BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------
Hoàng Kim Oanh
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS - TS. NGUYỄN THỊ THANH XU
ÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới PGS – TS Nguyễn Thị Thanh Xuân,
người đã trực tiếp, tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, thực hiện và
hoàn thành bản luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong tổ Văn học Việt Nam,
ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, phòng Quản lí sau đại học – trường Đại học Sư phạm thành phố
Hồ Chí Minh, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi học tập và nghiên cứu.
Tôi cũng xin được gửi lời cám ơn tự đáy lòng tới Ban giám hiệu nhà trường, trường
Trung học phổ thông Vũng Tàu – Thành phố Vũng Tàu, tới gia đình và những người bạn thâ
n
thiết đã động viên, giúp đỡ để tôi hoàn thành khóa học.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 8 năm 2008.
Hoàng Kim Oanh
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ khi ra đời cho đến nay, truyện ngắn đã có những bước phát triển đáng kể, gặt hái được
nhiều thành tựu quan trọng và tạo dựng được một vị trí vững chắc bên cạnh các thể loại văn học
khác. Gọn, cơ động, dễ dàng công bố trên báo chí, khởi đi từ một tình huống, một khoảnh khắc
mà có thể hé lộ cả một số phận, một tính cách của một con người cùng một trạng thái nhân sinh
- truyện ngắn quả thật là một m
ón ăn tinh thần hấp dẫn và có tầm phổ biến rộng rãi.
Nói đến truyện ngắn Việt Nam đương đại, không thể không nhắc đến Nguyễn Huy Thiệp -
người đã góp phần làm cho đời sống văn học thời kì đổi mới trở nên sôi nổi và khởi sắc hơn
bao giờ hết. Tràn đầy tinh thần cách tân
, Nguyễn Huy Thiệp đã sử dụng một cách tối đa khả
năng của ngôn ngữ và đặc trưng của thể loại để biểu đạt một cách cao nhất ý tưởng, tình cảm
của mình. Chính vì sự mới mẻ ấy mà từ khi xuất hiện đến nay, Nguyễn Huy Thiệp đã tạo nên
dư luận. Ý kiến về truyện ngắn của ông, dù khen hay chê, tất thảy đều mạnh mẽ, quyết liệt v
à
thậm chí trái ngược nhau như nước với lửa. Thời gian trôi qua, những xúc cảm nóng bỏng về
những gì ông viết ở người đọc chuyển dần sang sự nghiền ngẫm kĩ lưỡng. Nhiều người bắt đầu
đi sâu tìm hiểu, phân tích, đánh giá tài năng văn chương của ông một cách khách quan hơn qua
những trang viết thận trọng.
Sau đúng hai mươi năm xuất hiện trên văn đàn, ngày 9 tháng 7 năm
2007, đại sứ Pháp tại
Việt Nam đã tổ chức trọng thể buổi lễ trao tặng huân chương Văn học nghệ thuật của Pháp cho
Nguyễn Huy Thiệp. Huân chương này là một phần thưởng đầy vinh dự cho Nguyễn Huy Thiệp,
điều không phải bất kì nhà văn nào cũng có thể đạt được. Nó cũng còn là một minh chứng cho
tầm ảnh hưởng rộng lớn của tác phẩm văn chương của Nguyễn Huy Thiệp đối với độc giả trên
thế giới.
Đó là những lí do chính thôi thúc chúng t
ôi lựa chọn truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp làm đề
tài nghiên cứu cho bản luận văn này.
2. Lịch sử vấn đề
Xuất hiện vào những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước, Nguyễn Huy Thiệp đã
khuấy động cả một bầu không khí sinh hoạt văn hoá, văn nghệ nước n
hà. Tác phẩm của ông,
với những hiệu ứng mà nó gây nên, đã góp phần phá vỡ thế bình ổn của văn học dân tộc trong
suốt hai cuộc kháng chiến, đồng thời tạo nên sự chuyển nhịp, tăng tốc cho những bước đi vốn
bình thường, chậm rãi của lí luận và phê bình văn học đương đại Việt Nam. Các ý kiến xung
quanh “hiện tượng” Nguyễn Huy Thiệp trong vòng hơn hai thập kỉ qua phải tính đến con số
hàng trăm và chắc hẳn con số này ngày càng một nhiều thêm.
Tháng 1 năm 1987, “Những chuyện kể bất tận của thung lũng Hua Tát”, tác phẩm đầu tay
của Nguyễn Huy Thiệp được khởi đăng, song - tác phẩm này chưa gây được tiếng vang trong
dư luận. Phải đến khi “Tướng về hưu” trình làng trên báo Văn nghệ số 24 ra ngày 20 tháng 6
năm
1987, và đặc biệt từ sau khi chùm truyện “Kiếm sắc – Vàng lửa – Phẩm tiết ” liên tiếp ra
mắt bạn đọc từ tháng 4 năm 1988, dư luận về tác phẩm của ông mới trở nên sôi nổi, tạo thành
hai xu hướng: khẳng định và phủ định, trong đó xu hướng khẳng định giữ vai trò chủ đạo.
Chủ yếu tập trung vào chùm truyện “Kiếm sắc – Vàng lửa – Phẩm tiết”, những người phê
phán Nguyễn Huy Thiệp thường có cách làm khá giống nhau. Hoặc đối chiếu các hình tượng
hư cấu trong trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp với các nhân vật lịch sử, văn hoá đã trở
nên khá quen thuộc, hoặc đồng nhất văn học với lịch sử, từ đó họ đi đến kết luận: những hình
tượng Quang Trung, Gia Long, Nguyễn Du… trong tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp là sự xuyên
tạc, bóp méo lịch sử. Nhà sử học Tạ Ngọc Liễn, lúc thì cảnh báo: “Chúng ta phải nhắc nhở anh
cần định hướng lại một cách chín chắn hơn khi ngồi trước trang giấy, đặc biệt, cần kiểm tra lại
vốn tri thức văn hoá,
vốn hiểu biết lịch sử trong hành trang anh đang có nếu như anh vẫn tiếp
tục các đề tài lịch sử” [42, tr. 170] lúc thì chỉ trích khá gay gắt, rằng Nguyễn Huy Thiệp l
à
người có “nhận thức phiến diện”, “trình độ học vấn chưa đầy đủ” [42, tr. 176],
cách viết của ông là “xúc phạm danh dự dân tộc” … Từ góc nhìn lịch sử, Tạ Ngọc Liễn yêu
cầu Nguyễn Huy Thiệp: “không được hư cấu xuyên tạc một cách tuỳ tiện, giống như không ai
được phá hoại các di tích lịch sử đã được xếp hạng” [42, tr. 471]
. Cùng một cách nhìn thiếu
thiện cảm với chùm truyện về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thúy Ái đã giật
một cái “title” khá ấn tượng cho một bài viết của mình “Viết như thế cũng là một cách bắn
súng lục vào quá khứ” [42, tr. 203]. Một vài người khác còn quả quyết rằng Nguyễn Huy
Thiệp thiếu cái tâm trong sáng của người cầm bút.
Ở xu hướng khẳng định Nguyễn Huy Thiệp, người phê bình t
hường đưa ra các lập luận xác
đáng, dựa trên cơ sở phân tích thấu đáo những đóng góp của nhà văn trên cả hai phương diện tư
tưởng và nghệ thuật. Đặc biệt, nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra rằng: trong những sáng tác của
Nguyễn Huy Thiệp, những cách tân nghệ thuật là rất cần thiết cho một khuynh hướng văn học
mới. Năm 2001, trong lời tựa cuốn Đi tìm
Nguyễn Huy Thiệp (cuốn sách tập hợp khá nhiều bài
viết về Nguyễn Huy Thiệp), Phạm Xuân Nguyên khẳng định: “…một hướng kết tinh đầy ấn
tượng của thời kì đổi mới văn học là sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Hiện tượng Nguyễn Huy
Thiệp – đó là thành quả của đổi mới”. [42, tr. 5]
Lại Nguyên Ân là một trong những người đầu tiên bênh vực Nguyễn Huy Thiệp. Phản bác
lại các ý kiến phê phán đã nói ở trên, ông viết : “đọc văn phải khác với đọc lịch sử”, và mạnh
dạn đưa ra quan điểm riêng của mình: “qua những Kiếm sắc, Vàng lửa. Tôi nghĩ l
à anh có điểm
nhấn riêng, theo kiểu văn học” [42, tr. 186, 187]. Văn Tâm khẳng định: “không thể đọc truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp (những sáng tạo thẩm mỹ) bằng đôi mắt sử ký giáo khoa thư như nhà
nghiên cứu Tạ Ngọc Liễn đã làm” [42, tr. 287]. Nguyễn Văn Lưu cho rằng: Nguyễn Huy Thiệp
không hề “bôi đen” hay “xuyên tạc lịch sử”. Anh chỉ viết theo cách cảm, cách nghĩ của riêng
m
ình. Nguyễn Huy Thiệp chỉ mượn lịch sử để bộc lộ “thái độ đối với hiện tại” [42, tr.311].
Nguyễn Văn Bổng cũng quả quyết “anh không định qua các nhân vật ấy đánh giá lại lịch sử,
đánh giá lại bản thân các nhân vật. Anh chỉ mượn các nhân vật và hoàn cảnh lịch sử để nói
chuyện khác” [42, tr. 148]. Các ý kiến của Lê Xuân Giang, Trịnh Bá Đĩnh cũng có những phát
hiện khá lí thú về hình tượng nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp, họ chứng m
inh rằng thông qua
việc xây dựng hình tượng nhân vật, Nguyễn Huy Thiệp nhằm đối thoại với bạn đọc. Như vậy,
trong sáng tác của mình, Nguyễn Huy Thiệp không đi chệch ra khỏi những vấn đề liên quan
đến con người. Và ở các tác phẩm lấy cảm hứng từ lịch sử, những gì nhà văn thể hiện cũng
không nằm ngoài mục đích ấy.
