Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Pháp luật thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện Việt Nam thực thi cam kết WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 96 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT








NGÔ KHÁNH PHƯỢNG




PHÁP LUẬT THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU TRONG
ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM THỰC THI CAM KẾT WTO



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC














Hà Nội – 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







NGÔ KHÁNH PHƯỢNG






PHÁP LUẬT THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU TRONG
ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM THỰC THI CAM KẾT WTO






Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN

Hà Nội – 2010
MỤC LỤC
Trang

Phần mở đầu
1
1.
Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
1
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
3
3.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
5
4.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
6
5.
Phương pháp nghiên cứu đề tài

6
6.
Kết quả mới đạt được của luận văn
7
7.
Bố cục và nội dung cơ bản của luận văn
7

Chương 1. Một số vấn đề lý luận về xuất nhập khẩu hàng hóa và
pháp luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu trong điều kiện Việt Nam
thực thi cam kết WTO
8
1.1.
Nhu cầu về xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa của thị trường Việt
Nam sau khi gia nhập WTO
8
1.1.1.
Nguyên nhân thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
8
1.1.2.
Nhu cầu xuất khẩu, nhập khẩu của thị trường Việt Nam
11
1.2.
Khái niệm xuất nhập khẩu hàng hóa và thuế xuất nhập khẩu
16
1.2.1.
Khái niệm xuất nhập khẩu hàng hóa
16
1.2.2.
Khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

18
1.3.
Những cam kết quốc tế của Việt Nam về thuế xuất nhập khẩu khi
gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
23
1.3.1.
Cam kết chung của Việt Nam khi gia nhập WTO
24
1.3.2.
Các cam kết cụ thể về thuế quan của Việt Nam
26
1.4.
Pháp luật về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện
thực thi cam kết WTO
28
1.4.1.
Khái niệm pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu trong điều kiện
thực thi cam kết WTO
28
1.4.2.
Điều chỉnh pháp luật của Việt Nam đối với thuế xuất nhập khẩu
trong điều kiện thực thi cam kết WTO
30
1.5.
Xu hướng phát triển của thuế xuất khẩu, nhập khẩu trong giai đoạn
hội nhập toàn cầu
36
1.5.1.
Xu hướng chung của các nước trên thế giới
36

1.5.2.
Chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam sau khi gia nhập
WTO
37

Kết luận chương 1
39

Chương 2. Thực trạng pháp luật về thuế xuất nhập khẩu của
Việt Nam trong điều kiện thực thi cam kết WTO và phương
hướng, giải pháp hoàn thiện
40
2.1.
Thực trạng pháp luật về xuất nhập khẩu của Việt Nam trong điều
kiện thực thi cam kết WTO
40
2.1.1
Thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam sau khi gia
nhập Tổ chức thương mại thế giới …………………………………
40
2.1.2
Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về thuế xuất nhập khẩu của
Việt Nam trong điều kiện thực thi cam kết WTO
43
2.1.2.1
Nội dung quy định pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu của
Việt Nam trong điều kiện thực thi cam kết WTO
43
2.1.2.2
Đánh giá các quy định pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu của

Việt Nam trong điều kiện thực thi cam kết WTO
57
2.1.2.3
Cơ sở điều chỉnh pháp luật đối với thuế xuất nhập khẩu của Việt
Nam trong điều kiện thực thi cam kết gia nhập WTO
73
2.2.
Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thuế xuất nhập
khẩu của Việt Nam trong điều kiện thực thi cam kết WTO
76
2.2.1.
Các yêu cầu đặt ra đối với pháp luật về thuế xuất nhập khẩu trong
điều kiện Việt Nam thực thi cam kết WTO
77
2.2.2.
Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thuế xuất nhập
khẩu ở Việt Nam trong điều kiện thực thi cam kết WTO
80
2.2.2.1
Phương hướng hoàn thiện pháp luật thuế xuất nhập khẩu ở Việt
Nam trong điều kiện thực thi cam kết WTO
80
2.2.2.2
Giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu
82

Kết luận chương 2
85

Kết luận chung

87

Danh mục tài liệu tham khảo
89



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


WTO:
Tổ chức Thương mại thế giới
ASEAN:
Tổ chức các quốc gia Đông Nam Á
EU:
Cộng đồng Châu Âu
FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
IMF:
Quỹ tiền tệ quốc tế
MFN:
Chế độ đối xử tối huệ quốc
NT:
Chế độ đối xử quốc gia
OECD:
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
CEPT:
Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung
GATT:
Hiệp định chung về thương mại và thuế quan

AFTA:
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
USD:
Đồng Đô la Mỹ



1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan, là tiền đề cho quá
trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nƣớc, thu hẹp dần khoảng cách với
các nƣớc trên thế giới. Đó cũng chính là lý do mà WTO (Tổ chức thƣơng mại
thế giới) có đƣợc số lƣợng thành viên đông đảo, đặc biệt số lƣợng các nƣớc
đang phát triển chiếm một tỷ lệ lớn mà các tổ chức quốc tế mới ra đời không
thể có đƣợc. Bởi vì, khi gia nhập WTO mỗi quốc gia phải có những nghĩa vụ
nhất định, nhƣng đổi lại các quốc gia sẽ đƣợc hƣởng những lợi ích mà WTO
mang lại cho thành viên của mình.
Nhận thức đƣợc tính tất yếu về quy luật phát triển của nền kinh tế của
thế giới rằng Việt Nam muốn phát triển đƣợc nền kinh tế của nƣớc mình thì
không thể đứng ngoài sân chơi chung WTO mà phải nắm bắt cơ hội để đƣa
đất nƣớc nhanh chóng hội nhập với thế giới một cách chủ động, tích cực, đạt
hiệu quả cao. Đồng thời, để đảm bảo cho việc gia nhập WTO đạt đƣợc hiệu
quả cao nhất, Việt Nam đã xem xét những vấn đề đặt ra đối với quá trình gia
nhập của Việt Nam trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và pháp luật. Tuy nhiên,
Việt Nam đã xem xét các lĩnh vực này trong mỗi quan hệ biện chứng, tác
động qua lại với nhau. Vì vậy, Việt Nam đã đàm phán gia nhập WTO với tƣ
cách là một quốc gia đang phát triển, có thu nhập thấp.
Với chủ trƣơng hội nhập, Việt Nam đã có nhiều biến chuyển về mặt
chính sách, pháp luật kinh tế-thƣơng mại phù hợp với các quy định của WTO.

