Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Đặc điểm truyện ngắn Trang Thế Hy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

T


--------------------------------------------





Nguyễn Thò Thanh Hoa




ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN TRANG THẾ HY

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34


LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. TRẦN HỮU TÁ



Thành phố Hồ Chí Minh
– 2008





Nhà văn Trang Thế Hy
(tranh sơn dầu do họa só Nguyễn Trung vẽ tặng năm 2008)


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trang Thế Hy là một nhà văn Nam Bộ đã trải phần lớn thời gian của cuộc
đời mình trên mảnh đất văn chương. Trước khi ông cầm bút, miền Nam đã phải trải
qua những ngày nóng bỏng của hiểm họa xâm lăng. Trong hoàn cảnh ấy, cũng như
nhiều người lúc bấy giờ, ông đã sống, đã tranh đấu, đã làm việc và đã viết văn với
một nhiệt huyết sục sôi, với một khát kha
o mãnh liệt và duy nhất: giành lại độc lập,
tự do cho dân tộc. Ông viết để sống, để hoạt động. Trong số những người cùng
nghiệp viết nơi mảnh đất Nam Bộ, ông viết với một vẻ riêng, không giống ai. Ông
viết về số đông - những con người bất hạnh, và như ông quan niệm, đứng về phía
những c
on người bất hạnh là đứng về phía của đạo lý. Nhưng đã không có nhieu
người biết đến ông. Quả là đáng tiếc!
Thời gian gần đây, nhiều nhà nghiên cứu, phê bình cũng đã chú ý đến Trang
Thế Hy. Có lẽ là khi người ta bình tĩnh hơn, thận trọng hơn … thì cũng là lúc người
ta dễ nhận ra những giá trị đích thực mà trong khi vội vã chưa kịp nhận ra. Văn
chương Trang Thế Hy nằm trong số những giá trị được nhận ra m
uộn mằn như thế.

Một phần lý do khiến giới nghiên cứu chậm để ý đến văn chương của Trang Thế
Hy có lẽ là vì văn của ông lặng lẽ quá, lặng lẽ như chính cách sống mà ông đã
chọn! Thế nên, tìm hiểu truyện ngắn của Trang Thế Hy, người viết cũng tự nhủ
mình phải chừng mực, hết sức tránh ồn ào, tránh đao to búa lớn, sợ sẽ phá hỏng
không khí văn c
hương của nhà văn xứ Dừa này.
Văn học miền Nam nằm trong dòng chảy chung của văn học cả nước. Nhưng
do điều kiện lịch sử đặc biệt của đất nước, một phần do điều kiện địa lý ngăn trở, và
cả những khác biệt về văn hoá, về cảm quan nghệ thuật của từng vùng miền … nên
chúng ta chưa có đư
ợc một cái nhìn thật đầy đủ, toàn diện về bộ phận văn học đặc
sắc này. Vì vậy, rất cần một sự bổ khuyết cho bức tranh toàn cảnh của văn học thế
kỷ XX như PGS. TS Trần Hữu Tá – một nhà nghiên cứu văn chương Nam Bộ - đã
từng thiết tha bày tỏ, trong đó cần một sự ghi nhận đầy đủ và công bằng cho những




tác giả có cuộc đời lao động nghệ thuật nghiêm túc với nhiều cống hiến đáng trọng.
Điều đó có nghĩa là tên tuổi của Trang Thế Hy cũng như một số ít những nhà văn
Nam Bộ khác rất cần phải được xem xét và đánh giá một cách trân trọng trong các
công trình văn học sử. Chính điều này, cùng với việc chưa có một công trình nào
khắc hoạ đầy đủ chân dung nhà văn, đã thôi thúc chúng tôi đến với đề tài Đặc điểm
truyện ngắn Trang Thế Hy. Hy vọng, với việc làm
này, chúng tôi có thể góp phần
bé nhỏ vào việc bổ khuyết cho bức tranh toàn cảnh của văn học miền Nam nói
riêng, văn học Việt Nam thế kỷ XX nói chung, đưa văn chương độc đáo của nhà
văn này đến gần hơn với mọi người.
2. Lịch sử vấn đề
Cuốn sách đầu tiê

n viết về Trang Thế Hy là cuốn Địa chí văn hóa thành phố
Hồ Chí Minh (1988). Các tác giả của cuốn địa chí đã ghi nhận những đóng góp của
Trang Thế Hy cho phong trào đấu tranh ở nội đô Sài Gòn giai đoạn kháng chiến
chống Mỹ với một loạt các truyện ngắn, có cả thơ nữa. Nhưng cuốn địa chí này mới
chỉ làm công việc giới thiệu và ghi công của nhà văn trong phong trào đấu tranh
chung. Dĩ nhiê
n, trong khuôn khổ một cuốn địa chí, được như vậy đã là điều đáng
quý.
Tiếp đó là cuốn Địa chí Bến Tre (1991) của nhà xuất bản Khoa học xã hội.
Trong cuốn sách này, Trang Thế Hy xuất hiện với tư cách là một nhà văn của địa
phương giai đoạn từ CMT8-1945 đến tháng 4-1975. Đầu tiên là cái tên Võ Trọng
Cảnh trong Đoàn văn hoá kháng chiến tỉnh. Sau đó là Trang Thế Hy (thời kỳ chống
Mỹ1954-1975). Trong cuốn địa chí này, Tr
ang Thế Hy chỉ được giới thiệu mấy
dòng rất sơ lược về quá trình sáng tác, quá trình hoạt động chứ không giới thiệu tên
các tác phẩm của ông như cuốn Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh đã làm.
Cuon sách này cũng đã giới thiệu một tác phẩm của Trang Thế Hy được giải
thưởng của Hội Văn nghệ Giải phóng miền Nam: Anh Thơm râu rồng (g
iải thưởng
văn học Nguyễn Đình Chiểu 1960-1965).




Trang Thế Hy mới được giới nghiên cứu, phê bình chú ý trong thời gian gần
đây. Trên các trang web báo điện tử, đặc biệt là những chuyên trang văn học nghệ
thuật và các trang web cá nhân hoạt động trong lĩnh vực này, cái tên Trang Thế Hy
đã xuất hiện nhiều. Tuy thế, những nghiên cứu về sáng tác của ông chưa nhiều, đặc
biệt là chưa có một công trình nào lớn để giới thiệu đầy đủ chân dung văn học này.
Những gì giới nghiên cứu đã nói,

chúng tôi cố gắng trình bày ở mức ngắn gọn nhất
để có thể đảm bảo một sự đầy đủ các nhận định, cũng từ đó mà thấy rõ hơn công
việc của mình phải làm.
Trên báo Văn nghệ số ra ngày 01 – 6 – 2002 có trích giới thiệu những ý kiến
của các thành viên tham dự buổi tọa đàm về tập truyện ngắn Nợ nước mắt của
Trang Thế Hy vào sáng 23-5-2002. Nhân dịp nà
y, vì không tham dự được, nhà văn
đã gửi đến ban biên tập báo Văn nghệ bức thư với những lời tỏ bày thành thực:
(…) Toi bắt đầu viết đã từ lâu, nhưng viết ít, viết chậm, xuất hiện ít
trên báo chí, tuyển tập chung và sách in riêng, do đó cũng ít được giới
phê bình chú ý đánh giá, cho nên cuộc toạ đàm này được tôi coi là lần
đầu tiên tác phẩm của tôi được thẩm định nghiêm túc theo tiêu chuẩn
học thuật…