Trước những vấn đề về đời sống xã hội mà Nguyễn Huy Thiệp đặt ra trong các t
ác phẩm,
Mai Ngữ khẳng định: tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp đã “gây bất ngờ, sửng sốt cho người
đọc, khiến mọi người phải suy nghĩ nghiêm túc về thực trạng xã hội hiện nay, về sức mạnh và
khả năng của văn học” [42, tr. 418]
. Đi vào khảo sát một tác phẩm cụ thể, Vũ Đức
Phúc nhận thấy: với “Tướng về hưu”, “thực trạng xã hội thể hiện qua thái độ lạnh lùng của
nhà văn như một liều thuốc đắng thức tỉnh con người”. Hoàng Ngọc Hiến bổ sung cho luận
điểm trên bằng những nhận xét cô đọng, thấu đáo: “Dẫu là kể chuyện cổ tích, Nguyễn Huy
Thiệp trước sau vẫn viết về cuộc sống ngày hôm nay” [42, tr. 6]
. Trước những sự thật, những
xấu xa được phơi bày trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Đông La thẳng thắn đánh giá:
“Nguyễn Huy Thiệp đã xé toạc cái khách sáo của con người ở chốn đông đúc ấy để viết về cái
lõi tâm lí, cái tâm lí thật, cái tôi của con người. Từ cái cao cả đến cái thấp hèn, từ phù du ảo
huyền đến thông thục. Đó là những ao ước, khát khao, những toan tính mưu mô, kể cả những
ham muốn bản năng…Nhiều khi anh đẩy đến tận cùng khiến người đọc phải e ngại” [42, tr.
132]. Bằng tấm lòng trân trọng và thấu hiểu tài năng của Nguyễn Huy Thiệp, Hoàng Ngọc Hiến
đồng cảm sâu sắc với những trăn trở, xót xa của nhà văn khi phải đặt bút phơi bày phần khuất
tối trong mỗi con người “nói về sự đốn mạt, hèn kém của con người, câu văn Nguyễn Huy Hiệp
thường man mác cảm giác tê tái. Đằng sau cảm giác này là nỗi đau nhân tình. Một nỗi đau âm
thầm, lặng lẽ nhưng sâu sắc…Ngòi bút t
rào phúng của Nguyễn Huy Thiệp vừa trào phúng vừa
xót xa”. [42, tr. 14]
Những truyện ngắn lấy cảm hứng từ huyền thoại được công luận tán thưởng hoàn toàn.
Nguyễn Vy Khanh có những phát hiện về thi liệu dân gian trong tác phẩm của Nguyễn Huy
Thiệp: “Nhờ thể huyền thoại, Nguyễn Huy Thiệp có những đoạn truyện như là thơ, một thứ thơ
dân gian, xa chốn văn minh giả tạo và dối trá. Truyện và thơ của ông hay xen những đoạn thơ
mà tác giả coi như là một phương tiện diễn tả dễ dàng hơn văn truyện”. [42, tr. 380]
Về chất thơ trong các truyện ngắn và việc Nguyễn Huy Thiệp hay lồng thơ vào trong mỗi
sáng tác, T.N.Filimonova đã có hẳn một bài viết dài 15 trang. Ở đó, nhà nghiên cứu người Nga
này khẳng định: khi sử dụng thủ pháp này, Nguyễn Huy Thiệp đã “làm cho văn của anh trở nên
rất đặc biệt, dễ nhận ra” và đưa ra nhận xét “Hầu như mỗi truyện ngắn của anh đều hiện diện
vết tích của các huyền thoại, truyền thuyết, dân ca, tục ngữ … yếu tố dân gian t
rong tác phẩm
của anh là một đề tài rộng lớn” [42, tr. 156]. Theo ông, việc Nguyễn Huy Thiệp sử dụng các
yếu tố dân gian và hiện đại hoá, cách điệu hoá chúng không gì khác hơn là để “nêu bật được
những vấn đề vĩnh cửu về cái thiện và cái ác, về số phận đang dằn vặt con người hiện đại”.
[42, tr. 164]
Về cách viết của Nguyễn Huy Thiệp, tiến sĩ sử học người Úc – Greg Lockhart đã nhận xét:
“cách viết của Nguyễn Huy Thiệp là cách viết của một nghệ sĩ khách quan đứng ở ngoài truyện
nhìn vào. Anh ấy không bị vướng chân vào đời sống nhân vật, vừa nói về đời sống vĩ đại của
vua Gia Long, vừa nói về đời sống của một đồ tể, của một bác sĩ phá thai, thậm chí vừa nói đến
một người Tây, thì số phận con người tự bộc lộ chỉ qua lời khái quát và hành động của nó” [4
2,
tr. 112]. Để lí giải vì sao lại chọn dịch tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Anh, ông
khẳng định: tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp không chỉ là đóng góp cho văn học Việt Nam mà
“cũng l
à đóng góp cho văn học thế giới”, sở dĩ như vậy “chính là vì tính chất nhân bản của
chúng”. [42, tr. 115]
Một điều thật thú vị cần phải nói thêm rằng, ngay cả những người từng lên án chỉ trích gay
gắt ông vẫn không thể không thừa nhận tài năng của cây bút truyện ngắn độc đáo này. Bên cạnh
những lời phê phán Nguyễn Huy Thiệp, nhà sử học Tạ Ngọc Liễn viết: “mặc dầu mới xuất
hiện, song anh đã sớm chứng tỏ được mình là một nhà văn có bản sắc riêng, mới mẻ, bạo dạn,
súc tích gây được chú ý thật sự của độc giả”. [42, tr. 170]
Cùng với các bài viết đã được công bố rộng rãi trên sách báo mà những người yêu mến
Nguyễn Huy Thiệp biết tới, còn một số lượng khá lớn các bài viết được đưa lên mạng internet
rải rác trong khoảng hơn chục năm gần đây. Những tác phẩm đã từng một thời gây bao sóng gió
trên văn đàn cũng được nhìn nhận, đánh giá lại một cách bình tĩnh hơn. Khuê Các (trong
“Nhân đọc “Vàng Lửa” - nguồn Talawas năm
2005) khẳng định: “Truyện ngắn “Vàng Lửa”
của Nguyễn Huy Thiệp có ba mảng, chính xác hơn là cuộc đời của ba nhân vật: Gia Long,
Nguyễn Du và Phăng. Nguyễn Huy Thiệp không hề viết tiểu sử của ba nhân vật ấy, nhưng
thông qua họ, Thiệp muốn đi sâu vào các chủ đề: Quyền lực, quyền lợi và vai trò của trí thức
nói chung và văn nghệ sĩ nói riêng trong lịch sử nhân loại”. Bài “Triết lí văn chương trên
trang viết Nguyễn Huy Thiệp” trên Evăn cho rằng“Bởi không như Nam Cao, cuối cuộc hành
trình đó, Nguyễn Huy Thiệp không đưa ra bất kỳ một chân lý nào. Cái ông đem đến cho người
đọc lại là một sự hoài nghi về chân lý”. Trong “Đọc lại “Sang sông” (Evan ngày 21.1.2005) có
đoạn “Mười một con người, mười một gương mặt mờ nhạt. Theo tiêu chí của chủ nghĩa hiện
thực truyền thống, đó là những nhân vật
không đạt yêu cầu cả khái quát hóa lẫn cá biệt hóa.
Nhưng Nguyễn Huy Thiệp đâu có miêu tả nhân vật. Người trên đò là một tập hợp đủ các thành
phần nam phụ l
ão ấu, quân tử tiểu nhân, thiện và ác... Rõ ràng chuyến đò là sự mã hóa chúng
sinh hữu tình trôi lăn theo bánh xe sinh tử luân hồi… Nói tóm lại, đó là chúng sinh thời mở
cửa, thời kinh tế thị trường”. Nếu nhiều độc giả khó tính chê Nguyễn Huy Thiệp rằng: trong
truyện ngắn này ông đã đưa ra một hình mẫu nhân vật tên tướng cướp phi thực tế thì tác giả bài
viết trên lại có cách lí giải khác: Nguyễn Huy Thiệp đã “phá vỡ mô hình, ném vào giữa thế gian
một "tên cướp lương thiện" hoang dã, chưa qua một lò đúc sẵn nào. Nguyễn Huy Thiệp chỉ đưa
ra những mảnh vụn về thế giới nhân sinh. Người đọc mặc tình sắp xếp, lựa chọn, suy ngẫm.
Tên cướp là một mảnh vụn đó. Cho dù hắn là kẻ xấu, ta sẽ chẳng thể có căn cơ nào để đào thải
hắn ra khỏi thế giới l
oài người, cái thế giới mà Nho giáo đã dứt khoát khẳng định “nhân chi sơ
tính bản thiện”.