Đây cũng là yêu cầu chung đối với hầu hết các nƣớc, để đƣợc công nhận là
thành viên của WTO. Chính vì vậy, liên quan đến pháp luật thuế xuất khẩu,
nhập khẩu – một vấn đề quan trọng có tính chất quyết định đối với việc gia
nhập WTO, Việt Nam đã phải có những sửa đổi, điều chỉnh nhất định để tạo
cơ sở thuận lợi cho quá trình đàm phán để gia nhập. Quá trình phát triển về
thuế xuất khẩu, nhập khẩu có thể đƣợc tóm tắt nhƣ sau: Việt Nam bắt đầu


2
đánh thuế xuất khẩu, nhập khẩu theo Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu hàng
mậu dịch ngày 29/12/1987. Năm 1991, Việt Nam đã ban hành Luật thuế xuất
khẩu, nhập khẩu thay thế cho Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu hàng mậu dịch
năm 1987. Đến năm 1991, Việt Nam đã ban hành Luật thuế xuất khẩu, nhập
khẩu năm 1991, sau đó luật thuế này đƣợc sửa đổi, bổ sung năm vào các năm
1993, 1998. Tiếp theo đó, để chuẩn bị cho quá trình gia nhập WTO, bên cạnh
việc ban hành mới một loạt các văn bản pháp luật, ngày 27/6/2005, Luật thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 của Quốc hội đã đƣợc ban hành,
thay thế cho toàn bộ các quy định về luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu trƣớc đó.
Tiếp sau đó, từ năm 2005 đến năm 2007 một loạt các văn bản hƣớng dẫn về
thuế xuất nhập khẩu cũng đƣợc ban hành. Mặc dù các văn bản này mới xây
dựng khung pháp lý ban đầu nhƣng đã tạo ra động lực thúc đẩy, khuyến khích
các doanh nghiệp mở rộng hoạt động kinh doanh tiếp cận thị trƣờng đầu tƣ
quốc tế và khu vực và đặc biệt tạo đƣợc một cơ sở pháp lý về thuế xuất nhập
khẩu ban đầu phù hợp với quy định của WTO nhằm tạo điều kiện cho quá
trình gia nhập đạt đƣợc hiệu quả.
Ngày 7/11/2006, Việt Nam đƣợc chính thức công nhận là thành viên của
Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO). Nhƣ vậy, sau một loạt các cuộc đàm
phán đa phƣơng nhằm xem xét chế độ ngoại thƣơng của Việt Nam và căn cứ
vào những giải thích, cam kết và nhƣợng bộ mà đại diện Việt Nam đƣa ra,
Đại hội đồng đã thông qua các cam kết chung mang tính nguyên tắc về điều

kiện và Quy chế thành viên của Việt Nam tại WTO, bao gồm các quy định
liên quan đến thuế xuất khẩu, nhập khẩu (nằm trong phần “Báo cáo của Ban
công tác”) và cam kết ràng buộc về mức thuế suất MFN đối với từng dòng
thuế (Biểu cam kết hàng hóa của Việt Nam, là một phần không tách rời của
Nghị định thƣ gia nhập WTO của Việt Nam), cam kết tham gia các Hiệp định
ngành (Hiệp định về Công nghệ thông tin, Dệt may, thiết bị y tế…). Tuy
nhiên, khi đã trở thành thành viên chính thức của WTO, nhƣng một số chính
sách và quy định pháp luật về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam vẫn chƣa


3
tƣơng thích với các quy định của WTO. Nếu Việt Nam vẫn duy trì chính sách
khác với quy định của WTO thì sẽ bị các nƣớc thành viên đƣa vụ việc ra giải
quyết theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Nếu cơ quan giải quyết
tranh chấp của WTO (DBS) khẳng định chính sách của hay biện pháp của
Việt Nam trái với các quy định của WTO thì Việt Nam phải loại bỏ, nếu
không sẽ phải bồi thƣờng hoặc bị áp dụng cơ chế trả đũa. Do đó, Việt Nam
phải điều chỉnh chính sách, hoàn thiện hệ thống pháp luật cho phù hợp với các
quy định của WTO cũng nhƣ nhằm thực thi đầy đủ các cam kết của Việt Nam
khi gia nhập WTO.
Nhƣ vậy, với sự gia nhập WTO, trƣớc áp lực mạnh mẽ của việc cam kết
và thực thi lĩnh vực thuế quan trong hoạt động xuất nhập khẩu, đã đến lúc
thuế xuất nhập khẩu không thể tiếp tục mang tính thử nghiệm mà phải nhanh
chóng bắt nhịp với sự phát triển của dòng thuế quốc tế, thúc đẩy tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Trên phƣơng diện pháp luật, đã và đang
đặt ra những yêu cầu nghiên cứu về lý luận và thực tiễn điều chỉnh pháp luật
đối với thuế xuất nhập khẩu và một trong những yêu cầu đó, cũng đƣợc xác
định là yêu cầu cơ bản và quan trọng nhất tại thời điểm hiện nay khi Việt
Nam vừa gia nhập và đang bƣớc những bƣớc đầu tiên thực hiện cam kết về
thuế quan của WTO là cần điều chỉnh pháp luật về thuế xuất nhập khẩu trong

nƣớc cho phù hợp với các cam kết về thuế quan của Việt Nam khi gia nhập
WTO. Nghiên cứu đề tài “Pháp luật thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện
Việt Nam thực thi cam kết WTO” với tính chất là một hƣớng tiếp cận vấn
đề còn khá mới mẻ trong gian đoạn này, nhằm phân tích thực trạng pháp luật
về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam, nhận diện những vấn đề lý luận và thực
tiễn liên quan đến điều chỉnh pháp luật đối với thuế xuất nhập khẩu là hoạt
động cần thiết trong bối cảnh hiện nay cả trên phƣơng diện lý luận và thực
tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài


4
Thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện thực thi cam kết
WTO mới đƣợc triển khai trong thời gian gần 03 năm (từ năm 2007 đến
2010) và còn mang tính chất thử nghiệm với nhiều giới hạn trong chính sách
thuế xuất nhập khẩu. Mặc dù Chính phủ Việt Nam đã và đang nỗ lực cải cách
chính sách, sửa đổi pháp luật về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam cho phù
hợp với cam kết và thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, việc sửa đổi pháp luật, chính
sách về thuế suất nhập khẩu hiện nay mới chỉ dừng ở tính chất lẻ tẻ, giải pháp
tạm thời của Nhà nƣớc Việt Nam nhằm từng bƣớc đáp ứng yêu cầu thực thi
theo cam kết WTO, chƣa thực sự có sự tham gia của giới chuyên môn và giới
nghiên cứu kinh tế và pháp lý. Trong bối cảnh đó, hoạt động về thuế xuất
nhập khẩu nói chung và thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện
thực thi cam kết WTO nói riêng chƣa thực sự nhận đƣợc sự quan tâm của giới
nghiên cứu.
Cho đến nay, hầu nhƣ chƣa có một công trình khoa học nào nghiên cứu
một cách toàn diện về pháp luật thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện Việt
Nam thực thi cam kết WTO. Việc nghiên cứu thuế xuất nhập khẩu của Việt
Nam mới chỉ đƣợc đề cập dƣới dạng các bài viết đƣợc đăng tải rải rác trên tạp
chí chuyên ngành hoặc dƣới hình thức các ý kiến tản mạn của các chuyên gia,