Trong cuộc toạ đàm này, có một số tham luận dài ngắn khác nhau về tập
truyện đã được đưa ra. Đáng chú ý nhất là bài viết của nhà văn Lê Minh Khuê. Đây
là bài mà nhà văn Trang Thế Hy tỏ ra rất tâm đắc vì theo nhà văn, Lê Minh Khuê đã
“đọc” được ông, “đọc” đúng ông, dù chưa “đọc” hết ông. Với bài Phong cách
Trang Thế Hy, nhà văn Lê Minh Khuê đã đưa ra những nhận định khá tinh tế,
chứng tỏ một cảm
quan nhạy bén, một cách đọc khá kỹ lưỡng, nghiêm túc. Lê Minh
Khuê đã viết:
“Ông là tác giả Nam Bộ, văn chương Nam Bộ dường như một mình
ông một phong cách. Ông không bình dân, không nhiều sôi nổi. Ông
hiện lên trong các trang viết với sự tinh tường, thấu hiểu và điềm tĩnh
trước cuộc sống, trước cảnh sắc. (…) Ôngviết về tâm sự của những con





người bé nhỏ mà trong sạch. (…) Họ cũng là con người không giản đơn.
Nhân vật trí thức- nghệ sĩ chiếm phần lớn trong tác phẩm của ông.
Nhiều nhân vật sống qua các thứ “mốc” giữa hôm nay và hôm qua. Bao
giớ tác giả cũng lựa cho họ cách sống thanh thản nhất.
(…) Truyện ngắn của ông không có sự thay đổi hình thức. Các
truyện kể với phương pháp như nhau – dường như ông luôn có cách bắt
đầu câu chuyện bằng giọng nhẩn nha, nhưng luôn báo hiệu ngay từ
những dòng đầu rằng đây l
à câu chuyện thú vị. (…) Truyện của ông
không có tình huống phức tạp. Tình huống ẩn chứa trongcảm xúcvà chữ
nghĩa. Nhiều câu chuyện khiến ta hồi hộp. Đó là cách viết khó. Cách
viết của một người trọng nghề, trọng chữ…”
Thật tiếc là nhà văn Lê Minh Khuê không phân tích, không đưa ra một dẫn
chứng cụ thể nào cho những nhận định của m
ình. Nhưng dẫu sao, những nhận xét
đắt giá trên đây cũng đã chỉ ra được một số khía cạnh đặc sắc chính trong truyện
ngắn của Trang Thế Hy. Đó la một bài viết có giá trị và mang tính định hướng cao
cho những độc giả chưa biết đến Trang Thế Hy.
Nhà văn Nguyễn Khắc Trường với bài Ít có tập truyện ngắn nào được viết kỹ
lưỡng như thế này đã nhận xét:
Văn của Tr
ang Thế Hy không đọc nhanh được, không đọc vội được.
Ông viết bình tĩnh, ngẫm ngợi, và ta cũng phải bình tĩnh đọc. Mỗi truyện
của ông là một gửi gắm, một nỗi niềm. Ông nặng lòng với cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, nặng lòng với những người những cảnh vùng
sông nước quê hương Bến Tre và những nơi ông đã qua của đồng bằng
Nam Bộ. (…) Ông viết, những hồi ức chiến tranh và thực tại bây giờ đan
dệt vào nhau…
Nhận xét của tác giả này mới chỉ đề cập đến một mảng nhỏ tr
ong sáng tác

của Trang Thế Hy (giọng điệu và đề tài chiến tranh, con người và cảnh sắc Nam
Bộ) chứ chưa nói được bao quát về sáng tác của nhà văn.




Nhà văn Trần Huy Quang, trong mấy nhận xét khá ngắn gọn ở bài Tôi học
được nhiều ở Trang Thế Hy về nghề văn cũng tỏ ra đồng tình với nhận định của nhà
văn Nguyễn Khắc Trường. Trần Huy Quang viết: “Văn Trang Thế Hy kỹ càng, đẹp,
đầy tính triết lý, nên đọc chậm thì mới hiểu hết, mới hưởng hết được cái hay”. Có lẽ
trong khuôn khổ của một buổi toạ đàm với việc hạn c
hế về mặt thời gian, lại cùng
lúc có nhiều ý kiến đóng góp, nên những người tham gia đã không nói nhiều (để
tránh trùng lặp chăng?) và cũng không đi vào phân tích cụ thể các sáng tác của
Trang Thế Hy. Nhưng dù thế, những ý kiến được đưa ra trong buổi toạ đàm thật sự
có ích đối với chúng tôi khi thực hiện đề tài này.
Cũng đồng tình với các nhà văn vừa kể trên, nhà văn Trịnh Đình K
hôi trong
bài Truyện ngắn của Trang Thế Hy toát lên vẻ đẹp văn hoá đã viết: “Văn Trang Thế
Hy điềm đạm (…). Trang Thế Hy không cố ý triết lý. Tính triết lý toát lên từ nhân
vật, từ ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật”.
Nhưng cũng trong bài viết này, Trịnh Đình Khôi đã có một đánh giá khá cao
về Trang Thế Hy. Ông viết: “Trang Thế Hy là một nhà văn hoá viết văn. Trong ông
có văn hoá Á Đông kết hợp với n
hững ý tưởng phương Tây hiện đại”. Nhận định
này đã làm cho chính Trang Thế Hy, nhà văn khiêm nhu và rất đỗi bình dị của
chúng ta, cảm thấy ngại ngùng. Có thể nhiều người đọc thấy chất văn hoá tiềm tàng
trong văn của Trang Thế Hy, nhưng ông không phải là “nhà văn hoá viết văn”. Đây
là điều mà nhà văn luôn phải đính chính miệng với những ai đã biết đến bài viết
này. Ông l