Soi sáng tác phẩm của một số nhà văn bằng lí thuyết văn học hậu hiện đại, tác giả La Khắc
Hoà khẳng định: “Có thể tìm thấy trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài
những câu chuyện thể hiện tâm trạng và cảm quan hậu hiện đại”. Không chỉ vậy, ông còn c
ó
những phát hiện xác đáng: “Khó tìm thấy nhân vật chính diện trong sáng tác của Nguyễn Huy
Thiệp và Phạm Thị Hoài. Đọc truyện ngắn, truyện dài của Phạm Thị Hoài và Nguyễn Huy
Thiệp ta thường nghe thấy một giọng điệu kể chuyện lạnh lùng, khinh bạc, thậm chí tàn nhẫn…
“Cuộc đời vô nghĩa” là tứ truyện chi phối mạch vận động của câu chữ, hình ảnh trong sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp.” [20]. Và hơn thế nữa, ông cho rằng,
cùng với Phạm Thị Hoài, Nguyễn
Huy Thiệp là người khởi xướng ra một xu thế mới trong kĩ thuật viết truyện ngắn: “khi Nguyễn
Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài xuất hiện, ta thấy có những dấu hiệu về một cuộc chia tay với
nguyên tắc dụ ngôn cùng với những vị ngữ bất biến, quen thuộc của nó... Khi sự hồ nghi tồn tại
đã thấm sâu vào cảm quan nghệ thuật, chắc chắn nhà văn sẽ tìm đến nguyên tắc lạ hoá làm nền
tảng cấu t
rúc hình tượng”. Nguyễn Thị Minh Thái cũng đánh giá rất cao thủ pháp “lạ hoá”
trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp: “Tiếng Việt được viết lạ chưa từng thấy. Cung cách
tưởng tượng và phản ánh hiện thực cuộc sống người Việt được “lạ hoá” một cách hiện đại
cũng chưa từng t
hấy” “Nguyễn Huy Thiệp kể một cách trầm tĩnh, ém nhẹm một cái buồn nhân
thế dưới cái nhìn “Dân chủ hoá”. Dường như nhà văn này thật kinh hãi sự giáo huấn thô lậu,
lộ liễu và chỉ muốn khơi dậy, đánh thức sự bất ổn trong người đọc” [68]. Châu Minh Hùng
cũng tìm thấy ở truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp những điểm cách tân độc đáo: “Đến Nguyễn
Huy Thiệp, hình thức đa thanh như một tổ chức nghệ thuật mới được phát huy một cách triệt
để. Nguyễn Huy Thiệp tạo ra nhiều tiếng nói
của nhiều quan điểm, tư tưởng khác nhau bên
ngoài môi trường xã hội để tạo ra cuộc đối thoại không khoan nhượng giữa các nhân vật”. [24]
Trên đây, chúng tôi đã điểm qua một số ý kiến khen chê có thể được coi là khá tiêu biểu về
sáng tác Nguyễn Huy Thiệp. Mặc dù mỗi bài có những phát hiện và cách lí giải ri
êng nhưng tựu
trung lại, đa số các ý kiến đó đều gặp nhau ở chỗ thừa nhận: Nguyễn Huy Thiệp là một tài năng
văn chương lớn, đáng để chúng ta quan tâm. Tất cả những ý kiến trên có tính chất định hướng,
gợi mở, giúp cho chúng tôi có điều kiện để hiểu hơn về văn chương cũng như con người
Nguyễn Huy Thiệp.
Một số các khoá luận, tiểu luận, luận văn tốt
nghiệp đại học, sau đại học cũng chọn tác phẩm
của Nguyễn Huy Thiệp để nghiên cứu.
Trong quá trình thu thập tài liệu, chúng tôi đã có trong tay một số tiểu luận, luận văn nghiên
cứu về sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Tiểu luận “Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp” [76], bước đầu đưa ra những kiến giải về một số yếu tố nghệ thuật cụ thể trong sáng tác
Nguyễn Huy Thiệp như: không gian và thời gian nghệ thuật cùng các ý kiến xung quanh truyện
ngắn của ông … Luận văn tốt nghiệp đại học “Tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp từ hiệu quả nghệ
thuật đến thủ pháp nghệ thuật”, đã tiến hành khảo sát những hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm
văn học Nguyễn Huy Thiệp thông qua những thủ pháp nghệ thuật mà ông sử dụng trong tác
phẩm. Luận văn thạc sĩ khoa học “Chất thơ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp” [23
], đi
sâu vào nghiên cứu chất thơ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp cũng như các phương thức
nghệ thuật nhà văn đã sử dụng để tạo nên chất thơ ấy.
Các công trình nghiên cứu khoa học này đã ít nhiều đi sâu vào nghiên cứu tìm hiểu và bước
đầu đưa ra được những lí giải khá sâu sắc về một số phương diện cụ thể trong sáng tác Nguyễn
Huy Thiệp. Tuy nhiên, để hiểu một cách đầy đủ hơn về Nguyễn Huy Thiệp nhằm xác định các
đóng góp của ông cho nền văn học Việt N
am hiện đại, chúng ta cần có một cái nhìn toàn diện,
đa chiều hơn. Và, có lẽ để có những cơ sở khách quan và chính xác, chúng ta cần đi sâu tìm
hiểu những đặc trưng chủ yếu trong nghệ thuật truyện ngắn của nhà văn tài năng này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nguyễn Huy Thiệp viết được nhiều thể loại: Truyện ngắn, kịch, tiểu thuyết, tiểu luận phê
bình, trong đó, thể loại làm
nên tên tuổi của ông là truyện ngắn. Ở thể loại này, Nguyễn Huy
Thiệp có tất cả 42 truyện. Trong đó, có những chùm truyện gồm nhiều truyện nhỏ: “Những
ngọn gió Hua Tát” (gồm 10 truyện nhỏ), “Con gái Thủy thần” (gồm
3 truyện), “Chút thoáng
Xuân Hương” (gồm 3 truyện), chùm “Kiếm sắc – Vàng lửa – Phẩm tiết”… Trong khuôn khổ
đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát toàn bộ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, trong tương
quan so sánh với truyện ngắn của một số nhà văn khác, để từ đó rút ra những đặc trưng cơ bản
của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài Đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi đã vận dụng
những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
Phương pháp phân tích - tổng hợp: Phương pháp này giúp chúng tôi t
iếp cận và khảo sát
trực tiếp văn bản và đưa ra những luận điểm khái quát của luận văn.
Phương pháp cấu trúc - hệ thống: Xem xét các yếu tố tạo nên cấu trúc tác phẩm, tìm ra
nguyên tắc chi phối sự hình thà
nh của chúng. Từ đó, rút ra kết luận về nguyên tắc chi phối việc
sáng tạo toàn bộ cấu trúc tác phẩm.
Phương pháp so sánh - đối chiếu: Là phương pháp chính, nhằm làm nổi bật sự khác biệt
của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp so với các nhà văn khác trên các phương diện: cảm hứng
nghệ thuật, phương pháp sáng tác, nghệ thuật biểu hiện…
Những phương pháp này sẽ được chúng tôi vận dụng một cách linh hoạt trong quá trình
nghiên cứu.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Với đề tài này, chúng tôi mong muốn sẽ tiếp cận được những khía cạnh cơ bản nhất đã làm
nên đặc trưng truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, để từ đó có t
hể xác định những đóng góp của
nhà văn trong lịch sử truyện ngắn nói riêng, trong đời sống văn học nói chung, cũng như chỉ ra
được sự thống nhất trong quan điểm nghệ thuật và thực tiễn sáng tác của ông.
5. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm
có 154 trang, ngoài phần Mở đầu (12 trang), Kết luận (3 trang), Tài liệu tham
khảo (6 trang) - Phần nội dung chính của luận văn (gồm có 133 trang) chia 3 chương:
Chương 1: Truyện ngắn và khái quát về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Trong chương này, chúng tôi trình bày những đặc trưng của truyện ngắn và giới thiệu khái
quát về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Chương 2: Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Từ nhân vật, chúng t
ôi tiếp cận các phương diện và đặc điểm nội dung trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp.
Chương 3: Các đặc trưng nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Chương này nhằm trả lời câu hỏi: Nguyễn Huy Thiệp đã viết như thế nào, nét mới lạ và độc
đáo của Nguyễn Huy Thiệp nằm ở đâu.
Chương 1:
TRUYỆN NGẮN VÀ KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY
THIỆP
1.1. Truyện ngắn
1.1.1. Khái niệm
Thoát thai từ thể truyện thời trung đại, khái niệm và thể loại truyện ngắn lại chỉ được xác
lập trong nền văn học hiện đại vào khoảng cuối thế kỉ XIX, cùng với báo chí.
Như tên gọi, có thể xác định truyện ngắn là một truyện kể có dung lượng ngắn, cốt truyện
tập trung vào một biến cố gọn và đơn giản, diễn ra trong một phạm
vi không gian và thời gian
nhỏ, với một số ít nhân vật.
So với tiểu thuyết, những tài liệu lý thuyết về truyện ngắn không nhiều và các định nghĩa về
khái niệm này cũng tương đối thống nhất.
Một trong những xác định súc tích và khá chuẩn về truyện ngắn là định nghĩa của Lại
Nguyên Ân: “Một thể loại tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các
phương diện của đời sống con người và xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là dung lượng; t
ác
phẩm truyện ngắn thích hợp với việc người tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền một mạch không
nghỉ”. [53, tr.1846 - 1847]
Có chung tính chất là tự sự, ranh giới giữa truyện ngắn và tiểu thuyết khá mong m
anh.
Nhiều người ghi nhận hiện tượng này: truyện ngắn “ít nhiều mang những đặc tính của tư duy
tiểu thuyết” (Lại Nguyên Ân), là “một bộ phận của tiểu thuyết” (Bùi Việt Thắng), hay là “một
dạng tiểu thuyết đặc biệt” (Vương Trí Nhàn).
Các nhà văn, với trải nghiệm thực tế của mình, đã đưa ra những cảm nhận cụ thể và một số
đúc kết đa dạng. Pautopxki đã phát biểu: “Truyện ngắn là truyện viết ngắn gọn, t
rong đó cái
không bình thường hiện ra như một cái bình thường và cái gì bình thường hiện ra như một cái
không bình thường” [44, tr 105]. Aimatov chú ý đến đặc trưng lao động nghệ thuật: “Truyện
ngắn giống như một thứ tranh khắc gỗ, lao động nghệ thuật ở đây đòi hỏi chặt chẽ, cô đúc, các
phương tiện phải được tính toán một cách kinh tế, nét vẽ phải chính xác. Đây là một việc vô
cùng tinh tế. Xoay xoả trên một mảnh đất chật hẹp, đó chính là chỗ để cho truyện ngắn phân
biệt với cá
c thể tài khác”. [44, tr. 146]. Nhấn mạnh đến chi tiết, Nguyễn Công Hoan cho
rằng “Truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết” [71, tr.
186].
Xuất phát từ những quan niệm tương đối thống nhất về truyện ngắn, chúng ta có thể nêu
ra một số đặc trưng cơ bản của thể loại này.