các đại diện của cơ quan quản lý nhà nƣớc về hoạt động thuế xuất nhập khẩu
trong các cuộc trả lời phỏng vấn của các cơ quan báo chí. Cụ thể, đề cấp đến
hệ thống pháp luật về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam có bài viết của Tiến
sĩ Đinh Ngọc Thịnh - Học viện Tài chính với tiêu đề: Hoàn thiện chính sách
thuế trong quá trình hội nhập WTO, đăng tải trên báo điện tử VNN ngày
17/8/2007; hoặc đề cập đến chính sách chung về thuế xuất nhập khẩu của Việt
Nam trong điều kiện gia nhập WTO có các bài viết đƣợc đăng tải trên các
website báo điện tử hoặc tạp chí nhƣ: Luật thuế xuất nhập khẩu phải minh
bạch hơn để gia nhập WTO của Nguyễn Sa (Vietnamnet) hoặc Gia nhập
WTO: Thuế xuất nhập khẩu chịu tác động trực tiếp (Vnmedia) và Việt Nam
với WTO (chuyên đề số 01/2007 đƣợc xuất bản bởi Nhà xuất bản Tƣ pháp)…


5
Nhìn chung, nội dung nghiên cứu về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam
trong điều kiện thực thi cam kết WTO của các tác giả, các nhà nghiên cứu
mới chỉ dừng ở việc nhận diện và phân tích những khó khăn, trở ngại, một số
hạn chế về pháp luật thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam và đề xuất các yêu
cầu về cải thiện môi trƣờng chính sách chung cho hoạt động xuất nhập khẩu
nhƣ cải cách thủ tục hành chính, thay đổi quy trình quản lý thuế, xây dựng và
điều chỉnh hệ thống thuế xuất nhập khẩu, mà không đi sâu vào phân tích
trên bình diện lý luận và thực tiễn bản chất của hoạt động thuế xuất nhập khẩu
của Việt Nam trong điều kiện thực thi cam kết WTO. Vì vậy, có thể nói đề tài
Pháp luật thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện Việt Nam thực thi cam kết
WTO là một đề tài độc lập và không trùng lặp với các đề tài đã đƣợc nghiên
cứu từ trƣớc đến nay. Tuy nhiên, tác giả luôn có ý thức kế thừa, học hỏi
những kết quả mà các công trình khoa học, các bài viết, và các ý kiến của các
chuyên gia cũng nhƣ các kinh nghiệm thực tiễn có liên quan đến đề tài trong
quá trình thực hiện đề tài.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài

Tên gọi của đề tài nghiên cứu là “Pháp luật thuế xuất nhập khẩu
trong điều kiện Việt Nam thực thi cam kết WTO” đƣợc xác định trong bối
cảnh thực tiễn pháp lý của Việt Nam (các văn bản hƣớng dẫn thi hành pháp
luật về thuế xuất nhập khẩu, với điều kiện: đƣợc ban hành sau khi Việt Nam
trở thành thành viên chính thức của WTO và có liên quan trực tiếp đến cam
kết về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam khi gia nhập WTO) chỉ điều chỉnh
hoạt động thuế xuất nhập khẩu nhằm thực thi cam kết của Việt Nam với
WTO, đặc biệt quan tâm đến yêu cầu nổi trội buộc Việt Nam phải thực thi khi
gia nhập WTO là phải cắt giảm thuế nhập khẩu (không bao gồm toàn bộ
hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu theo hệ thống pháp luật thuế xuất nhập khẩu
của Việt Nam). Bởi vì, cắt giảm thuế nhập khẩu là vấn đề quan trọng đƣợc
toàn bộ các nƣớc trong quá trình đàm phán quan tâm nhiều nhất vì pháp luật


6
thuế nhập khẩu hiện hành của Việt Nam còn nhiều bất cập, cần phải sửa đổi
để phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế toàn cầu hoá. Vì vậy, trong phạm vi
bài này, bên cạnh thuế xuất khẩu là một bộ phận cấu thành trong hệ thống
pháp luật thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam thì tác giả có tập trung nhiều hơn
về thuế nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện thực thi cam kết WTO.
Việc nghiên cứu các quy định pháp lý và thực tiễn triển khai hoạt động
thuế xuất nhập khẩu của một số quốc gia khác trong quá trình thực thi cam kết
WTO đƣợc đề cập trong Luận văn này chỉ mang tính chất tham khảo, đối
chiếu và mang tính chất minh hoạ cho những luận điểm nghiên cứu.
4. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về thuế xuất nhập khẩu và
cam kết về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam khi gia nhập WTO, đề tài đánh
giá khái quát thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về thuế xuất
nhập khẩu trong điều kiện thực thi cam kết WTO.
Bên cạnh việc đánh giá thực trạng và các quy định pháp luật hiện hành

về thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong điều kiện thực thi cam kết WTO,
đề tài nêu và phân tích một số vấn đề liên quan đến thuế xuất nhập khẩu của
Việt Nam chƣa đƣợc đề cập hoặc đƣợc điều chỉnh bởi pháp luật về thuế xuất
nhập khẩu hoặc vẫn còn những bất cập cần phải xem xét để sửa đổi, bổ sung
và điều chỉnh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Các phƣơng pháp nghiên cứu đề tài đƣợc sử dụng trong quá trình thực
hiện Luận văn bao gồm:
- Phƣơng pháp duy vật biện chứng;
- Phƣơng pháp duy vật lịch sử;
- Các phƣơng pháp khác nhƣ: phƣơng pháp so sánh, thống kê, khảo sát.


7
6. Kết quả mới đạt đƣợc của Luận văn
Luận văn có những đóng góp mới sau đây:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận thuế xuất nhập khẩu nói chung và thuế
xuất nhập khẩu trong điều kiện Việt Nam thực thi cam kết WTO;
- Phân tích thực trạng pháp luật thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện Việt
Nam thực thi cam kết WTO, đánh giá mức độ phù hợp của các quy định pháp
luật đó với thực tiễn hoạt động thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam, mức độ
tƣơng thích và phù hợp với các cam kết WTO từ đó đƣa ra những đề xuất,
kiến nghị một số sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật của Việt Nam hiện
nay.
7. Bố cục và nội dung cơ bản của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo,
Luận văn đƣợc kết cấu thành ba chƣơng với nội dung cơ bản nhƣ sau:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận chung về xuất nhập khẩu và pháp luật
về thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện Việt Nam thực thi cam kết WTO.
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện

Việt Nam thực thi cam kết WTO. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện.