à một người có tầm văn hoá, là một người viết văn có tầm văn hoá, ai
cũng hiểu như thế. Nhưng đề cao quá mức một nhà văn có lòng tự trọng trong
trường hợp như thế này thường chỉ làm cho người được đề cao cảm thấy ái ngại
hơn là hãnh diện. Có lẽ khi đưa ra nhận xét này, tác giả đã không kìm được sự
nồng nhiệt vì yêu mến nhà văn c
hăng?
Cũng trong cuộc toạ đàm này, nhận định của nhà nghiên cứu Trần Đình Sử
cũng không khác những người cùng tham dự là mấy. Trong Nên đọc kỹ để thấy
công phu của tác giả, nhà nghiên cứu nhận thấy: “Truyện của Trang Thế Hy đề cao




tình nghĩa, khẳng định tình nghĩa là giá trị lâu bền nhất, nhắc người đời đừng quên
tình nghĩa. (…) Truyện của Trang Thế Hy triết lý nhiều, cả nhân vật bình thường
cũng triết lý, đó là nét độc đáo. Đó là triết lý của nhân dân”. Đây là một nhận xét
không hề cảm tính của một nhà nghiên cứu có tầm cỡ. Cũng đã có người cho rằng
Trang Thế Hy hay “triết lý vặt”. Nhà văn đã tỏ ra khá buồn khi
nghe điều này.
Buồn, chỉ vì người đó không “đọc” ra được dụng ý của nhà văn khi ông để cho
nhân vật của mình triết lý, chứ không phải buồn vì “bị chê”. Nhưng rốt cuộc cũng
đã có những người hiểu ông. Và trong số đó, có những nhà nghiên cứu vừa có tâm,
vừa có tầm. Hy vọng điều đó có thể làm nhà văn và những người hiểu ông, yêu mến
văn chương và con người thực của ông cảm thấy yê
n lòng!
Trong Bốn điều rút ra từ tập truyện ngắn, nhà phê bình Hồng Diệu nhận thấy
rằng Trang Thế Hy thường tâm đắc với hai đề tài chính là đời sống cách mạng và
trách nhiệm của nhà văn, văn nghệ sĩ. Nhận xét về văn phong của Trang Thế Hy,
Hồng Diệu viết:
“Văn của Trang Thế Hy phần nhiều là văn kể chuyện – hoặc do tác

giả kể, hoặc do nhân vật kể – Đó là những cách kể c
huyện có duyên,
nhiều khi hóm hỉnh, với những triết lý giản dị, có sức thuyết phục (…)
Truyện Trang Thế Hy giàu lòng nhân ái. Văn ông hiểu rõ bản sắc
của một vùng đất, từ ngôn ngữ địa phương đến cảnh sắc thiên nhiên, cây
cỏ, và con người ở đấy (…)”
Đó cũng là những nhận định xác đáng dù chưa bao quát được đầy đủ nội
dung và hì
nh thức các sáng tác của Trang Thế Hy. Nhà phê bình đã tỏ ra hiểu và
cảm truyện của Trang Thế Hy ở một mức độ cao. Tuy vậy, Hồng Diệu lại có chỗ
chưa đồng cảm được với nhà văn khi viết: “Hình như nhà văn đã tham sử dụng hơi
nhiều chủ đề phụ, những đưa đẩy, luyến láy, do đó làm loãng cái chính?” Thực ra,
đây là một điểm kh
á đặc biệt trong phong cách của nhà văn mà người đọc nếu
không tinh sẽ không dễ nhận ra. Đó là do kiểu tự sự của ông: tự sự phi cốt truyện,




chú ý đến vấn đề hơn là chú trọng xây dựng cốt truyện. Hong Diệu đã quá chú tâm
bám vào cốt truyện để tìm chủ đề nên không nhận ra điểm này.
Nhà văn Trung Trung Đỉnh trong Mỗi truyện ngắn là một đoạn đời nặng
nhọc của nhà văn lại chú ý đến nhân vật xưng “tôi” – một điều dễ thấy trong truyện
của Trang Thế Hy. Ông viết: “Nhân vật của ông đều l
à chỗ bạn bè tình nghĩa. Họ
là bạn đời của ông trước khi ông nhập vào trang viết, cho nên tôi thấy ông dùng
ngôi thứ nhất rất đắc địa”… Trung Trung Đỉnh cũng nhận thấy Trang Thế Hy “đau
đáu với nghề, căm ghét thứ văn chương nghệ thuật bịa tạc khoa trương ồn ã. Các
nhân vật là nghệ sĩ của ông đều bộc lộ quan điểm sáng tác của ông rất rõ…”. Tác
giả có m

inh hoạ bằng một vài dẫn chứng khá tiêu biểu cho những luận điểm của
mình.
Cũng thế, nhà phê bình Bùi Việt Thắng cho rằng Trang Thế Hy kể chuyện có
duyên. Cái duyên này được nhà phê bình nhận ra từ việc nhà văn sử dụng ngôi kể
thứ nhất. “Đây là cách kể chuyện có hiệu quả mà nhà văn thường vận dụng vì đứng
kể ở ngôi vị ấy, người kể chuyện sẽ tự do hơn, dễ chân thành hơn. Tuy nhiê
n trong
những truyện còn lại, dù kể ở ngôi thứ ba và có khi “giả tên” “đóng vai khác” thì
cái Tôi vẫn cư ngụ trong đó”. Ai đọc truyện của Trang Thế Hy cũng không khó
khăn gì để nhận ra điều này. Và đây cũng là điều đặc biệt tạo nên nét riêng trong
cách viết của nhà văn.
Có nhiều cảm tình với những sáng tác của Trang Thế Hy phải kể đến nhà văn
Nguyên Ngọc. Trong Người hiền của văn c
hương Nam Bộ, bài viết đã được đăng
tải trên www.diendan.org
, www.trangthehy.googlepages.com và đã được chọn làm
lời mở đầu cho tuyển tập Truyện ngắn Trang Thế Hy ( Nhà xuất bản Văn hoá Sài
Gòn, 2006), nhà văn của Tây Nguyên này đã đánh giá Trang Thế Hy rất cao. Bài
viết dù chưa bao quát đầy đủ các sáng tác của nhà văn, nhưng đã chứng tỏ một cái
nhìn có chiều sâu về các sáng tác của nhà văn Nam Bộ này, đồng thời thể hiện một
tấm tình tri âm. Nguyên Ngọc chú trọng tới nét độc đáo cả về nội dung và nghệ
thuật của truyện ngắn Trang Thế Hy. Ông đã so sánh Trang Thế Hy với Nguyễn




Tuân, một nhà văn tài hoa và độc đáo vào bậc nhất trên văn đàn Việt Nam, về
những độc đáo ấy. Ông viết:
(…) Có lẽ đọc thật kỹ Trang Thế Hy, sẽ thấy anh gần Nguyễn Tuân
chính ở chỗ này. Anh cũng là người chơi trò chơi thanh nhã ấy, (nghĩa là

tiếp tục cái truyền thống của các bậc tao nhân mặc khách xưa, cho nên,
nhìn kỹ mà xem, ở Trang Thế Hy vừa có cái gì đó rất hiện thực, hiện đại,
vừa có cái gì đó rất xưa, thậm chí có phần cổ kính nữa)