1.1.2. Đặc trưng truyện ngắn
1.1.2.1. Đặc trưng đầu tiên, dễ thấy nhất của truyện ngắn là dung lượng nhỏ. Thế nào là
nhỏ? Có thể nói, dung lượng thông thường của một truyện ngắn co dãn khoảng từ 3 đến 50
trang. Dưới con số 3 trang, người ta gọi là “truyện ngắn mi
ni”, hoặc “truyện ngắn trong lòng
bàn tay”; trên con số 50 trang, người ta gọi là truyện vừa, trên 100 trang là tiểu thuyết. Những
cách gọi này tương ứng với các khái niệm đoản thiên tiểu thuyết (truyện ngắn) trung thiên tiểu
thuyết (truyện vừa) trường thiên tiểu thuyết (truyện dài) vốn phổ biến ở Việt Nam vào thời kỳ
đầu của văn xuôi tự sự hiện đại. Tuy nhiên tính chất nhỏ của truyện ngắn không chỉ nằm ở dung
lượng, mà quan trọng hơn là những quy l
uật cấu tạo đặc thù của truyện ngắn. Do tính chất ngắn
gọn, truyện ngắn được tổ chức bằng các phương thức và chất liệu đặc biệt.
Về “cách nắm bắt cuộc sống của thể loại”, truyện ngắn không có tham
vọng ôm vào
mình một hiện thực rộng lớn, hoành tráng. “Ngắn ở đây đồng nghĩa với hàm súc, tinh lọc và
hay” (Bùi Việt Thắng). Nguyên tắc chưng cất của truyện ngắn không cho phép“dồn ép” hoặc
“nhồi nhét” rút gọn nội dung của một truyện dài, hoặc một hình thức tương đương như thế,
thành truyện ngắn. Nếu ta đem cắt tỉa, gọt đẽo một tiểu thuyết vài ba trăm
trang xuống chỉ còn
vài chục trang thì cái thành phẩm đặc biệt này cũng không phải và không thể trở thành một
truyện ngắn. Như vậy, ngắn gọn trong truyện ngắn là cái ngắn gọn tinh lọc và chặt chẽ. Sekhov,
một bậc thầy truyện ngắn thế giới đã ví: Truyện ngắn cũng y như trên boong tàu quân sự, ở đó
tất cả phải đâu vào đấy, không có cái gì được thừa. Khác với truyện dài và truyện vừa, truyện
ngắn phải là “một lát cắt gọn ghẽ”, “toàn truyện là một cái vòng khép kín không dài quá, không
ngắn quá, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không t
hừa một chi tiết nào”. [69, tr. 122]
Để đạt tới tầm cao và chiều sâu của ý tưởng mà vẫn sống động tự nhiên, truyện ngắn
“phải lựa chọn được một cách nhìn và một điểm nhìn tập trung, giống như cái tiêu điểm của
thấu kính, tập trung ánh sáng mặt trời để có thể đốt cháy đám bùi nhùi
” [2]. Các tác giả truyện
ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ
nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn con người. Ám ảnh và đầy ấn tượng cũng là một trong
những cách thức chiếm lĩnh hiện thực và hấp dẫn người đọc của truyện ngắn.
Về tác động của truyện ngắn, do tính chất cô
đúc, truyện ngắn có sức nén và sức công
phá cao. Chỉ cần một ít trang văn xuôi, người viết có thể làm “nổ tung trong tình cảm và ý nghĩ
của người đọc những điều rất sâu xa và da diết của con người, khiến người đọc phải nhớ mãi,
suy nghĩ mãi, đọc đi đọc lại mãi không chán” [71, tr. 148]. Đỗ Chu cũng có cùng ý kiến như
vậy, ông cho rằng: “một truyện ngắn hay có thể làm cho người ta cười lớn hoặc ứa nước mắt”
bởi vì “sức chứa trong truyện có thể rất nhiều, sức nổ rất lớn”. Lỗ Tấn thì lại cho rằng: truyện
ngắn có thể và cần phải trở thành “tòa đại lầu” để chứa đựng cả tinh thần của thời đại nhờ
phương thức biểu hiện qua một con mắt mà truyền đạt được cả tinh thần con người vốn có của
nó. Bằng sự trải nghiệm
trong cuộc đời cầm bút của mình, Thomas Mann khẳng định: Truyện
ngắn tuy bé nhỏ, nhưng “những cái bé nhỏ đó cũng có sức chứa nội tại lớn lao, cũng có thể
bao quát được toàn bộ đời sống, có thể đạt được kích thước anh hùng ca và có được tác dụng
nghệ thuật chẳng khác gì một sáng tác đồ sộ khác”[59]
.
Về tính chất thưởng thức, truyện ngắn khác tiểu thuyết ở chỗ, độc giả có thể đọc nó trong
một hơi không nghỉ: “Truyện ngắn l
à một tác phẩm tuỳ dài tuỳ ngắn, người ta có thể đọc trong
mười phút hoặc một giờ” [44, tr. 157].
Tính nhanh nhạy, cập nhật cũng là một đặc trưng của truyện ngắn. Là một thể loại dân
chủ, truyện ngắn gần gũi với đời sống hằng ngày. Với đặc thù ngắn gọn, súc tích, dễ đọc, truyện
ngắn thường gắn liền với hoạt động báo chí, có tác động mạnh mẽ, kịp thời tới cuộc sống. Ở
truyện ngắn, người viết không được dông dài, độ căng của tác phẩm p
hải “như mũi tên mà dây
cung đã bật, phải bay vụt về tới đích không thể có một phần nghìn dây trù trừ” [71, tr. 162].
Để đạt được điều này, điều cốt yếu của truyện ngắn là phải “nhạy bén trước những đổi thay của
cuộc sống [44, tr. 146]
, truyện ngắn cần bắt nhịp nhanh với cuộc sống thời hiện tại. Truyện
ngắn là thể loại thích hợp giúp nhà văn tìm hiểu về những vấn đề mới đang được đặt ra trong
cuộc sống. Người ta có thể cho phép tiểu thuyết trở về khái quát một giai đoạn đã qua, nhưng
truyện ngắn thì không thể làm thế. Truyện ngắn phải trực tiếp đả động đến điều mọi người đang
suy nghĩ trong cuộc sống ngày hôm
nay, cho dù chất liệu sử dụng trong tác phẩm là những điều
xưa cũ.
1.1.2.2. Truyện ngắn là thể loại văn xuôi tự sự. Trên phương diện này, truyện ngắn gần
với tiểu thuyết và các thể loại truyện kể dân gian như: truyện cổ tích, thần thoại, truyện cười …
và khác với tùy bút, thơ ca. Từ đặc trưng lớn có tính bao trùm này, có thể rút ra những nét riêng
của truyện ngắn như sau:
Cốt truyện: là yếu tố hết sức quan trọng của thể tự sự nói chung và truyện ngắn nói
riêng. Song, khác với tiểu thuyết, cốt truyện của truyện ngắn “thường tự giới hạn về thời gian,
không gian” (Lại Nguyên Ân). Nếu tiểu thuyết dõi theo cả một hay nhiều số phận nhân vật, và
tái hiện một bức tranh xã hội rộng lớn rậm rạp với những mâu thuẫn, xung đột và diễn biến thì
truyện ngắn, tập trung vào một khoảnh khắc, trong đó xây dựng một tình huống truyện.
Trong những bài giảng của mình về Mỹ học Hégel nói: “Tình huống là một trạng thái có tính
chất riêng biệt và trở thành được quy định. Ở trong t
huộc tính này của nó, tình huống góp phần
biểu lộ nội dung, là cái phần có được một sự tồn tại bên ngoài bằng sự hiểu biết nghệ thuật…”
[71, tr. 202]. Liên hệ với truyện ngắn, chúng ta thấy tình huống là điểm giao cắt của nhiều yếu
tố cùng một lúc, qua đó tính cách của nhân vật tức thì hiện ra và vấn đề đột nhiên được phơi
mở. Các n
hà văn, nhà nghiên cứu ở Việt Nam đôi khi đồng nhất khái niệm tình huống với tình
thế. Nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng: “Với truyện ngắn và với một tác giả có kinh nghiệm
viết … đôi khi người ta nghĩ ra được một cái tình thế xảy ra chuyện, thế là coi như xong một
nửa … tình thế truyện không cần đến những mâu thuẫn gay gắt như kịch, nhưng nó là cái cớ
hết sức chắc chắn, hết sức cụ thể và mang tính riêng, ở đó cốt truyện và nhân vật nương tựa
vào nhau để thực hiện đắc lực tất cả ý định của tác giả, ví như một cây cọc vững chắc để cho
cây bí leo lên mà ra hoa trái …”. [8, tr. 114]
Nếu tiểu thuyết là cuộc đời trong sự trọn vẹn của nó thì truyện ngắn lại là một “mặt cắt
của dòng đời”. Nếu t
iểu thuyết “diễn tả một quá trình vận động của cuộc sống” thì truyện
ngắn lại “tập trung vào một tình thế thể hiện một bước ngoặt, một trường hợp hay một tâm
trạng nhân vật”, nếu tiểu thuyết “mở ra một diện” thì truyện ngắn “tập trung xoáy vào một
điểm”. [71, tr. 73]
Về cách thức tiếp cận cuộc sống, truyện ngắn cũng có những khác biệt, nó “khái quát
cuộc sống theo chiều sâu, lấy điểm nối diện, lấy cái khoảnh khắc để nối cái vĩnh cửu”. [69, tr.
149]
Ý kiến trên được triển khai kỹ và sinh động hơn: “Tiểu thuyết thường vươn tới cái toàn
thể, truyện ngắn lại hay hướng về cái đơn nhất. Nếu ví tiểu thuyết như một căn phòng ấm áp thì
truyện ngắn có lẽ chỉ nên là một ngọn lửa nhiệt lượng tập trung thật mạnh ở nhiệt độ cao. Nếu
tiểu thuyết là một con người với đầy đủ phục sức, đường nét … thì truyện ngắn chỉ nên là một
đôi mắt nhưng đây là cửa sổ tâm hồn - hoặc thậm chí là một cá
i ngước mắt, một ánh mắt vừa
có sức cuốn hút mà độ sâu thẳm lại không thể lường được”. [71, tr. 378]
Nhiều nhà văn đã ra sức tì
m một khoảnh khắc đích đáng cho truyện ngắn của mình. Nó
có giá trị như một một điểm xoáy, một phút giao cắt, trong đó nhân vật có thể phơi mở, bộc lộ
trọn vẹn tính cách. Truyện ngắn Lặng lẽ Sapa của Nguyễn Thành Long, Kịch câm của Phan
Thị Vàng Anh, Sang sông của Nguyễn Huy Thiệp là những truyện ngắn có chứa đựng những
khoảnh khắc như vậy.