8
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG
HÓA VÀ PHÁP LUẬT VỀ THUẾ XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU
TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM THỰC THI CAM KẾT WTO
1.1. NHU CẦU VỀ XUẤT KHẨU VÀ NHẬP KHẨU HÀNG HÓA
CỦA THỊ TRƢỜNG VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO
1.1.1. Nguyên nhân thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
WTO là tên viết tắt của Tổ chức Thƣơng mại thế giới (World Trade
Organization), đƣợc thành lập theo Hiệp định thành lập Tổ chức thƣơng mại
thế giới ký tại Marrakesh (Marốc) ngày 15/4/1994. WTO chính thức đi vào
hoạt động từ ngày 01/01/1995, có trụ sở tại Genava, Thụy Sỹ, là thể chế pháp
lý nhằm điều tiết các mối quan hệ kinh tế - thƣơng mại quốc tế mang tính toàn
cầu hóa.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận định: “toàn cầu hoá kinh tế là một xu
hƣớng khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nƣớc tham gia ”, Việt Nam
cũng nhƣ các nƣớc khác đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung vì sự tồn
tại và phát triển của chính mình để khỏi bị gạt bỏ ra ngoài lề của sự phát triển.
Chính vì vậy, Việt Nam lựa chọn gia nhập tổ chức thƣơng mại thế giới

(WTO) vừa là một tất yếu khách quan, đồng thời là một xu hƣớng cần thiết
trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
Gia nhập WTO, Việt Nam có cơ hội tiếp cận và hội nhập vào chu trình
sản xuất và kinh doanh toàn cầu nhằm phát triển nền sản xuất trong nƣớc, thu
hẹp khoảng cách với các quốc gia phát triển trên thế giới và trong khu vực.
Tuy nhiên, gia nhập WTO cũng tạo ra thách thức đối với Việt Nam bởi vì khi
gia nhập WTO, bên cạnh việc hƣởng các ƣu đãi khi xuất khẩu vào thị trƣờng
các nƣớc thành viên thì Việt Nam cũng phải cam kết dành những quyền ƣu
đãi nhất định đối với hàng hóa nhập khẩu vào thị trƣờng Việt Nam từ các


9
nƣớc thành viên WTO, dẫn đến hàng hóa và sản phẩm của các nƣớc khác sẽ
có nhiều cơ hội và thuận lợi để tràn vào thị trƣờng Việt Nam, cạnh tranh với
hàng hóa nội địa. Có thể cho rằng những cam kết về hàng hóa của Việt Nam
khi gia nhập WTO là nguyên nhân chính thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu
sau gia nhập WTO có tốc độ tăng trƣởng đáng kể so với năm 2006.
Thứ nhất, ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ
chức Thƣơng mại thế giới (WTO), lần đầu tiên Việt Nam mở rộng quyền kinh
doanh xuất nhập khẩu hàng hóa “cho phép các doanh nghiệp và cá nhân nƣớc
ngoài đƣợc kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp” (trừ một số mặt hàng nhạy
cảm do nhà nước độc quyền) và “Nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đƣợc hƣởng quyền
kinh doanh xuất nhập khẩu phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình
tƣơng tự nhƣ nhà đầu tƣ Việt Nam”. Cam kết này đánh dấu một bƣớc tiến
quan trọng trong quá trình phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu cũng nhƣ
nỗ lực của Việt Nam trong việc đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài.
Thứ hai, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh so với trƣớc khi
gia nhập WTO bởi các thuận lợi sau:
- Rào cản ở các nƣớc nhập khẩu ít hơn (thuế nhập khẩu giảm, các hàng
rào phi thuế dần đƣợc bãi bỏ cho các nƣớc thành viên WTO…);

- Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đƣợc đối xử công bằng hơn trên thị
trƣờng thế giới (đƣợc hƣởng Quy chế Tối huệ quốc MFN và Quy chế NT tại
nƣớc nhập khẩu);
- Các nƣớc thuộc WTO không áp dụng hạn ngạch nhập khẩu đối với
hàng dệt may của Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trƣờng các nƣớc này;
- Doanh nghiệp dễ dàng định hƣớng hoạt động xuất khẩu của mình hơn do
đƣợc tiếp cận với thông tin về thị trƣờng nhập khẩu (WTO yêu cầu mỗi nƣớc
thành viên phải công khai và minh bạch chính sách ngoại thƣơng của mình).
Thứ ba, theo cam kết WTO của Việt Nam thì Việt Nam buộc phải cắt


10
giảm rào cản thuế quan và phi thuế quan, giảm bảo hộ và trợ cấp xuất khẩu,
bởi vậy hàng nhập khẩu vào Việt Nam nhiều hơn trƣớc. Trong đó, chủ yếu là
các nguyên chính sau:
- Giảm thuế nhập khẩu: Mặc dù WTO thừa nhận thuế quan là công cụ
hợp pháp duy nhất để bảo hộ các ngành sản xuất trong nƣớc (hàng rào phi
thuế quan bị bãi bỏ). Tuy nhiên gia nhập WTO có nghĩa là đƣợc quyền tiếp
cận tới thị trƣờng của tất cả các thành viên khác trên cơ sở đối xử MFN,
nhƣng để đƣợc hƣởng lợi nhuận này buộc các nƣớc mới gia nhập cũng phải
cam kết chấp nhận giảm mức bảo hộ của mình. Khi gia nhập WTO, Việt Nam
cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu của 3800 dòng thuế (chiếm 35,5% tỷ trọng),
phải dừng ở mức thuế tại thời điểm gia nhập là 3700 dòng thuế (chiếm 34,5%
tỷ trọng; mức thuế trần cao hơn mức thuế khi gia nhập WTO là 3170 dòng
thuế (chiếm 30% tỷ trọng). Trong đó nhóm mặt hàng có cam kết cắt giảm
thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế
tạo khác, máy móc thiết bị điện - điện tử, thịt (lợn, bò), phụ phẩm. Nhƣ vậy,
thuế nhập khẩu giảm là một lợi thế cơ bản cho hàng nhập khẩu tràn vào thị
trƣờng Việt Nam và cạnh tranh gay gắt với hàng trong nƣớc.
- Thay đổi các biện pháp hạn chế nhập khẩu: Khi gia nhập WTO, Việt