(…) Trang Thế Hy là người chăm chút đi tìm những cái đẹp nhỏ
nhoi, lẩn khuất, bị bỏ quên, hoặc ở trong những góc hẻo của cuộc đời,
hoặc bị vùi trong bùn đất nghèo khốn…
(…) Và bây giờ, thử trở lại với so sánh ban đầu: Trang Thế Hy và
Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân đi tìm cái đẹp ở chỗ cầu kỳ, (…), Trang Thế
Hy, cũng tinh vi không kém, nhưng anh đi tìm cái đẹp trong sự giản dị
của cuộc đời thường
, (…), ở những con người “thường”, (…), và ở tận
đáy nữa của cuộc đời ấy… Ở hai hướng khác nhau, nhưng đều vì cái
đẹp, và như vậy, họ khiến cho thế giới phong phú ra rất nhiều.
Về ngôn ngữ của Trang Thế Hy, Nguyên Ngọc cũng đưa ra một nhận xét khá
thú vị: “Ta đã biết Nguyễn T
uân độc đáo trong ngôn ngữ Việt của ông như thế nào.
Ông “chơi” rất tinh, đến cầu kỳ nhiều khi, trên từng con chữ. Trang Thế Hy kỹ
chẳng kém, tài hoa chẳng kém, cũng chơi trên từng con chữ, nhưng ông rất Nam
Bộ, rất “miền Tây””…
Đây quả là những nhận xét tinh tế. Văn chương Trang Thế Hy không phải
chỉ có bấy nhiêu, nhưng đó là nét độc đáo, nét nổi bật nhất. Và nhà văn N
guyên
Ngọc đã bắt được hồn vía của nó. Ông không phân tích nhiều, chỉ lẩy ra một vài
dẫn chứng nhưng sức thuyết phục rất cao.
Tìm trên trang web www.trangthehy.googlepages.com
của nhà văn Trang
Thế Hy (trang web này do nhà văn Lý Lan thiết kế và thực hiện), cũng như trang
www.vietbao.vn
, www.angiang.gov.vn, chúng tôi được tham khảo một số bài viết





nhận định về sáng tác của nhà văn. Một bài viết khá bao quát về sự nghiệp văn
chương của Trang Thế Hy chính là Đọc Trang Thế Hy của nhà nghiên cứu Trần
Hữu Tá. (Trong Từ điển Văn học (bộ mới) do nhà xuất bản Thế giới ấn hành năm
2004 cũng đã có mục từ Trang Thế Hy. Đây cũng là phần do PGS.TS Trần Hữu Tá
đảm nhiệm nhằm giới thiệu nhà văn Trang Thế Hy nên không có khác biệt nhiều so
với một số thông tin trong bài viết này.
Vì thế, chúng tôi xin không nói tới để tránh
lặp lại). Dù không dài, nhưng bài nghiên cứu đã có chức năng tổng hợp những nét
chính trong quá trình sáng tác của Trang Thế Hy về mọi mặt, thêm vào đó là những
dẫn chứng được phân tích cụ thể để minh chứng cho các nhận định. PGS TS Trần
Hữu Tá đã chia quá trình sáng tác của Trang Thế Hy làm hai giai đoạn căn cứ vào
những biến đổi về nội dung vấn đề m
à nhà văn quan tâm: trước và sau 1975.
Nhận xét về sức viết của nhà văn trước 1975 trên tuần báo Nhân loại (bộ
mới), nhà nghiên cứu đã viết:
(…) Dưới những bút danh khác nhau: Trang Thế Hy, Văn Phụng
Mỹ, Phạm Võ…, ông liên tục xuất hiện trên hầu hết các số báo. Sức viết
của ông thời kỳ này thật đáng nể.
Có lẽ vì đang lúc niên tráng lực cường, nhưng chủ yếu theo tôi, là
vì sự thôi thúc không ngừng của tinh t
hần công dân – chiến sĩ chân
chính. Đất nước đang lâm nạn, kẻ sĩ đâu có thể tọa thị điềm nhiên!
Cũng về giai đoạn sáng tác này, nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá đã chú ý đến
cả nội dung và hình thức thể hiện trong tác phẩm của Trang Thế Hy:
(…) Tiếp nối Hồ Biểu Chánh, Phi Vân…, Trang Thế Hy đã dựng
lên những cảnh trí Nam Bộ với đặc trưng khó lẫn

. (…) Khác với Hồ Biểu
Chánh, Phi Vân…, cảnh trí và con người Nam Bộ trong tác phẩm Trang
Thế Hy đang bị quay cuồng trong dông bão, ngày ngày rỉ máu do thế lực
ngoại xâm…
(…) Cách viết kín đáo xa xôi, mượn xưa nói nay, mượn ngoài nói
trong, thậm chí mượn chuyện hoang đường hư huyễn để gửi gắm những




ý tưởng cháy bỏng của mình, giai đoạn sáng tác này của Trang Thế Hy
(…) đã sử dụng rất nhuyễn, và đã tác động sâu sắc đến tư tưởng người
đọc thành thị miền Nam.
Thế nhưng khi có điều kiện, ông cũng không ngần ngại đề cập đến
mặt trái của xã hội Sài Gòn đang trượt dài trên dốc của lối sống vật chất
chủ nghĩa.
Nhà nghiên cứu đã phân tích thật gọn về nhân vật Hường,
người con gái tội
nghiệp trong truyện Một thiếu nữ không đáng kể cũng như đề cập đến các truyện
Nắng đẹp miền quê ngoại, Ao lụa giồng… để làm sáng rõ những nhận định của
mình. Tác giả cũng đã so sánh Trang Thế Hy với những cây bút gạo cội như Hồ
Biểu Chánh, Phi Vân để thấy những khác biệt trong văn chương của nhà văn quê
Hữu Định. Dường như tác giả bài viết đã không hề ngẫu nhiê
n khi đem so sánh các
nhà văn này với nhau!
Về sáng tác của Trang Thế Hy giai đoạn sau 1975, nhà nghiên cứu nhận
thấy:
“Sau năm 1975 là một giai đoạn sáng tác mới, rất có chất lượng
của Trang Thế Hy. Nhu cầu của cách mạng không còn quá thúc bách,
ông có điều kiện viết kỹ hơn. (…) Chắc chắn không phải vì “lão lai tài

tận”, mà tôi tin là do đã trải nghiệm nhiều trong cuộc sống, (
…), ông đã
tự kiềm chế để chắt lọc từng dòng chữ, mang lại cho người đọc những
trang văn tinh khiết, thẳm sâu, giàu sức ám ảnh.
(…) Trong giai đoạn sáng tác mới này, Trang Thế Hy đã tự đổi mới
rất nhiều trong sáng tác nghệ thuật. Vẫn nhất quán trong việc tìm cảm
hứng từ những con người và những cảnh đời quen thuộc quanh mình
nhưng giờ đây, ông chú ý đến vấn đề nhiều hơn cốt truyện, quan tâm
nhiều đến tâm trạng hơn là k
hắc hoạ tính cách.”
Tác giả đã đưa ra truyện Nợ nước mắt, một truyện ngắn khá dài của Trang
Thế Hy, để làm dẫn chứng khá thuyết phục.




Nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá cũng đề cập đến một phương diện khá đậm
trong sáng tác của Trang Thế Hy. Đó là việc “ông trăn trở với nhiều vấn đề muôn
thuở nhưng luôn có giá trị thời sự của lĩnh vực nghệ thuật cao quý như nhân cách
người cầm bút, khát vọng chân chính của người nghệ sĩ”… PGS Trần Hữu Tá đã
phân tích thật ngắn mà thật hay truyện ngắn Tiếng hát và tiếng k
hóc – một truyện
ngắn hay mà nhà nghiên cứu coi như tuyên ngôn nghệ thuật của Trang Thế Hy – để
làm rõ điều ấy.
Kết thúc bài viết của mình, tác giả đưa ra lời tổng kết ngắn gọn mà chính xác
cho cả nội dung và hình thức thể hiện của truyện ngắn Trang Thế Hy:
Rõ ràng, kêu gọi hướng thiện là tư tưởng nghệ thuật xuyên suốt các
giai đoạn sáng tác của Trang Thế Hy. Tư tưởng đó đã đư
ợc tác giả
chuyển tải bằng giọng điệu bình dị, từ tốn, đôi khi pha chút hài hước kín

đáo, thông minh, tạo nên cái duyên riêng, sức hấp dẫn riêng. Sức hấp
dẫn ấy không mãnh liệt nhưng thấm sâu, bền chắc.
Còn một số vấn đề nữa trong sáng tác của Trang Thế Hy mà chúng tôi chưa
thấy tác giả bài viết đưa ra. Đó cũng là phần đất trống mà chúng tôi hy vọng có thể
khai phá. Trong khuôn khổ một bài viết ngắn, như tác giả đã trình bày từ đầu, là để
mừng sinh nhật thứ tám mươi của nhà văn, bấy nhiêu đó là quá nhiều. Đây
là một
bài viết có nhiều gợi ý quan trọng giúp cho chúng tôi tìm ra hướng đi cơ bản trong
việc nghiên cứu đề tài này.

Một bài viết khác cũng được nhiều trang web đăng tải
(
www.baodientusonla.com.vn, www.cinet.gov.vn, …), đó là bài viết về tập Truyện
ngắn Trang Thế Hy do nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn ấn hành năm 2006: Đọc
“Truyện ngắn Trang Thế Hy” để thấy quý trọng cuộc sống. Chúng tôi đã cố gắng
tìm nhưng không thấy tên tác giả đi kèm bài viết. Đây là một điều đáng tiếc. Tác giả
bài viết đã đưa ra những nhận xét sâu sắc về lời thoại, về hệ thống nhân vật và về
thiên nhiên trong truyện của T
rang Thế Hy kèm theo một số dẫn chứng khá tiêu
biểu. Tác giả đã viết về Trang Thế Hy với một lòng ngưỡng mộ không hề che giấu:




… “với những độc giả yêu văn của cây bút vừa qua tuổi bát thập, từng trang viết
của ông là sự hòa hợp kỳ lạ giữa kiến thức uyên bác về văn hóa – ngôn ngữ –
phong tục – vô số loài cây ngọn cỏ đồng bằng sông Cửu Long”.

Tháng 12 – 2007 vừa qua, trong dịp được diện kiến nhà văn tại tư gia của
ông, chúng tôi được ông cung cấp một cuốn tài liệu do nhà thơ Cao Xuân Sơn tuyển

chọn. Đây là cuốn sách lưu hành nội bộ mừng nhà văn Tr
ang Thế Hy 80 tuổi. Cuốn
sách này có hầu hết những bài viết chúng tôi đã đề cập trên đây. Tuy nhiên chúng
tôi còn thấy có những bài viết khác có giá trị chưa được công bố rộng rãi.
Trước tiên là bài Trang Thế Hy, nhà văn chắt chiu từng chữ từng câu của
nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Trong bài viết này, Nguyễn Quang Sáng đã nhận
thấy ngòi bút của Trang Thế Hy nghiêng về những con người không may mắn. Ong
cũng cho rằng đọc văn Trang Thế Hy phải đọc chậm mới thấy đư
ợc cái hay, cái đặc
sắc của mỗi câu, mỗi chữ nhà văn này viết ra. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng
đưa ra nhận xét về nhân vật xưng “tôi” khá đặc biệt trong truyện của Trang Thế Hy.
Ông viết: “cái “tôi” trong truyện của anh chính là anh, anh không né tránh, anh là
nhà văn, là nhà văn đối thoại với nhân vật của mình”. Ông cho rằng Trang Thế Hy
chọn cách thể hiện nà
y vừa độc đáo, vừa rõ ràng, vừa thuận tiện vì là một nhà văn
đối thoại với nhân vật, cái “tôi” ấy cho phép nhà văn toàn quyền với nhân vật của
mình. Ông cũng đọc thấy tính dự báo trong văn của Trang Thế Hy. Đó là điều
không phải ai cũng nhìn thấy.
Tiếp theo là tham luận tại bàn tròn văn xuôi đồng bằng sông Cửu Long 10 –
9 – 2004 của PGS.TS Phạm Quang Trung dưới tựa đề Bài học sáng tạo từ văn
nghiệp của Trang T
hế Hy . Ở bài này, PGS Phạm Quang Trung đã viết về Trang
Thế Hy: “ (..) so với nhiều nhà văn Nam Bộ, ông tách riêng ra một cõi, vừa nghiêm
cẩn vừa sâu lắng, vừa Nam Bộ vừa Việt Nam, thậm chí có những nét gặp gỡ nhân
loại bao la ở tầng thẳm sâu nhất”. Ông đã rút ra bốn bài học cụ thể dành cho những
người chọn nghiệp viết thông qua một số truyện ngắn tiêu biểu của T
rang Thế Hy.
Đó là chữ “tinh” trong nghề viết; là phải thấu hiểu đến tận gốc gác, ngọn nguồn bề





sâu của bao tấn bi kịch mà con người trong đời từng trải qua; là sự khám phá về mặt
tư tưởng bộc lộ qua cách nhìn, cách nghĩ của nhà văn; là việc giải quyết mâu thuẫn
giữa tính chân thực của nghệ thuật và tính hiện thực của đời sống trong giai đoạn
chiến tranh vừa kết thúc. Rút ra được bốn bài học đó là nhà nghiên cứu đã thấu hiểu
tâm tư cũng như những tiêu chí “làm nghề” nghiêm túc của nhà văn.