Về tính chất, điều đặc biệt ở truyện ngắn là cốt truyện của nó nhiều khi rất rõ nét,
rất li kì, hấp dẫn nhưng cũng có khi không có, hoặc mờ nhạt. Thạch Lam l
à một nhà văn có
nhiều tác phẩm có cốt truyện mơ hồ, “truyện mà không có chuyện” như thế.
Vậy có yếu tố nào khác khiến cho truyện ngắn vẫn được chấp nhận khi thiếu vắng cốt
truyện? Có lẽ, yếu tố đó chính là chi tiết.
Ở truyện ngắn, chi tiết đóng vai trò rất quan trọng. Nó góp phần tạo dựng cảnh trí, không
khí, tình huống và khắc họa tính cách, hành động, tâm tư, nh
ân vật. Nhận xét về điều này, nhà
văn Nguyên Ngọc khẳng định: “Truyện ngắn có thể có cốt truyện, thậm chí cốt truyện li kì, gay
cấn, kể được. Truyện ngắn cũng có thể chẳng có cốt truyện gì cả, không kể được nhưng truyện
ngắn không thể nghèo chi tiết. Nó sẽ như nước lã”. [49, tr.33]
Cũng nhấn mạnh chi tiết, nhà văn Vũ Thị Thường cho rằng: “viết truyện dài như làm
một
căn nhà đồ sộ, còn bắt tay viết truyện ngắn là nhận lấy việc chạm trổ một cái khay, một tấm
tranh khắc gỗ” [44, tr. 128].
Như vậy, vai trò của chi tiết trong truyện ngắn là hết sức quan trọng. Không chỉ vậy,
nhiều chi tiết đắt giá có thể nâng tác phẩm lên đến “cấp độ tượng trưng, tạo sức ám ảnh” [71,
tr. 84]. Văn học của chúng ta, có nhiều tác giả, nhiều tác phẩm đã lựa chọn được những chi tiết
như thế: chi tiết Hoàng và vợ đọc Tam Quốc vào mỗi đêm trước khi ngủ, trang trọng như một
thứ lễ nghi, chi tiết Hoàng vỗ đùi khen Tào Tháo “Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là cùng! Tiên
sư anh Tào Tháo…” trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao. Chi tiết kết thúc truyện ngắn
Oẳn tà roằn của Nguyễn Công Hoan cũng thật độc đáo, ấn tượng: “Bắc nhìn kĩ cái tóc cái mặt,
cái mũi con …Rồi giở bọc ra ngắm thằng bé … Ngắm xong, bọc cẩn thận trả lại, chàng từ từ
lui ra, thở dài một cái rõ dài, nét mặt thất vọng. Té ra thằng bé con chàng nước da lại đen như
cái cột nhà cháy. Vậy nó không phải con Rồng cháu Tiên. Nó giống Oẳn tà roằn, không biết
chống gậy”
…
Bên cạnh việc sử dụng các chi tiết đắt giá, cách kết thúc tác phẩm cũng có một vai trò
rất lớn trong việc tạo nên sự hấp dẫn của cốt truyện. Nhà văn Nga, D. Phuốcmanôp đã nói: “sức
mạnh của cú đấm (nghệ thuật) là thuộc về đoạn cuối”. Và như vậy, ta có thể hiểu rằng: với
truyện ngắn, tư tưởng tác phẩm thường thể hiện đột ngột và có thể chỉ thể hiện trong mấy dòng
cuối cùng của văn bản. O Henri là một nhà văn được nhiều độc giả trên thế giới yêu thích một
phần cũng là vì nghệ thuật kết thúc tác phẩm của ông rất độc đáo, ấn tượng.
Theo dòng lịch sử, đã có sự thay đổi đáng kể trong cách kết thúc tác phẩm của truyện
ngắn Việt Nam, từ kết thúc đóng, chuyển sang kết thúc mở. Hơn thế nữa, để nới rộng biên độ
cho độ mở của đoạn kết và kéo người đọc vào quá trình đồng sáng tạo, một số cây viết truyện
ngắn hiện đại lão luyện còn tạo ra một khoảng trống tự do ở cuối truyện.
Nguyễn Huy Thiệp là
nhà văn sử dụng hữu hiệu sức mạnh biểu đạt của những khoảng trống này (Chúng tôi sẽ còn đề
cập đến nét độc đáo này ở phần sau của l
uận văn). Lối kết thúc mở có giá trị tạo nên dư ba, tạo
nên sức ám ảnh cho người đọc, cũng là cách làm cho tác phẩm có sức sống lâu bền với thời
gian.
Là thể loại tự sự đòi hỏi một kết cấu chặt chẽ, kết cấu truyện ngắn cũng có những nét đặc
thù riêng. Theo Nguyễn Minh Châu, “Nếu tiểu thuyết là một đoạn của dòng đời thì truyện ngắn
là cái mặt cắt của dòng đời. Vì thế mà cũng như kịch ngắn, truyện ngắn đòi hỏi người viết một
công việc tổ chức và cấu trúc truyện hết sức nghiêm ngặt. Quả thực có một thứ kĩ thuật tinh xảo
- kỹ thuật viết truyện ngắn. Nó cũng giống như kĩ thuật của người làm pháo, dồn nén tư tưởng
vào trong một cốt truyện thật ngắn gọn, tự nhiên” [8, tr. 251]
. Nhiệm vụ của kết cấu là
phải tổ chức tác phẩm sao cho chủ đề tập trung, tư tưởng thống nhất và thấm sâu vào toàn bộ
các bộ phận của tác phẩm, kể cả những chi tiết nhỏ nhất.
Gọn, cơ động, kết cấu trong truyện ngắn thường đa dạng: kết cấu theo trình tự thời gian,
kết cấu bằng cách đi thẳng vào giữa truyện, kết cấu theo hai tuyến nhân vật, kết cấu tâm
lí …
Nam Cao là một trong số các nhà văn hiện đại tìm ra được những cách kết cấu tác phẩm rất đặc
trưng, ấn tượng: kết cấu tâm lí. Hiện nay, trong thực tế sáng tác truyện ngắn, nhiều nhà văn tự
tìm ra cho mình những kiểu kết cấu phá cách độc đáo, không trùng lặp và cũng rất khó gọi tên
như Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp …
Nhân vật là
một phương diện rất quan trọng của truyện ngắn. Ở các truyện ngắn đặc sắc,
bao giờ các tác giả cũng xây dựng được những nhân vật điển hình: AQ (AQ chính truyện - Lỗ
Tấn), Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao), tướng Thuấn (Tướng về hưu - Nguyễn Huy Thiệp),
Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành - Nguyễn Minh Châu…). Nếu tiểu thuyết theo
dõi, m
ô tả tỉ mỉ sự thăng trầm của số phận con người thì truyện ngắn chỉ tập trung ống kính vào
một vài khoảnh khắc của đời người. Do ngắn, gọn, truyện ngắn thường “không có mấy nhân
vật” [44, tr. 125], “một hoặc hai nhân vật chính, kèm theo đôi ba nhân vật phụ lướt đậm nhạt
mà diện xuất hiện chỉ cần có mặt với đôi đường nét mờ chìm như cảnh núi, cảnh sông” [44, tr.
26]. Là một hình thức tự sự cỡ nhỏ, truyện ngắn thường hướng tới việc “thể hiện một bước
ngoặt, một trường hợp, một trạng thái nhân vật” [71, tr. 73]. Bởi “phân tích một nỗi lòng, một
cảnh ngộ, một sự việc, phân tích một hiện tượng, một lời nói, một bức ảnh t
hì rất có thể viết từ
đầu đến cuối bằng một thái độ, bằng tâm tình của mình và viết ngắn được. Và cũng chỉ có thể
viết ngắn thôi. Điểm này cũng là điểm mà truyện ngắn khác với truyện dài. Khi viết truyện dài
tác giả chỉ có thể gửi tâm tình của mình vào từng nhân vật, trong từng sự kiện”. [44, tr. 121]
Nếu tiểu thuyết ngà
y càng có xu hướng là đa thanh, mỗi nhân vật được nhà văn phú cho
một giọng tương ứng, thì với truyện ngắn, tính chất này không phải là một yêu cầu tiên quyết.
Tuy vậy, vẫn có những truyện ngắn dung nạp nhiều giọng điệu. Lúc bấy giờ, người ta nói nhà
văn ấy viết truyện ngắn bằng tư duy tiểu thuyết, hay nói khác đi, đó là hiện tượng giao thoa về
thể loại, rất dễ thấy trong kỷ nguyên hiện đại và hậu hiện đại.
1.2. Khái quát về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
1.2.1. Vài nét về Nguyễn Huy Thiệp và hoàn cảnh ra đời của truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp
Sinh ngày 29 tháng 4 năm 1950 tại Thanh Trì, Hà Nội, Nguyễn Huy Thiệp từng có một
tuổi thơ vất vả. Ông đã cùng gia đình lưu lạc khắp nhiều vùng nông thôn của đồng bằng Bắc
Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Yên … Sau khi tốt nghiệp Khoa Sử, trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, Nguyễn Huy Thiệp đã có 10 năm g
iảng dạy ở miền núi Tây Bắc. Năm 1980, ông
trở về Hà Nội, làm việc tại công ty Sách Giáo khoa thuộc Sở giáo dục Hà Nội. Hiện nay ông
sống cùng gia đình tại Hà Nội. Ngoài công việc sáng tác, Nguyễn Huy Thiệp còn thử sức trong
nhiều công việc và ngành nghề khác nhau, gần đây nhất ông chuyển sang kinh doanh, với nhà
hàng Hoa Ban.