Nam buộc phải cho phép nhập khẩu một số mặt hàng mà trƣớc đây Việt Nam
không cho phép nhập khẩu do tính chất nhạy cảm của mặt hàng cũng nhƣ
nhằm thực hiện chính sách điều tiết thị trƣờng của Nhà nƣớc. Tuy nhiên, khi
nhập khẩu các mặt hàng này các doanh nghiệp cũng buộc phải tuân theo các
quy định về có hạn chế nhập khẩu hoặc nhập khẩu có điều kiện, bao gồm:
 Việt Nam đồng ý cho nhập khẩu xe máy phân phối lớn không muộn
hơn ngày 31/5/2007 phù hợp với quy định của Việt Nam;
 Bỏ biện pháp cấm nhập khẩu ngay từ thời điểm gia nhập WTO đối với
mặt hàng thuốc lá điếu và xì gà. Việt Nam cho phép một doanh nghiệp
thƣơng mại Nhà nƣớc đƣợc quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điều và xì gà;


11
 Với ô tô cũ, Việt Nam cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng
không quá 5 năm với mức thuế suất đƣợc xác định trong Biểu cam kết về thuế
và đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của Việt Nam;
 Việt Nam đảm bảo cơ chế cấp phép nhập khẩu văn hóa phẩm nhằm
mục đích kiểm duyệt sẽ tuân thủ theo quy định về minh bạch hóa WTO.
 Việt Nam cam kết từ ngày 01/01/2009 sẽ mở cửa thị trƣờng dịch vụ
phân phối (trừ một số mặt hàng nhạy cảm).
Những ƣu đãi về thuế xuất nhập khẩu đƣợc thiết lập dành cho các quốc
gia thành viên trong tổ chức thƣơng mại thế giới có sức hấp dẫn nhất định đối
với các doanh nghiệp khi xuất nhập khẩu hàng hóa để hƣởng những ƣu đãi từ
các quốc gia thành viên WTO, đồng thời làm tăng nhu cầu xuất nhập khẩu
hàng hóa của thị trƣờng Việt Nam sau khi gia nhập WTO.
1.1.2. Nhu cầu xuất khẩu, nhập khẩu của thị trƣờng Việt Nam
Từ tháng 1/2007, Việt Nam chính thức là thành viên của Tổ chức thƣơng
mại thế giới, đánh dấu một giai đoạn mới của nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt
là hoạt động xuất nhập khẩu của thị trƣờng Việt Nam. Trong giai đoạn 2007-
2010, thị trƣờng xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam phát triển cả chiều

rộng lẫn chiều sâu, hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang 219 nƣớc và nhập
khẩu từ 151 nƣớc, 165 nƣớc cho Việt Nam hƣởng Quy chế tối huệ quốc,
trong đó có 151 nƣớc là thành viên của WTO.
Năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm lên 48,38 tỷ USD, ƣớc tính
bằng USD thì tổng kim ngạch xuất khẩu so với GDP đạt 67,9%, thuộc loại
cao ở châu Á và thế giới, tăng 21,5% so với năm 2006. Tổng kim ngạch xuất
khẩu bình quân đầu ngƣời đạt khoảng 568 USD, cao nhất từ trƣớc tới nay.
Trong năm đầu tiên Việt Nam gia nhập WTO, tốc độ tăng kim ngạch xuất
khẩu của khu vực kinh tế trong nƣớc cao hơn tốc độ tăng chung, chứng tỏ khu
vực này đã tận dụng đƣợc cơ hội do vị thế mới của thành viên WTO. Nếu


12
không kể dầu thô bị sút giảm thì kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng khác của
khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài (FDI) còn tăng cao hơn khu vực kinh tế
trong nƣớc, khu vực FDI đã tận dụng tốt hơn cơ hội WTO. Xuất khẩu tăng ở
hầu hết các mặt hàng, trong đó có những mặt hàng có kim ngạch tăng khá
cao: dệt may, điện tử máy tính, hàng thủ công mỹ nghệ, dây điện và cáp điện,
sản phẩm nhựa, gỗ, cà phê, hạt tiêu, hạt điều. Đã có 9 mặt hàng đạt kim ngạch
xuất khẩu trên 1 tỷ USD là dầu thô, dệt may, giày dép, thuỷ sản, sản phẩm gỗ,
điện tử máy tính, cà phê, gạo và cao su với kim ngạch đạt 33 tỷ USD, chiếm
68,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nƣớc. Tổng kim ngạch nhập khẩu
ƣớc đạt 60,83 tỷ USD, cũng là mức kỷ lục từ trƣớc tới nay, tăng tới 35,5% so
với năm trƣớc, có 13 mặt hàng đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên. Máy móc,
thiết bị, dụng cụ và phụ tùng đạt trên 10 tỷ USD, xăng dầu đạt trên 7 tỷ USD,
sắt thép đạt gần 5 tỷ USD, vải 4 tỷ USD, điện tử máy tính và linh kiện đạt gần
3 tỷ USD. Do tốc độ tăng nhập khẩu cao gấp rƣỡi tốc độ tăng xuất khẩu, nên
nhập siêu đã gia tăng so với cùng kỳ năm trƣớc cả về kim ngạch tuyệt đối
(12,45 tỷ USD so với gần 5,1 tỷ USD) và cả về tỷ lệ so với xuất khẩu (25,6%
so với 12,7%).

Mặc dù nhập siêu tăng chủ yếu so nhập thiết bị máy móc, nguyên nhiên
vật liệu tăng cao, một phần do giá nhập tăng: xăng dầu, sắt thép, phân bón,
chất dẻo, giấy sợi, dệt, bông, nhƣng có ba vấn đề đáng lƣu ý: Một là, mức
nhập siêu nhƣ thế là rất cao, vƣợt xa so với năm trƣớc và cao gấp hơn hai lần
so với kế hoạch, có những lĩnh vực không thể coi là hợp lý hay cần thiết, bởi
có nhiều loại mà trong nƣớc có thể sản xuất đƣợc; hai là, do hiệu quả và sức
cạnh tranh của sản xuất trong nƣớc, nên nhiều mặt hàng đã thua ngay trên sân
nhà; Ba là, trong khi xuất siêu với Mỹ, EU nhƣng lại nhập siêu lớn đối với
các nƣớc trong khu vực, nhất là Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan
Tính chung cả năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đều tăng, chủ
yếu do giá trên thị trƣờng thế giới tăng, ƣớc tính đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5%