Với nhà văn Hoàng Đình Quang, trong bài “Trang Thế Hy – thầy tôi”, anh
đã có nhận xét tỏ ra rất ấn tượng về câu văn của Trang Thế Hy: “Đọc truyện ngắn
của Trang Thế Hy thấy câu văn dài mướt như cả truyện chỉ có một câu văn mà thôi.
Cái lạ của câu văn ông là dài mà không khó hiểu, những mệnh đề rất rạch ròi, đọc
hết câu, ngẩn ra, đọc lại thấy hay hơn”. Đây là một nhận xét đúng với tất cả những
truyện ngắn của Trang Thế Hy. Ai đã đọc văn của nhà văn lão thành nà
y cũng có
thể thấy điều đặc biệt ấy.
Nhà nghiên cứu Hoài Anh với bài Người suốt đời lo trả “nợ nước mắt” đã
đưa ra nhiều nhận định có giá trị về truyện ngắn của Trang Thế Hy. Bằng việc phân
tích khá hay một số truyện ngắn tiêu biểu, Hoài A
nh đã thấy được Trang Thế Hy
thường đi vào cảnh đời u uẩn của những con người kém may mắn trong xã hội
nhưng luôn giữ được lòng tự trọng. Truyện của Trang Thế Hy thường kết hợp nhiều
bình diện trong cùng một truyện nên tạo ra sự đa nghĩa, đa thanh, giàu sắc thái.
Hoài Anh cũng đã đề cập đến vấn đề khá nổi cộm trong truyện của Trang Thế Hy,

đó là vấn đề phẩm chất của người nghệ sĩ trong đời sống.
Trong bài Trang Thế Hy qua tròng kính viễn của tôi, bằng lối viết giàu hình
tượng, nhà thơ La Quốc Tiến đã phác ra được đôi nét đặc điểm truyện ngắn của
Trang Thế Hy. Đầu tiên là sự thành công của nhà văn trong việc khắc họa nên hình
tượng nhân vật nghệ sĩ, “những kẻ có tài, có tâm nhưng lại thiếu c

hút may mắn (?)
hoặc đánh mất chữ thời trong ghềnh thác cuộc đời”. Tiếp đó là tư tưởng hướng
thiện trong sáng tác của Trang Thế Hy:
Cái Ác được Trang Thế Hy hình tượng hóa như là những “lỗ đen”
của tâm hồn, chứng “thiểu năng” của nhân cách, do vậy nên khoan thứ




hơn là chấp nệ hoặc đòi hỏi trả giá. Trong truyện ngắn của ông, cái
Thiện không hề được vinh danh ở bất kỳ mô-típ nào, ông cũng không
dám vạch nẻo thiên lương, thế nhưng người đọc vẫn cảm nhận được
tiếng gọi trầm thống của sự quay về với ĐẠO, vượt lên trên những điều
răn thông tục mà phù phiếm.
Ngoài ra, chúng tôi còn thấy có những bài phỏng vấn nhà văn và một số bài
viết bà
y tỏ sự yêu mến, ngưỡng mộ dành cho ông như Trò chuyện với nhà văn
Trang Thế Hy (Phan Tấn Hà, báo Tuổi trẻ Chủ nhật, ngày 29/4/2001) Một buổi
sáng Trang Thế Hy (Sa Nam, báo Sài Gòn giải phóng online, ngày 12/5/2007),
Trang Thế Hy: Tôi chung thủy nhưng hờ hững… ( Thúy Nga, báo Tuổi Tre online,
ngày 11/3/2007), …Thông qua những bài viết ấy, chúng ta có thể thấy được nhân
cách của nhà văn, sự lịch lãm và cách sống của một người thông tuệ m
à khiêm nhu.
Cũng từ những bài viết ấy, chúng ta thấy niềm tin yêu, nể phục của nhiều người
dành cho ông là có thật. Và ông rất xứng đáng với những tình cảm ấy. Những bài
viết này không cung cấp thông tin về các sáng tác của Trang Thế Hy nhưng là
những khơi mở để chúng ta có thể hiểu hơn về con người cũng như quan niệm nghệ
thuật của nhà văn, từ đó có được cái nhìn thấu đáo hơn trong khi tiếp cận các truyện
ngắn của ông.


Tóm lại, những bài viết của các nhà văn, nhà phê bình, nghiên cứu vừa kể
trên đều đã đề cập đến nhiều khía cạnh, nhiều nét đặc sắc khác nhau trong sáng tác
của Trang Thế Hy. Tất cả những nhận định quý báu đó sẽ là cơ sở cần thiết để
chúng tôi tiếp cận và tìm hiểu kỹ lưỡng về những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn
Trang Thế Hy.
3. Đối tượn
g và phạm vi nghiên cứu
Đề tài khảo sát các truyện ngắn của nhà văn Trang Thế Hy (thuộc cả hai giai
đoạn trước và sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng) để tìm ra những nét độc
đáo về nội dung cũng như nghệ thuật trong các sáng tác của nhà văn. Do nhiều
truyện đã thất lạc qua thời gian, chúng tôi chỉ có thể tìm hiểu 33 truyện ngắn còn lại




trong tuyển tập mới nhất là Truyện ngắn Trang Thế Hy ( Nxb Văn hóa Sài Gòn,
2006) và phần tuyển chọn của PGS Trần Hữu Tá trong chuyên luận Nhìn lại một
chặng đường Văn học (Nxb TP. Hồ Chí Minh, 2000). Tuy không đầy đủ, nhưng
chúng tôi cảm thấy an tâm khi được chính nhà văn khẳng định rằng những truyện
ngắn còn lưu giữ được cũng là những truyện tiêu biểu trong sự nghiệp của ông.
Quan trọng hơn, nội dung tư tưởng cũng như bút phá
p nghệ thuật của các truyện
này đã biểu hiện đầy đủ những nét chính trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của nhà
văn. Điều này có nghĩa là chúng ta hoàn toàn có căn cứ để khẳng định các đặc điểm
truyện ngắn Trang Thế Hy thông qua những truyện ngắn nói trên mà không sợ
phiến diện.
Để đi vào tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn của một tác g
iả, chúng tôi cũng đi
theo con đường mà các nhà nghiên cứu khác từng đi. Đó là lần lượt xem xét các
bình diện như quan niệm nghệ thuật, nội dung tự sự, phương thức tự sự, ngôn ngữ

nghệ thuật. Với đề tài Đặc điểm truyện ngắn Trang Thế Hy cũng vậy. Đây là những
bước đi không có gì mới mẻ, nhưng là những bước căn bản và cần thiết để có thể
hiểu đúng về một tác giả cũng như những đặc điểm
chính trong sáng tác của tác giả
ấy.
4. Đóng góp của luận văn
Trang Thế Hy là nhà văn có quá trình cầm bút khá dài: non nửa thế kỷ. Tác
phẩm ông dành tặng cho cuộc đời không nhiều (chỉ trên dưới năm mươi truyện
ngắn), bởi ông viết rất chậm, rất khó. Mỗi khi đặt bút viết là một lần ông bày tỏ
những trở trăn, day dứt của một con người nặng lòng với nhâ
n sinh. Thế nhưng đến
nay vẫn chưa có một công trình nào khảo sát về nhà văn bình dị mà độc đáo này
một cách kỹ lưỡng, đầy đủ.
Luận văn này muốn góp phần nhỏ bé khẳng định những đóng góp của Trang
Thế Hy, nhà văn của mảnh đất Nam Bộ màu mỡ, của những con người Nam Bộ bộc
trực mà chan chứa nghĩa tình, bằng việc:




- Phát hiện những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật qua phân tích những
biểu hiện cụ thể, tiêu biểu trong các truyện ngắn của Trang Thế Hy .
- Khẳng định sự thống nhất chặt chẽ giữa bút pháp nghệ thuật và tư tưởng,
cảm hứng trong các sáng tác của ông.
- Đặt những sáng tác của nhà văn trong tiến trình vận động của văn học yêu
nước thành thị miền Nam 1954 – 1975 nói riêng, văn học Nam Bộ nửa sau thế kỷ
XX nói c
hung để thấy rõ những đóng góp của người nghệ sĩ này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp một số phương pháp sau:

- Phương pháp hệ thống: là phương pháp hữu hiệu trong việc xác định những
đặc điểm nghệ thuật trong tác phẩm của Trang Thế Hy. Đặc điểm nghệ thuật của
một tác giả thường trải dài trong suốt sự nghiệp của tác giả đó chứ ít khi thể hiện
đầy đủ trong một hay một vài tác phẩm (trừ một vài trường hợp đặc biệt như Truyện
Kiều (Nguyễn D
u) hay Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu)). Truyện ngắn của
Trang Thế Hy cũng không là ngoại lệ. Cần có một cái nhìn xuyên suốt để chỉ ra
được đầy đủ những đặc điểm đáng chú ý trong sự nghiệp của ông.
- Phương pháp phân tích: Tìm hiểu đặc điểm tru
yện ngắn Trang Thế Hy,
việc trước tiên phải làm là đi vào phân tích chính các sáng tác của nhà văn này. Trên cơ
sở đó chúng ta sẽ có cái nhìn đầy đủ, toàn diện về các đặc điểm đáng chú ý.
- Phương pháp thống kê: Trong quá trình tìm hiểu tryện ngắn của Trang Thế
Hy, có những đặc điểm được khái quát dựa trên
sự phân tích, tổng hợp, và đương
nhiên, cần một sự thống kê để của chúng ta có cơ sở nhận định chắc chắn, giàu sức
thuyết phục.
- Phương pháp so sánh - lịch sử: Song song với việc phân tích, chúng tôi cố
gắng so sánh chính những sáng tác của Trang Thế Hy trước và sau ngày miền Nam
hoàn toàn giải phóng để thấy sự biến đổi về bút pháp cũng như nội dung thể hiện
của ông. Một số nhà văn Nam
Bộ cùng lý tưởng với ông và một số nhà văn ở miền




Bắc thế hệ trước cũng có những điểm gặp gỡ ông trong sáng tác. Vì thế, chúng tôi
cũng so sánh sáng tác của họ với các sáng tác của ông để thấy được nét riêng của
nhà văn trong việc thể hiện tài năng cũng như quan niệm nhân sinh.
6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, thư mục và phụ lục, danh mục tài liệu tham
khảo, phần cơ bản của luận văn gồm có ba chương:
Chương 1
: TRANG THẾ HY - NGÒI BÚT CẢM THÔNG, BÊNH VỰC NHỮNG
CON NGƯỜI BẤT HẠNH (xét từ bình diện quan niệm nghệ thuật của nhà văn)
Chương 2
: CON NGƯỜI VÀ VÙNG ĐẤT NAM BỘ TRONG TRUYỆN NGẮN
TRANG THẾ HY ( xét từ bình diện nội dung tự sự)
Chương 3
: NHỮNG TRANG VIẾT ĐẬM CHẤT TRỮ TÌNH SÂU LẮNG (xét
theo phương thức tự sự).




Chương 1
TRANG THẾ HY
NGÒI BÚT CẢM THÔNG, BÊNH VỰC NHỮNG CON NGƯỜI BẤT HẠNH
1.1. Vài nét về nhà văn và quá trình sáng tác
1.1.1. Vài nét về nhà văn:
Trang Thế Hy tên thật là Võ Trọng Cảnh, sinh ngày 29.10.1924, quê ở xã
Hữu Định, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
Trong những năm 1942-1943, cuộc sống khó khăn đã khiến anh thanh niên
Võ Trọng Cảnh rời quê lên Sài Gòn kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau như làm
kiểm vé xe điện, làm thủ kho … Mảnh đất Sài thành không ngờ lại là một nơi nhiều
duyê
n nợ với nghiệp văn chương của người thanh niên đang dở dang học vấn này.
Cũng như bao thanh niên cùng thế hệ, Võ Trọng Cảnh tham gia cách mạng
từ ngay sau Cách mạng tháng Tám với một nhiệt huyết yêu nước sục sôi . Thời gian
ấy, ông vẫn còn ở quê nội là Hữu Định. Sau đó ông bắt đầu công tác tại Ty thông

tin tuyên truyền tỉnh Bến Tre. Năm 1951, Võ Trọng Cảnh được rút về Sở thông tin
Nam Bộ; sau đó chuyển về Ty thông tin Cần Thơ cho đến ngày ký kết hiệp định
Genè
ve tháng 7-1954.
Vào khoảng 1949 – 1950, ở Bến Tre có Phân hội Văn nghệ kháng chiến tỉnh.
Võ Trọng Cảnh lúc này cũng có làm dăm bài thơ nhưng hoạt động văn nghệ thực sự
thì chưa có gì. Tháng 7.1954 ông có làm một bài thơ dài mang tên Thanh gươm
tháng Tám in trên báo Nhân dân của tỉnh. Bài thơ nói lên tâm sự của người đi
kháng chiến nhớ về một người bạn cũ đã rời bỏ đội ngũ, sống bơ vơ, không mục
đích. Chủ đích của ông khi viết bài thơ đơn giản chỉ là phục vụ cho công tác binh
vận. D
ù vậy, đây là bài thơ được Trang Thế Hy ghi nhớ bởi nó là dấu mốc đầu tiên
trong ý thức sử dụng ngòi bút làm vũ khí chiến đấu.
Sau 1954, trong khi nhiều người chọn nguyện vọng tập kết ra Bắc thì Võ
Trọng Cảnh xi
n được ở lại bám quê, mai phục đấu tranh chờ ngày thống nhất đất




nước. Cho đến 1956, ông vẫn làm công tác tuyên huấn tại Thị uỷ Bến Tre, phụ trách
việc ra một tờ thông tin (cũng chỉ là viết tay trên bản kẽm và in những tờ tin nhỏ).
Từ cuối 1956, tình hình bắt đầu cam go, cán bộ cách mạng bị địch săn đuổi
rất gắt gao. Lúc bấy giờ, tỉnh có chủ trương đưa những cán bộ bị truy đuổi ráo riết
lánh đi, rồi hoạt động công khai, tạo thế hợp pháp mới. Ông được lệnh đi “điều
lắng” và được chọn S
ài Gòn là địa bàn hoạt động mới. Điều này cũng có ít nhiều
thuận lợi cho ông bởi hơn mười năm trước đó ông đã từng lăn lộn kiếm sống ở
mảnh đất phồn hoa phức tạp này. Thời gian đầu, ông phải tự xoay sở kiếm sống.
Đầu tiên là dạy kèm