Nửa sau thập niên t
ám mươi, nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, Đất nước ta có sự
chuyển biến tích cực ở hầu hết mọi lĩnh vực của cuộc sống. Nghị quyết 05 của Hội nghị Ban
chấp hành trung ương Đảng, trong khi yêu cầu cụ thể hoá đường lối đổi mới trong lĩnh vực văn
hoá văn nghệ: “Đổi mới và nâng cao trì
nh độ lãnh đạo, quản lí văn học nghệ thuật và văn hoá,
phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học nghệ thuật và văn hoá phát triển lên một bước mới”
đã thúc đẩy việc đổi mới tư duy và dân chủ hoá xã hội. Không khí này nhanh chóng ảnh hưởng
mạnh mẽ và trực tiếp đến tinh thần của Đại hội nhà văn được tổ chức ngay sau đó. Nền văn học
của chúng ta thực sự đã có những bước chuyển m
ình đáng kể. Chưa bao giờ văn học lại trở nên
khởi sắc trong cả giới sáng tác lẫn phê bình như vậy. Trong số những tác phẩm văn học đã góp
phần thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới, có thể kể đến Nguyễn Mạnh Tuấn với
Đứng trước biển, Cù lao Tràm, Lê Lựu với Thời xa vắng, Dương Thu Hương với Bên kia bờ
ảo vọng, Ma Văn Kháng với Mùa lá rụng trong vườn, Nguyễn Minh Châu với Chiếc thu
yền
ngoài xa… Sự xuất hiện của các tác giả và các các phẩm trên đã ghi dấu những chuyển biến hết
sức tích cực trong đời sống văn học nước nhà. Qua các tác phẩm, ta thấy cái nhìn của nhà văn
về thế giới và con người trở nên phong phú đa dạng phức tạp hơn rất nhiều. Đồng thời, các nhà
văn đã bước đầu có ý thức tìm tòi thể nghiệm n
hững cách nhìn mới, cách đánh giá mới, những
đổi mới trong thủ pháp nghệ thuật.
Xuất hiện trên văn đàn Việt Nam đúng vào lúc Đảng và nhà nước chủ trương “Cởi trói cho
văn học nghệ thuật”, Nguyễn Huy Thiệp có điều kiện để thể nghiệm một lối đi riêng cùng với
những cách tân hiện đại trong mỗi trang viết của mình. Những tác phẩm của ông đã lập tức gây
được tiếng vang lớn và ông nhanh chóng trở thành một hiện tượng độc đáo trong đời sống văn
học đang từng bước khởi sắc của nước nhà. Người ta
chờ đón tác phẩm của ông trong sự háo
hức, và ông từng bước khẳng định tài năng cũng như phong cách văn xuôi đặc biệt của mình
trong sự tiếp nhận đa dạng: khen, chê, khẳng định, phủ định. Tác phẩm của ông đem
đến cho
độc giả những cách lí giải mới về cuộc sống, khiến họ có thể chạm sâu vào đời sống thực tế,
hiểu hơn về bản chất của nó cũng như những trạng thái nhân sinh trong buổi đầu của thời kì đổi
mới. Với hơn 40 truyện ngắn, 3 tiểu thuyết, hơn gần 10 vở kịch cùng với nhiều bài phê bình văn
học … Nguyễn Huy Thiệp quả đã đóng góp nhiều cho văn học Việt Nam
. Song, thể loại làm
nên tên tuổi và mang lại cho ông một phong cách nghệ thuật độc đáo chính là truyện ngắn.
1.2.2. Quan niệm về văn chương trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Trong các bài phê bình đã được công bố hoặc trong các bài phỏng vấn, Nguyễn Huy
Thiệp có nhiều dịp bày tỏ những quan niệm của mình về văn chương. Song, trong khuôn khổ
của đề tài luận văn, chúng t
ôi chỉ tiến hành tìm hiểu những quan niệm văn chương ông gửi gắm
trong những truyện ngắn. Đến với những trang viết của Nguyễn Huy Thiệp, người đọc có thể ít
nhiều nhận ra những quan niệm về văn chương mà ông ngầm kí thác trong đó. Không thành
những tuyên ngôn, Nguyễn Huy Thiệp cứ lặng lẽ, bình thản để cho nhân vật của mình bàn luận
về văn chương nhiều hơn là việc chính ông tự đưa ra những lời phát biểu trực tiếp.
Ở giai đoạn văn học 1930 – 1945 t
rước đây, độc giả đã quen với những quan niệm sắc
sảo, súc tích của Nam Cao về văn chương qua mảng đề tài viết về người trí thức. Những truyện
ngắn tập trung thể hiện rõ nét nhất những quan niệm văn chương của Nam Cao là Sống mòn,
Giăng sáng, Đời thừa. Những lời phát biểu hùng hồn của ông đã hằn tạc vào sâu trong trí nhớ
người đọc để trở thành những tuyên ngôn bất hủ “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa
dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ
những kiếp lầm than”. [7, tr. 105]
Với Nguyễn Huy Thiệp, tất cả không đơn giản và rành mạch như vậy. Trong truyện
ngắn của mình, nhà văn để cho nhân vật phát ngôn về văn chương, và tất cả làm nên những cái
nhìn từ nhiều lăng kính khác nhau, không đơn nhất mà đa dạng, phức tạp: “văn chương có
nhiều thứ lắm. Có thứ văn chương hành nghề kiếm sống, có thứ văn chương sửa mình, có thứ
văn chương t
rốn đời, trốn việc, lại có thứ văn chương làm loạn” (Giọt máu) có lúc văn chương
“là thứ bỉ ổi nhất” (Chút thoáng Xuân Hương), nhưng cũng có khi lại “có cái gì từa tựa lẽ
phải” (Giọt máu). Để nhân vật đối thoại với nhau như vậy về văn chương, dường như Nguyễn
Huy Thiệp m
uốn nói rằng, văn chương là một thế giới đầy bí ẩn để con người phải lặn ngụp
trong hành trình tìm kiếm, có khi là đi tìm suốt cả cuộc đời. Nhưng đặc biệt, có lẽ ông muốn
bình thường hóa văn chương bằng cách nhìn, cách nói suồng sã. Khác Nam Cao, Nguyễn Huy
Thiệp không mớm cho người đọc một chân lí nào, ngay cả khi sách đã được gấp lại. Cái ông
đem đến cho người đọc chính là sự hoài nghi về chân lí. Và với những độc giả đã quen với tâm
thế đón chờ chân lí, người ta sẽ trở nên lạ lẫm trước trang văn của ông. Vì vậy, thậm chí có
người còn vội vàng kết cho ông biết bao nhiêu thứ tội. Muốn hiểu rõ về tác phẩm của Nguyễn
Huy Thiệp, ta nên phân tích kỹ các quan niệm văn chương trên trang viết của ông.
Quan niệm về văn chương của Nguyễn Huy Thiệp, trước hết được n
hà văn kí thác qua
những phát ngôn của các nhân vật. Trong truyện Chút thoáng Xuân Hương, tri huyện Thặng
từng ngạo mạn tuyên bố: “Hách chứ … không hách để văn chương các chú làm loạn à? Văn
chương là miếng đất nghịch”. Theo Thặng, văn chương có thể “làm loạn” – nó làm loạn trong
tiềm thức của con người – một cuộc nổi loạn mà không có một thế lực nào có thể dập tắt được.
Nghĩa là bản thân nó hàm
chứa một sức mạnh ghê gớm. Những con người đầy quyền uy như
Thặng dù bề ngoài luôn tỏ ra cứng rắn nhưng thật ra hắn cũng rất khiếp sợ. Cái “hách” ấy suy
cho cùng là một sự lên gân để Thặng che dấu nỗi sợ mà thôi. Cùng chung suy nghĩ và tâm trạng
với tri huyện Thặng, Nguyễn Phúc Ánh trong Kiếm sắc cũng đã từng giảng giải về văn chương,
chữ nghĩa trong một nỗi ghét sợ vô hình: “Ta cứ ghét bọn chữ nghĩa thôi. Chữ nghĩa chúng nó
thối lắm, nguỵ biện, xảo trá, tinh vi … hành tung chúng ta chẳng lo. Toàn lũ ốm o như dòi chồ,
hèn mọn cả. Chúng nó quen tỉ tê với chữ nghĩa sẽ coi ta là vô đạo, không có tâm thế. Rửa đầu
chúng nó, ta mệt lắm”. Nói là “ chẳng lo” nhưng lại muốn “rửa đầu óc chúng nó”, tức là Ánh
cũng rất sợ, sợ sức mạnh vô hình của văn chương cũng như sợ những kẻ có khả năng sở hữu
thứ “vũ khí” lợi hại này. Vì lo không trị được những kẻ sai khiến được văn chương nên Ánh đã
cho Lân - một tay ch
ân tin cẩn nhất - đi chiêu mộ các danh sĩ Bắc Hà. Trong truyện Quan âm
chỉ lộ, Nguyễn Huy Thiệp lại để cho các nhân vật của mình bàn luận về văn chương với nhau.
Anh Lai - vụ trưởng một vụ, trong một cuộc chuyện trò chuyện với một nhà văn đàn em đã nói:
“Chú là ai? Tại sao chú lại viết ra những thứ làm cho người ta dằn vặt lòng mình? Chú có
quyền gì? Ai cho chú cái quyền năng ấy? Tư cách chú tôi gạt sang một bên. Tôi không hiểu vì
sao mọi người lại vị nể một người như chú? Ở chú có phẩm chất gì? Cao thượng ư? Không
phải! Nghi
êm cẩn ư? Cũng không phải nốt. Tôi chỉ nhận ra ở chú dục vọng hão huyền và khả
năng đánh thức cái dục vọng ghê gớm ấy ở mỗi người. Điều đó là tốt ư? Không phải? Xấu ư?