13
so với năm 2007. Trong đó, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản
chiếm tỷ trọng 31%, nhóm hàng nông sản chiếm 16,3%. Xuất khẩu dầu thô
ƣớc tính đạt 13,9 triệu tấn, tƣơng đƣơng 10,5 tỷ USD, tăng 23,1% về kim
ngạch so với năm trƣớc. Hàng dệt may đạt 9,1 tỷ USD, tăng 17,5% so với
năm 2007 với các nƣớc xuất khẩu chủ yếu: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Xuất khẩu
giày dép năm 2008 ƣớc tính đạt 4,7 tỷ USD, tăng 17,6% so với năm trƣớc,
trong đó hai thị trƣờng EU và Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng trên 74% tổng kim
ngạch xuất khẩu giày dép. Thủy sản ƣớc tính đạt 4,6 tỷ USD, tăng 21,2% so
với năm 2007 với thị trƣờng EU vẫn là thị trƣờng chính; tiếp theo là Nhật
Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc. Năm 2008 có 8 nhóm hàng/mặt hàng xuất khẩu đạt
kim ngạch trên 2 tỷ USD là: Dầu thô 10,5 tỷ USD; hàng dệt may 9,1 tỷ USD;
giày, dép 4,7 tỷ USD; thuỷ sản 4,6 tỷ USD; gạo 2,9 tỷ USD; sản phẩm gỗ 2,8
tỷ USD; điện tử, máy tính 2,7 tỷ USD; cà phê 2 tỷ USD, tăng 2 mặt hàng so
với năm 2007 là gạo và cà phê. Trong các thị trƣờng xuất khẩu của Việt Nam
năm 2008, Hoa Kỳ là đối tác lớn nhất, ƣớc tính đạt 11,6 tỷ USD, tăng 14,5%
so với năm 2007 với 5 mặt hàng chủ yếu (chiếm tỷ trọng 76% tổng kim ngạch

hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang thị trƣờng này) gồm: Hàng dệt may,
dầu thô, gỗ và sản phẩm gỗ, giày dép, thủy sản. Kim ngạch hàng hoá xuất
khẩu sang thị trƣờng ASEAN tuy có giảm trong các tháng cuối năm, nhƣng
ƣớc tính cả năm vẫn đạt 10,2 tỷ USD, tăng 31% so với năm 2007 với các mặt
hàng chính là: Dầu thô, gạo, thủy sản, máy tính, sản phẩm điện tử và linh
kiện. Thị trƣờng EU ƣớc tính đạt 10 tỷ USD, tăng 15% so với năm trƣớc gồm
các mặt hàng truyền thống nhƣ: Hàng dệt may, giày dép, nông sản, thủy sản.
Thị trƣờng Nhật Bản ƣớc tính đạt 8,8 tỷ USD, tăng 45% so với năm 2007, tập
trung chủ yếu vào các mặt hàng: Dầu thô, giày dép, thủy sản, máy tính và linh
kiện, dây và cáp điện. Tổng kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ƣớc tính 80,4 tỷ
USD, tăng 28,3% so với năm 2007. Trong tổng kim ngạch hàng hoá nhập
khẩu năm 2008, tƣ liệu sản xuất chiếm 88,8%; hàng tiêu dùng chiếm 7,8%;
vàng chiếm 3,4% (năm 2007 tỷ trọng của 03 nhóm hàng này tƣơng ứng là:


14
90,4%; 7,5%; 2,1%). Nhìn chung, các mặt hàng nhập khẩu chủ lực nhằm đáp
ứng nhu cầu phát triển sản xuất trong nƣớc đều tăng so với năm 2007, kim
ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng có xu hƣớng tăng vào các tháng cuối năm
2008. Nhập khẩu ô tô năm 2008 đạt mức cao kỷ lục với 2,4 tỷ USD, trong đó
ô tô nguyên chiếc đạt 1 tỷ USD với 50,4 nghìn chiếc (ô tô dƣới 12 chỗ ngồi
27,5 nghìn chiếc, tƣơng đƣơng 380 triệu USD). Nhập khẩu máy móc thiết bị,
phụ tùng khác (trừ ô tô và máy tính, điện tử) ƣớc tính đạt 13,7 tỷ USD, tăng
23,3% so với năm 2007. Nhập khẩu xăng dầu đạt 12,9 triệu tấn, tăng 0,1% so
với năm trƣớc, tƣơng ứng với kim ngạch 10,9 tỷ USD, tăng 41,2%. Sắt thép
đạt 6,6 tỷ USD, tăng 28,5%. Vải và nguyên phụ liệu dệt may là những mặt
hàng phục vụ chủ yếu cho sản xuất hàng xuất khẩu vẫn đạt kim ngạch cao với
6,8 tỷ USD, tăng 11,5% so với năm 2007. Hàng điện tử máy tính và linh kiện
đạt 3,7 tỷ USD, tăng 25,8% so với năm trƣớc, đây là nhóm hàng không chỉ
gắn với tiêu dùng trong nƣớc mà còn liên quan tới gia công, lắp ráp để xuất

khẩu. Trong các thị trƣờng nhập khẩu của Việt Nam năm 2008, kim ngạch
hàng hoá nhập khẩu từ khu vực ASEAN, ƣớc tính 19,5 tỷ USD, tăng 22,5%
so với năm 2007; Trung Quốc 15,4 tỷ USD, tăng 23,2%; thị trƣờng EU 5,2 tỷ
USD, tăng 1,7%; Đài Loan 8,4 tỷ USD, tăng 21,8 %; Nhật Bản 8,3 tỷ USD,
tăng 37,7%.
Năm 2009, kim ngạch xuất khẩu cả năm là 57,1 tỷ USD, giảm 8,9%so
với năm 2008 và nhập khẩu là 69,95 tỷ USD, giảm 13,3%. Nhƣ vậy, tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu cả nƣớc năm 2009 là 127,05 tỷ USD, giảm 11,4% so
với năm 2008, cán cân thƣơng mại hàng hoá thâm hụt 12,85 tỷ USD, bằng
22,6% xuất khẩu. Năm 2009, xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tƣ trực tiếp
nƣớc ngoài (FDI) đạt 24,18 tỷ USD, chiếm 42,3% kim ngạch xuất khẩu của
cả nƣớc và nhập khẩu là 26,07 tỷ USD, giảm 6,5% so với năm 2008. Trong
đó, một số mặt hàng xuất khẩu chính là: Dầu thô: lƣợng dầu thô xuất khẩu đạt
13,4 triệu tấn, giảm 2,8% so với năm 2008, chủ yếu xuất khẩu sang Ôxtrâylia;
Singapore, Malaysia; Cà phê: lƣợng xuất khẩu cà phê là 1,18 triệu tấn, tăng


