tra cơ quan quản lý thuế.
Về nội dung, kiểm tra, thanh tra thuế đều xem xét đến việc chấp hành nghĩa
vụ thuế, việc kê khai nộp thuế, việc lưu giữ chứng từ sổ sách kế toán, thanh tra
việc thực hiện các nghiệp vụ quản lý thu thuế của cơ quan quản lý thuế
Năm là, xử lý vi phạm pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu bao gồm cả việc xử lý một cách nghiêm khắc, đúng đắn các vi
phạm pháp luật về thuế xuất nhập khẩu. Việc xử lý vi phạm pháp luật về thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải đảm bảo tính minh bạch, đúng thẩm quyền…
Tùy theo tính chất, mức độ mà các hành vi vi phạm pháp luật về thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu sẽ có những biện pháp xử lý thích hợp như phạt

hành chính hay áp dụng chế tài hình sự. Các hành vi vi phạm pháp luật về
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là tội phạm sẽ bị áp dụng chế tài hình sự. Các
hành vi vi phạm không phải là tội phạm bị xử lý hành chính. Cơ quan Hải
quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu và tiến hành một số hoạt động điều tra hình sự theo quy định
của pháp luật.

25

Vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là
hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, vi phạm các
quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
Sáu là, giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Mọi công dân được quyền khiếu nại, tố cáo khi có cơ sở cho rằng các
quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan Hải quan và công chức
Hải quan là trái pháp luật về thuế xuất nhập khẩu. Cơ quan Hải quan có trách
nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng trình tự, thủ tục theo quy định.
1.3. Vai trò của quản lý nhà nƣớc đối với thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu
1.3.1. Kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
Kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu là mục tiêu chủ chốt của mỗi
quốc gia, đặc biệt trong xu thế tự do hóa thương mại trên phạm vi khu vực và
thế giới. Thông qua việc quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cơ quan
nhà nước sẽ quản lý được số lượng, loại hình hàng hóa thực xuất khẩu, nhập
khẩu, từ đó kiểm soát được tất cả hàng hóa xuất khẩu ra khỏi Việt Nam và
hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Việt Nam. Đây là cơ sở quan trọng để Nhà
nước đưa ra chính sách pháp luật phù hợp đối với hoạt động xuất nhập khẩu,
cho phép xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa nào, cấm xuất khẩu, nhập khẩu hàng

hóa nào.
1.3.2. Đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước
Quản lý nhà nước đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhằm đảm bảo
nguồn thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được đầy đủ, chính xác, kịp thời,
thường xuyên, ổn định cho Ngân sách nhà nước.

×