Không phải! Từ bản chất tôi vừa căm ghét vừa sợ hãi, cảm phục những người như chú”. Trong
mạch đối thoại mà n
gười đọc ngỡ như đang xem một lời độc thoại, hay nói đúng hơn, đoạn văn
trên là sự đối thoại của nhân vật với chính mình. Hầu như tất cả mọi vấn đề được nêu ra đều tồn
tại ở dạng câu hỏi. Hỏi nhà văn, nhưng chính anh Lai lại trả lời. Và qua những lời anh Lai nói,
người đọc có thể hiểu: văn chương là thứ có thể làm
ta “dằn vặt”, không những vậy, nó còn
“có khả năng đánh thức cái dục vọng ghê gớm ở mỗi người”. Vậy điều đó tốt hay xấu? Nên
hay không? Chính anh Lai hay chính chúng ta cũng sẽ phải hoài nghi. Phải chăng vai trò của
văn chương đang nằm trong một ranh giới rất mỏng manh giữa nhân văn và giả dối, giữa việc
nói lên sự thật và thoá mạ con người.
Xen
lẫn với những lời phát biểu của các nhân vật về văn chương là những lời tác giả xen
vào câu chuyện, như một thứ “trữ tình ngoại đề”. Cuối truyện Kiếm sắc, Nguyễn Huy Thiệp
không kìm được, đã nói chõ vào: “công việc viết văn vốn rất nhọc nhằn, phức tạp,
lại buồn tẻ
nữa”. Câu nói ấy cho thấy Nguyễn Huy Thiệp ý thức sâu sắc về nghề văn, và ông thường
xuyên tự vấn. Vì thế, mỗi trang viết của ông như một sự trăn đi trở lại, như một sự dằn vặt
chính mình: “Ở trường đại học tôi đã thuyết giảng về sự vô minh của con người và thế giới,
lòng khao khát của cá nhân t
ôi với cuộc sống mà thượng đế đã ban cho. Giờ nhớ lại những
điều tôi nói hôm ấy thật xa xỉ và phù phiếm, thậm chí dối trá” (Quan âm chỉ lộ). Từng mang
khuôn mặt của một kẻ kiêu ngạo, cô đơn, Nguyễn Huy Thiệp đã ý thức được nỗi cô đơn tột
cùng trong sáng tạo. Viết văn không chỉ là một công việc khiến nhà văn đối mặt với sự nhà
m
chán, “buồn tẻ” mà còn hơn thế nữa. Trong truyện ngắn Giọt máu, ông đã từng thốt lên đau
đớn: “thằng bé mơ hồ hiểu rằng học đòi văn chương là nó bước vào một cõi mà ở đấy, nó
không thể nương tựa vào bất cứ thứ gì, ngoài bản thân nó”. Không được nương tựa vào bất cứ
thứ gì đồng nghĩa với việc nhà văn phải đối diện với “một khối cô
đơn khổng lồ”. Nguyễn Huy
Thiệp cô đơn trong sáng tạo, cô đơn để sáng tạo. Ông chấp nhận sự cô đơn để được là mình.
Chấp nhận cô đơn, dấn thân vào một cuộc “hành xác” tự nguyện, để tìm ra nghĩa lí của
cuộc đời nhưng cũng có lúc chính Nguyễn Huy Thiệp lại chua chát nhận ra sự bất lực của ngôn
từ (một phương tiện đặc thù của văn chương) trước việc thể hiện những nỗi đau nhân thế:
“Tôi nghĩ về sự đơn giản của ngôn từ
Sự bất lực của hình t
hức biểu đạt
Mà nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất
Sự vô nghĩa trắng trợn đầy mặt đất
Những số phận hiu hắt đầy mặt đất
Bao tháng ngày trôi đi
Bao kiếp người trôi đi
Sự khéo léo của ngôn từ nào kể được.
(Thương nhớ đồng quê)
Là một nhà văn chân chính, Nguyễn Huy Thiệp rong ruổi kiếm tì
m gần như cả cuộc đời
mình trên cánh đồng chữ nghĩa. Tuy vậy, ít khi ông đưa ra những phát biểu có tính chất rạch
ròi. Dưới đây là một trong số những định nghĩa hiếm hoi và khác thường của Nguyễn Huy
Thiệp: “Văn chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát t
hành bướm và
hoa. Đó là chí thánh” (Giọt máu). Với lời phát biểu này, nhiều người đã phê phán Nguyễn Huy
Thiệp, cho rằng ông đã mất đi cái tâm của một người cầm bút, đã nhẫn tâm nhấn văn chương –
một thứ vốn được coi là rất cao quý, đẹp đẽ – xuống bùn. Nhưng, hơn bao giờ hết, với quan
niệm ấy, Nguyễn Huy Thiệp đã thực sự dấn thân, đã bất chấp hết, không chỉ “ngập” trong bùn
ông còn còn “sục tung” thứ bùn đen ấy lên để tìm ra nghĩa l
í của cuộc đời. Từ “bùn” chuyển
thành “bướm và hoa” là một sự lột xác đầy phiêu lưu, mạo hiểm. Nguyễn Huy Thiệp đã tự
nguyện chấp nhận sự thực đau đớn này để làm tròn thiên chức cao cả của một người cầm bút có
lương tâm và trách nhiệm.
Như vậy, những quan niệm về văn chươn
g trên trang viết Nguyễn Huy Thiệp, dù được kí
thác qua phát ngôn của nhân vật, hay là chính những phát ngôn trực tiếp của tác giả, dù bề
ngoài có vẻ thiếu nhất quán thì sâu bên trong mạch nguồn của nó vẫn có sự thống nhất. Văn
chương mà Nguyễn Huy Thiệp đã lựa chọn là thứ văn chương dấn thân. Và đến với thứ văn
chương đặc biệt này người đọc cũng rất cần có những ứng xử tương đồng.
1.2.3 . Hệ thống đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Đề tài là một khái niệm có
nội hàm rất rộng, tuy nhiên về bản chất chúng ta có thể hiểu: đề
tài là “khái niệm chỉ các loại hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong sáng
tác văn học … là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm”. [51, tr. 110]
Đề tài có mối quan hệ hữu cơ với cảm hứng nghệ thuật. Cuộc đời muôn mặt, khi nhà văn
đặc biệt quan tâm một phương diện nào đó, một khu vực nào đó, và thể hiện nó t
heo cách nhìn
nào đó: điều ấy tùy thuộc rất nhiều vào cảm hứng nghệ thuật. Cảm hứng nghệ thuật là một trạng
thái tình cảm ở cường độ đặc biệt, kết tinh thành tư tưởng và xu hướng, nó thúc đẩy nhà văn
cầm bút và làm ấm nóng trang viết: “Đó là trạng thái phấn hứng cao độ của nhà văn do việc
chiếm lĩnh được bản chất của cuộc sống mà họ miêu tả. Sự chiếm lĩnh ấy bao giờ cũng bắt
nguồn từ lí tưởng xã hội của nhà văn nhằm phát triển và cải tạo thực tại xã hội” . [60, tr. 141]
Trạng thái ấy luôn biến động, chi phối nội
dung và thủ pháp của nhà văn.
Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã thể hiện nhiều phương diện của đời sống, nhiều khuôn
mặt của con người, với những cảm
xúc khác nhau, chính vì vậy “các loại hiện tượng đời sống”
và các dạng cảm hứng trong tác phẩm của ông cũng hết sức phong phú, đa dạng. Dựa vào nội
dung tác phẩm, chúng tôi tạm chia truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thành 3 mảng đề tài
chính và 3 cảm hứng tương ứng: đề tài miền núi- nông thôn và cảm hứng trữ tình, đề tài thành
thị và cảm hứng phê phán, đề tài lịch sử và cảm hứng tự vấn.
1.2.3.1. Đề tài miền núi – nông thôn và cảm hứng trữ tình
Nguyễn Huy Thiệp đã từng sống ở vùng cao Tây Bắc trong suốt mười năm kể từ sau khi
tốt nghiệp đại học. Trong khoảng thời gian đó ông có điều kiện sống gần gũi với người dân
miền núi, được tiếp xúc với kho tàng văn học dân gian và trí tuệ dân gian. Đó là những nguồn
tư liệu phong phú, hữu ích góp phần làm
nên những thành công lớn cho Nguyễn Huy Thiệp khi
ông hoàn thiện chùm truyện Những ngọn gió Hua tát - những truyện ngắn đầu tay được phôi
thai từ những năm tháng ông còn là một chàng thanh niên trai trẻ mới bước vào độ tuổi hai
mươi.