15
11,7% so với năm 2008 với thị trƣờng nhập khẩu chính là Đức, Bỉ, Hoa Kỳ,
Italia…; Hạt điều: lƣợng xuất khẩu hạt điều là 177 nghìn tấn, đạt kim ngạch là
847 triệu USD, giảm 7,2% so với năm 2008 và thị trƣờng xuất khẩu chủ yếu
là: Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hà Lan. Ngoài ra còn có một số mặt hàng xuất khẩu
chính nhƣ: Than đá, Gạo, Cao su, Hàng dệt may, Giày dép các loại, Hàng
thuỷ sản, Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện, Máy móc thiết bị, dụng
cụ & phụ tùng. Bên cạnh đó, một số mặt hàng nhập khẩu chính là: Máy móc,
thiết bị, dụng cụ, phụ tùng: là 12,67 tỷ USD, giảm 3,3% so với năm 2008, chủ
yếu có xuất xứ từ Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Hàn Quốc, Hoa Kỳ; Xăng dầu:
nhập khẩu 12,7 triệu tấn xăng dầu các loại, giảm 2% so với năm trƣớc, chủ
yếu có xuất xứ từ Singapore, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan,
Malayxia, Nga. Ngoài ra còn một số mặt hàng nhập khẩu chính khác trong

năm 2009 nhƣ: Nhóm hàng nguyên liệu ngành dệt may, da giày, sắt thép các
loại, kim loại thƣờng, chất dẻo nguyên liệu, thức ăn gia súc và nguyên liệu,
phân bón, dƣợc phẩm, ôtô nguyên chiếc các loại và linh kiện, phụ tùng ôtô,
máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị
trƣờng trong nƣớc, trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, hoạt động xuất
khẩu và nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam xuất phát từ chính nhu
cầu nội tại của bản thân doanh nghiệp và trên thực tế, hoạt động này cũng
không nằm ngoài quy luật của hoạt động thƣơng mại quốc tế. Điều này đã và
đang đặt ra yêu cầu đối với Việt Nam trong việc xây dựng một chiến lƣợc
xuất nhập khẩu phù hợp để khuyến khích và thúc đẩy hơn nữa các doanh
nghiệp Việt Nam tiếp cận với thị trƣờng quốc tế trên cơ sở Việt Nam tuân thủ
các cam kết WTO. Chính phủ Việt Nam đã nhận thức và có những động thái
nhất định trong việc tạo nền móng cơ sở pháp lý vững chắc cho Việt Nam và
đảm bảo hoạt động xuất nhập khẩu phù hợp với cam kết gia nhập WTO khi
tiến hành hoàn thiện và bổ sung hành lang pháp lý về thuế xuất nhập khẩu của
Việt Nam để thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO.


16
1.2. KHÁI NIỆM XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HÓA VÀ THUẾ
XUẤT NHẬP KHẨU
1.2.1. Khái niệm xuất nhập khẩu hàng hóa
Xuất nhập khẩu hàng hóa đƣợc xem là một trong nhiều cách tiếp cận mà
doanh nghiệp tại một quốc gia có thể sử dụng để tiếp cận thị trƣờng nƣớc ngoài.
Trong môi trƣờng kinh doanh quốc tế hiện nay, một quốc gia nhập khẩu từ nƣớc
ngoài cũng đồng thời là quốc gia xuất khẩu ra nƣớc ngoài, hoạt động xuất khẩu
và hoạt động nhập khẩu là hai mặt của hoạt động thƣơng mại quốc tế.
Khái niệm về xuất nhập khẩu hàng hóa xuất hiện trong lý luận thƣơng
mại quốc tế, trong đó xuất khẩu đóng vai trò là một trong hai lĩnh vực của

hoạt động ngoại thƣơng, đƣợc định nghĩa “là việc bán hàng hóa và dịch vụ
cho nƣớc ngoài” và nhập khẩu “là việc quốc gia này mua hàng hóa và dịch vụ
từ quốc gia khác”. Tuy nhiên, theo cách thức biên soạn cán cân thanh toán
quốc tế của IMF thì chỉ việc mua bán hàng hóa hữu hình mới đƣợc coi là nhập
khẩu và đƣa vào mục cán cân thƣơng mại, còn việc mua dịch vụ thì đƣợc tính
vào mục cán cân phi thƣơng mại. Còn xuất khẩu hàng hóa vẫn đƣợc duy trì
bởi khái niệm là việc bán hàng hoặc dịch vụ cho nƣớc ngoài.
Luật thƣơng mại 2005 đƣa ra định nghĩa về xuất khẩu, nhập khẩu hàng
hóa nhƣ sau:
“1. Xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt
Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là
khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
2. Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa vào lãnh thổ Việt
Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam
được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật” (Điều 28)
Từ khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa này, Luật thƣơng mại cũng
đƣa ra cách hiểu về hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa nhập khẩu, theo đó:


17
 Hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hóa có xuất xứ trong nƣớc và hàng tái
xuất, đƣợc xuất khẩu trực tiếp ra nƣớc ngoài hoặc gửi vào kho ngoại quan,
trong đó:
- Hàng có xuất xứ trong nƣớc là hàng hóa đƣợc khai thác, sản xuất, chế
biến trong nƣớc theo quy tắc xuất xứ của Việt Nam, kể cả sản phẩm hoàn trả
cho nƣớc ngoài sau khi gia công, chế biến, lắp ráp trong nƣớc.
- Hàng tái xuất là những hàng hóa nƣớc ta đã nhập khẩu, sau đó lại xuất
nguyên dạng hoặc chỉ sơ chế, đóng gói lại, không làm thay đổi tính chất cơ
bản của hàng hóa đó.
 Hàng nhập khẩu là toàn bộ hàng hóa của nƣớc ngoài và hàng tái nhập

đƣợc đƣa từ nƣớc ngoài hoặc từ kho ngoại quan vào trong nƣớc, trong đó:
- Hàng hóa nƣớc ngoài là những hàng hóa có xuất xứ nƣớc ngoài, kể cả
sản phẩm nhận hoàn trả sau khi gia công, chế biến, lắp ráp ở nƣớc ngoài.
- Hàng tái nhập là những hàng hóa đã xuất khẩu ra nƣớc ngoài, sau đó
đƣợc nhập khẩu trở lại nguyên dạng hoặc chỉ qua sơ chế, đóng gói lại, tính
chất cơ bản của hàng hóa không thay đổi.
Bên cạnh đó, Luật thuế giá trị gia tăng 2009 cũng đƣa ra khái niệm về
hàng hóa xuất khẩu, bao gồm “hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài, kể cả ủy
thác xuất khẩu; hàng hóa bán vào khu phi thuế quan; hàng bán cho cửa hàng
miễn thuế; hàng hóa gia công chuyển tiếp theo quy định của pháp luật thương
mại; hàng hóa gia công xuất khẩu tại chỗ; hàng hóa xuất để bán tại hội chợ
triển lãm nước ngoài”.
Trên cơ sở các khái niệm về xuất nhập khẩu hàng hóa nêu trên, có thể
thấy hoạt động xuất nhập khẩu đóng một vai trò quan trọng trong quá trình
thực hiện chính sách mở cửa, giao lƣu kinh tế của nƣớc ta với các nƣớc trên
thế giới. Do đó, chính sách ngoại thƣơng hiện tại của Việt Nam đƣợc xây
dựng trên cơ sở thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội mà Chính phủ đề ra


18
cho giai đoạn 2001- 2010 và trên cơ sở các cam kết hội nhập của Việt Nam
nhƣ: Hiệp định thƣơng mại Việt Mỹ, Hiệp định thƣơng mại VN - EU…, đặc
biệt là cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO.
1.2.2. Khái niệm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Thuế ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong việc huy động các
nguồn lực và tạo môi trƣờng đầu tƣ hấp dẫn để đạt đƣợc phát triển bền vững
tại Việt Nam. Đây là một hình thức nhà nƣớc có thể động viên nguồn tiền tệ
cần thiết để chi tiêu cho các hoạt động của mình, đồng thời tạo ra những tiền
đề để Nhà nƣớc tiến hành tái phân phối sản phẩm xã hội theo mục tiêu quản
lý đặt ra. Mặt khác, trong điều kiện cơ chế thị trƣờng, Việt Nam tham gia các

hiệp định thƣơng mại song phƣơng và đa phƣơng thì thuế còn là một biện
pháp điều chỉnh vĩ mô mang lại hiệu quả cao, giúp nhà nƣớc điều tiết đƣợc
nền kinh tế và thể hiện đƣợc định định hƣớng phát triển của Đảng và Chính
phủ tại mỗi thời kỳ. Ra đời và tồn tại cùng với nhà nƣớc, từ khi ra đời đến nay
thuế đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài và khái niệm về thuế cũng
không ngừng đƣợc hoàn thiện.
Theo từ điển tiếng Việt (www.informatik.uni-leipzip.de), thuế đƣợc định
nghĩa là “một khoản tiền hoặc hiện vật mà ngƣời dân hoặc các tổ chức kinh
doanh, tùy theo tài sản, thu nhập, nghề nghiệp buộc phải nộp cho nhà nƣớc
theo mức quy định”.
Theo nhà kinh tế học Gaston Jeze trong cuốn “Tài chính công” đã đƣa ra
một khái niệm cổ điển nhất và cũng nổi tiếng nhất về thuế. Theo tác giả, “thuế
là một khoản trích nộp bằng tiền, có tính chất xác định, không hoàn trả trực
tiếp do các công dân đóng góp cho Nhà nƣớc thông qua con đƣờng quyền lực
nhằm bù đắp những chi tiêu của Nhà nƣớc”. Theo thời gian, khái niệm cổ
điển này đến nay đã đƣợc bổ sung, chỉnh sửa và hoàn thiện nhƣ sau: “Thuế là
một khoản trích nộp bằng tiền, có tính chất xác định, không hoàn trả trực tiếp
do các công dân đóng góp cho Nhà nƣớc thông qua con đƣờng quyền lực


19
nhằm bù đắp những chi tiêu của Nhà nƣớc trong việc thực hiện các chức năng
kinh tế - xã hội của Nhà nƣớc”.
Hiện nay, với sự phát triển và thay đổi nhanh chóng trong môi trƣờng
đầu tƣ toàn cầu, định nghĩa về thuế đã đƣợc mở rộng, bao quát hơn và cũng
có nhiều quan niệm khác nhau về thuế tuỳ cách thức tiếp cận nghiên cứu:
Trên giác độ kinh tế học, ngƣời ta cho rằng thuế là một biện pháp đặc
biệt, theo đó, Nhà nƣớc sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần
nguồn lực từ khu vực tƣ sang khu vực công, nhằm thực hiện các chức năng
kinh tế - xã hội của Nhà nƣớc.

Trên giác độ phân phối thu nhập thì thuế là hình thức phân phối và phân
phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành các quỹ
tiền tệ tập trung của nhà nƣớc để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho việc thực
hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nƣớc.
Trên giác độ người nộp thuế, thuế đƣợc coi là khoản đóng góp bắt buộc
mà mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nƣớc theo luật
định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
Nhà nƣớc
Nhƣ vậy, các quan niệm trên đều đề cập đến các nội dung cơ bản nhƣ:
nguồn lực chuyển giao, quyền lực Nhà nƣớc và chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nƣớc Một trong các khái niệm về thuế đƣợc thừa nhận chung là: “Thuế là
một khoản đóng góp bắt buộc của các pháp nhân, thể nhân cho Nhà nƣớc theo
mức độ và thời hạn đƣợc pháp luật quy định, không mang tính chất hoàn trả
trực tiếp, nhằm sử dụng cho mục đích chung toàn xã hội” [11].
Bản chất thuế là một vấn đề hết sức phức tạp, nên có nhiều quan điểm
khác nhau. Có lẽ chính vì vậy mà không có định nghĩa về thuế trong các văn
bản pháp luật của hầu hết các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, tự do hóa


20
thƣơng mại, dịch vụ, đầu tƣ… đang trở thành một trào lƣu chung của thế giới.
Tuy nhiên, do nhiều lý do về kinh tế, chính trị, xã hội riêng có ở mỗi quốc gia
mà việc tự do hóa thƣơng mại vẫn bị ngăn chặn ở những mức độ khác nhau.
Một trong những công cụ có tính chất cổ điển trong chính sách ngoại thƣơng
của các Chính phủ là công cụ thuế quan.
Cho đến nay, khái niệm về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chƣa đƣợc
quy định tại bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào của Việt Nam. Luật thuế
xuất khẩu, nhập khẩu hàng mậu dịch 1987 không đƣa ra định nghĩa về thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu mà trực tiếp quy định đối tƣợng chịu thuế xuất

khẩu, thuế nhập khẩu tại Điều 1, theo đó “tất cả hàng hóa mua bán, trao đổi
với nƣớc ngoài, khi xuất khẩu hoặc nhập khẩu qua biên giới Việt Nam đều là
đối tƣợng chịu thuế xuất khẩu hoặc nhập khẩu”.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 1992 và Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu 1993; Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 1998 mặc dù có sửa đổi, bổ
sung làm đầy đủ hơn khái niệm về xuất nhập khẩu hàng hóa, nhƣng cũng
không đƣa ra định nghĩa về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: “Hàng hóa được
phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam, kể cả hàng hóa
từ thị trường trong nước đưa ra khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa ra thị
trường trong nước, đều thuộc đối tượng chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu”
(Điều 1).
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 cũng không đƣa ra định nghĩa
khái quát về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mà quy định cụ thể đối tƣợng
chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu bao gồm:
“Trừ hàng hóa quy định tại Điều 3 của Luật này, hàng hóa trong các
trường hợp sau đây là đối tượng chịu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
1. Hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam;
2. Hàng hóa được đưa từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan

×