Chưa từng đặt chân đến Hua Tát, song, qua lời giới thiệu của tác giả người đọc có thể
hình dung một cách khá cụ thể về nó. Hua Tát là một địa danh có thực nằm ở Vùng núi
Tây
Bắc Việt Nam, là “một bản nhỏ người Thái đen nằm cách chân đèo Chiềng Đông chừng dặm
đường”. Với vị thế nằm gọn trong một thung lũng hẹp và dài xung quanh có núi cao bao bọc,
với một hồ nước nhỏ không bao giờ cạn, quanh hồ rất nhiều hoa cúc vàng, vùng đất này hiện
lên rất sống động, nên thơ. Nguyễn Huy Thiệp dành cho Hua Tát những dòng miêu tả đầy sức
gợi: “Thung lũng hoa Hua Tát ít nắng. Ở đây quanh năm cứ lung bung một thứ sương mù bàn
g
bạc nên nhìn người và vật thì chỉ nhìn thấy những nét nhoà nhoà. Đây là thứ không khí huyền
thoại”. Với cách miêu tả và giới thiệu của tác giả, dù là một địa danh có thực nhưng Hua Tát lại
nhuốm đậm không khí cổ tích và huyền thoại. Dường như chừng ấy chưa đủ để người đọc hiểu
nhiều về Hua Tát, tác giả còn khẳng định “Ở Hua Tát, những truyện cổ như những bông hoa
dại màu vàng nhạt, bé như khuy áo điểm đâu đó quanh rào trong các ngõ nhỏ. Đàn ông ngậm
hoa này trong miệng uống rượu không bao giờ say. Nó cũng giống như những v
iên đá cuội
trắng, có gân đỏ, mảnh như sợi chỉ nằm kín đáo nơi lòng suối. Phụ nữ thích những viên sỏi
này. Họ nhặt nó về ủ trong áo lót đủ một trăm ngày. Khi làm đệm cho chồng, họ giấu viên sỏi
ấy vào trong. Có lời nguyền rằng, người chồng nằm trên đệm ấy sẽ
không bao giờ mơ tưởng
đến người phụ nữ khác”. Có một điều rất lạ với người miền xuôi nhưng lại trở thành một tục lệ
của dân bản – đến với Hua Tát, dù bạn là ai, nhưng nếu là người “công minh chính trực” bạn sẽ
được chủ nhà kể cho
“nghe một câu chuyện cổ”. Chuyện cổ nhưng mà rất gần chúng ta, những
con người hiện đại. Những câu chuyện tác giả kể chứa đầy những huyền thoại, những yếu tố bí
ẩn, hoang đường song chính nó lại “nói nhiều đến nỗi đau khổ của con người” và cũng chính
vì vậy nó làm “nảy nở trong ta sự sáng suốt đạo đức, lòng cao thượng, tính người” nhờ chính
sự thấu hiểu của ta về những đau khổ và khát vọng của con người. Đến với Những ngọn gió
Hua tát ta không trực tiếp gặp gỡ với những con người hôm
nay, mà được đến với những con
người trong cổ tích. Những con người ấy tuy không còn nữa nhưng linh hồn của họ “vẫn bay
thấp thoáng trên các khau cút nhà sàn”, vẫn thì thầm trong gió về cuộc đời mình và về một
thời quá khứ xa xưa của dân bản Hua Tát.
Chùm
truyện gồm tất cả mười truyện nhỏ, mỗi truyện kể về một cuộc đời, một số phận,
và tất cả đều có một sức hấp dẫn, lôi cuốn kì diệu. Trong chùm truyện, mỗi nhân vật có một
cuộc đời riêng và mỗi cuộc đời đó lại gắn liền với một sự kiện quan trọng, quan trọng đến mức
có thể đưa số phận họ rẽ sang một hướng khác. Hầu hết các nhân vật trong chùm
truyện đều là
những nhân vật có tên tuổi rõ ràng. Song, điều giống nhau ở các nhân vật này chính là những
điều kì dị khác người ở họ. Các cô gái trong chùm truyện hoặc là rất xinh đẹp “da trắng như
trứng gà bóc, tóc mượt và dài, môi đỏ như son” nhưng lại bị liệt hai chân “suốt năm suốt tháng
nằm một chỗ” như Pùa (Trái tim hổ). Hoặc có một ma lực đặc biệt để hút hồn hết cánh đàn ông
trong bản như nàng Bua với “đôi hông to khoẻ, thân hình chắc lẳn, bộ ngực nở nang mềm
mại… lúc nào cũng tươi cười tràn trề thứ ánh sáng cuốn hút lòng người”, nhưng cô cũng chín
h
là mẹ của chín đứa con mà không có ai – ngay cả cô – biết đích xác ai là bố của chúng. Người
phụ nữ có ma lực ấy bị dân bản rủa thầm là “quỷ dữ”. Hoặc vừa xinh đẹp vừa đức hạnh “ít có
người bì kịp” cùng với một trí tuệ thông minh sắc sảo như Hà Thị E, con gái của trưởng bản Hà
Văn Nó trong Tiệc xòe vui nhất. Song cũng có khi trái ngược hoàn toàn, xấu xí “gày gò bé nhỏ
… sống thui thủi như con chim cút” như nàng Sinh trong câu chuyện cùng tên. Hoặc câm
lặng
đến kì cục như người vợ của lão thợ săn nhập cư trong Con thú lớn nhất: “ lúc nào cũng âm
thầm, im lặng suốt ngày không hề thấy nói một tiếng”…
Các nhân vật nam giới trong chùm truyện viết về miền núi này cũng là những con người
kì lạ, khác thường. Hoặc dị dạng về hình hài như chàng Khó (Trái tim hổ) “Chàng bị đậu mùa,
mặt rỗ chằng chịt… hai tay dài chấm đầu gối, đôi
chân khẳng khiu, lúc nào đi cũng như chạy”.
Hoặc có một vẻ bề ngoài phong độ và tráng kiện đến bất ngờ như ông Pành trong Đất quên. Dù
đã hơn tám mươi tuổi “nhưng hàm răng của ông vẫn còn đều tăm tắp như răng chàng trai
mười bảy tuổi. Cối đá giã gạo, ông dùng một tay cử lên như bỡn. Ông làm bằng ba người khác.
Uống rượu cũng vậy, sức ông có thể chấp nổi muôn người”. Với độ tuổi ấy ông Pành vẫn có cơ
hội được “ngợp t
rong cảm giác huyền diệu” và bất chấp mọi lời bỡn cợt của dân bản để đến
cầu hôn cô Muôn - một cô gái trẻ, xinh đẹp ở bản Mường Lưm. Hay chàng Sạ trong câu chuyện
cùng tên lại tạo dấu ấn trong l
òng người đọc bởi cá tính ương nghạnh khác người của mình, để
đến nỗi biệt danh “thằng điên”, “thằng rồ”, “kẻ khùng” trở thành tên gọi thân thuộc nhất mà
dân bản dành cho chàng. Hay nhân vật Lù trong Nạn dịch lại có một khả năng chơi bài siêu
phàm đến nỗi “các tay cờ bạn ngờ ông hẳn có bùa chú”.
Sống với núi rừng, nghề đi săn trở thành một trong những nghề kiếm sống chủ lực của
dân bản. Những người thợ săn hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp cũng có những
khả năng đặc biệt, khác thườn
g. Người thợ săn ngụ cư trong Con thú lớn nhất là một “tay thợ
săn cự phách. Khẩu súng kíp trong tay lão như có mắt. Mỗi khi khẩu súng giơ lên, ít có chim
chóc hoặc thú rừng nào thoát chết”. Hoàng Văn Nhân trong Sói trả thù lại là một người luôn
“cầm chịch trong các mùa săn”, “không biết sợ là gì”…
Cuộc sống của dân bản Hua tát hiện lên với rất nhiều thăng trầm, trải qua nhiều trạng
thái, hoàn cảnh khác nhau. Có những lúc cuộc sống ấy bị đe dọa bởi những nạn dịch, những thế
lực thiên nhiên: như nạn sâu đen, dịch tả, động rừng, hạn hán … Song cũng có lúc cuộc sống lại
được gợi ra thật thú vị, hấp dẫn qua những sinh hoạt văn hoá mang đậm bản sắc riêng m
à
không phải vùng miền nào cũng có: Tiệc xoè, lễ kén rể, lễ cưới …
Người dân miền núi sống gần gũi chan hoà với thiên nhiên. Thiên nhiên tạo cho họ cuộc
sống, đem đến cho họ kế sinh nhai. Song, cũng chính họ - những con người của núi rừng - là
những kẻ góp phần huỷ hoại thiên nhiên nhiều nhất. Lão thợ săn ngụ cư trong Con thú lớn
nhất trở thành nỗi khiếp đảm sợ hãi của chim
muông, thú rừng. Sau nhà lão “lông chim, xương
thú chất thành đống”. Không những vậy, người ta còn quả quyết đã có lần nhìn thấy hắn bắn
chết một con chim công đang say sưa với vũ điệu của tình yêu. Hoàng Văn Nhân cùng phường
thợ săn quyết tâm triệt hạ gần hết bầy sói, trong đó có con sói mẹ cố gắng tìm mọi cách thoát
thân để trở về bảo vệ bầy sói con… Kết cục, chính những kẻ ác tâm, tàn phá huỷ diệt môi
trường ấy đã gánh chịu sự trả t
hù như một báo ứng tất yếu. Lão thợ săn ngụ cư cuối cùng tự tay
bắn chết người vợ và bắn chết chính mình. Đứa con trai duy nhất của Hoàng Văn Nhân – trong
ngày lễ cúng ma đã bị chính con sói con duy nhất còn lại trong đàn sói bị bố nó tiêu diệt ngày
nào trả thù. Con sói trả thù mới khủng khiếp làm sao: “nó cắn, cào, nhay, nhá, nó rứt từ cổ
thằng San ra từng mảnh thịt, từng sợi gân và dây chằng bê bết máu” (Sói trả thù).
Một điều nữa cũng hết sức đáng quan tâ
m là trong chùm truyện về đề tài miền núi này,
các nhân vật bao giờ cũng được tác giả đặt vào các sự kiện trọng đại để họ có thể bộc lộ, tính
cách, phẩm chất. Trước những sự kiện đó nhân vật có 2 cách ứng xử. Hoặc l
à cố gắng chinh
phục, vượt qua thử thách, cố gắng để đạt mục đích của mình. Chàng Khó trong Trái tim hổ
cũng đi săn nhưng “không phải để lấy bùa phép may mắn” mà để chàng “lấy thuốc về chữa
cho Pùa”. Lão thợ săn trong Con thú lớn nhất “suốt đời lão chỉ săn được những con chim, con
thú bình thường … chưa bao giờ lão săn được con thú lớn ba bốn tạ thịt” và lão rất khổ tâm
,
dằn vặt về điều đó. Lão mơ ước săn được một con thú thật lớn. Hà Thị E, cô gái thông minh,
sắc sảo trong Tiệc xòe vui nhất, vì mong muốn lấy được tấm chồng có “đức tính quý nhất” nên
đã cùng cha và dân bản mất công tổ chức rất nhiều cuộc kén rể. Ông Pành (Đất quên) muốn
chặt được cây lim to nhất ở đỉnh Phu Luông để chứng tỏ tì
nh yêu say đắm với Muôn. Sạ mang
trong mình “niềm ham muốn và những khát vọng mãnh liệt”, chàng đã làm những trò tinh quái
mục đích để đạt những khát vọng nhưng mọi người không hiểu, chàng rơi vào “nỗi cô đơn