trẻ tại tư gia. Tiếp đó là sửa bản in ở các nhà xuất bản nhỏ.
Nhờ những năm tháng dạy học mà con người hiếu học, đầy ý chí phấn đấu ấy tiếp
tục tự học (vì ông chưa học hết bậc Trung học)và tự học thêm tiếng Pháp. Ông đã
tìm đọc, tìm mua nhiều sách cũ bằng tiếng Pháp để nâng cao vốn ngoại ngữ của
mình. Cũng chính từ đây, ông có cơ hội tiếp xúc với các nền văn học thế giới, “gặp
gỡ” được những nhà
văn lớn của thế giới như Tchekov, Gorki, Dostoievski,
Hemingway, Lỗ Tấn… Công việc sửa chữa bản in cũng là một nhịp cầu đầy duyên
nợ đem ông đến với văn chương. Ông được đọc nhiều tác phẩm của các tác giả
đương thời và nhận ra được nhiều điều bổ í
ch. Chính từ đây, sự tự tin của một con
người ham học hỏi, sự quyết tâm của một cán bộ tuyên huấn đã khiến ông nảy sinh
ý tưởng: mượn văn chương để làm công tác tuyên truyền. Dù trước đó không có
thiên hướng lắm về văn chương nhưng ông tự tin vào khả năng, vào mục đích của
mình và tự nhủ: mình sẽ viết được! Và ông bắt đầu viết với sự động viên, khuyến
khíc
h của các “đàn anh” trong nghề như Viễn Phương, Sơn Nam, Lý Văn Sâm…
Vài truyện ngắn đầu tiên của ông đã ra đời và được đăng trên báo Nhân loại với
bút danh Văn Phụng Mỹ (tức Văn chương phụng sự cái đẹp). Những truyện ngắn
sau đó như Nguồn cảm mới, Nắng đẹp miền quê ngoại, Vầng trăng bên kia
sông…đã nhanh chóng làm ông nổi tiếng. Năm
1959, ông chính thức lấy bút danh
Trang Thế Hy vì ông thấy bút danh Văn Phụng Mỹ đã “quê” rồi, không còn phù
hợp nữa. Ngoài truyện ngắn, Trang Thế Hy còn viết tiểu thuyết. Tiểu thuyết của




ông xuất hiện trên nhật báo Thủ Đô và tuần báo Chị cùng em dưới hình thức
feuilletons.

Cũng như số phận không may của những trí thức yêu nước, những cán bộ
cách mạng chân chính khác cùng thời, từ năm 1960 đến 1962, ông bị chính quyền
ngụy bắt giam. Trong tù, con người ham học ấy lại tranh thủ học thêm ít chữ Hán
của các giáo sư bị giam chung chứ nhất quyết không chịu để thời gian trôi qua vô
ích.
Năm 1963, ông vào khu giải phóng và ở trong biên chế của Ban Tuyê
n huấn
đặc khu Sài Gòn – Gia Định, công tác trong Tiểu ban văn nghệ thuộc Trung ương
cục miền Nam. Trong thời gian ấy, ông đã gặp gỡ và hoạt động cùng với các văn
nghệ sĩ như Giang Nam, Lý Văn Sâm, Trần Hiếu Minh. Và ông tiếp tục viết văn.
Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, ông trở về Sài Gòn và sống tại
căn hộ tập thể 190 Nam Kỳ Khởi Nghĩa (thuộc quận 3 Thành phố Hồ Ch
í Mnh
ngày nay). Có nhiều thời gian cũng như vốn sống thực tế, ông viết đều và đã xuất
bản các tập truyện: Mưa ấm, Người yêu và mùa thu, Vết thương thứ mười ba . Tập
truyện ngắn Tiếng khóc và tiếng hát của ông do Hội văn nghệ Bến Tre xuất bản đã
được giải thưởng Hội nhà văn năm 1998.
Viết đều, viết đư
ợc, với một vốn kiến thức uyên thâm và khát khao học hỏi,
thế nhưng sau đó ông đã gần như không viết nữa. Có lẽ ông đã bị trầm cảm. Cũng
có thể ông muốn dành nhiều thời gian để chiêm nghiệm lẽ đời. Năm 1992 đến nay,
ông trở về sống lặng lẽ tại quê nhà, theo cách nói của ông là để chuẩn bị “đi chỗ
khác chơi”. Truyện ngắn cuối cùng mà Trang Thế Hy
viết chính là truyện Hai
người nhìn mưa dầm, một truyện ông rất yêu mến bởi ông viết về một người bạn
mà ông mến yêu, về những kỷ niệm hằn sâu trong đời ông.
Thời gian sau này, Trang Thế Hy thỉnh thoảng làm thơ. Ông viết về những
điều ông chiêm nghiệm – những điều giản dị mà rất đỗi nhân văn. Ngoài ra ông
cũng là một dịch giả khá thành công với những bài thơ ha
y của thi hào

Rabindranath Tagore. Và cho dù là truyện ngắn, tiểu thuyết hay những bài thơ tự




do, những bài thơ dịch, văn chương Trang Thế Hy vẫn toát lên nét thâm trầm, sâu
lắng của một ngòi bút luôn trăn trở tìm cách để bảo vệ, gìn giữ cái đẹp của cõi
người.
1.1.2. Quá trình sáng tác:
1.1.2.1. Các giai đoạn sáng tác:
Như chúng ta đã biết trong phần tiểu sử, Trang Thế Hy sáng tác từ cuối 1956
cho đến mãi những năm 90 của thế kỷ XX (cụ thể: truyện ngắn cuối cùng Hai
người nhìn mưa dầm của ông viết năm
1993). Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy quá
trình ấy có những khác biệt đáng chú ý. Điều này được thể hiện ngay trong những
truyện ngắn của ông. Đó là sự thay đổi về nội dung tự sự và đặc trưng nghệ thuật.
Chúng ta tạm thời chia làm hai giai đoạn trong quá trình ấy.
Giai đoạn thứ nhất là những năm đầu Sài Gòn đặt dưới sự cai quản của chính
quyền Ngô Đình Diệm. Giai đoạn này, như phần đông các nhà văn thời bấy giờ,
Trang Thế Hy t
hường sử dụng lối viết mang tính ẩn dụ, với những biểu tượng hai
mặt, những hình ảnh mang tính biểu trưng cao. Lòng yêu nước thiết tha, sự căm thù
giặc mãnh liệt, niềm tin vào con người, tin vào sức mạnh của truyền thống văn hóa,
quyết tâm bảo vệ, gìn giữ đến cùng hồn dân tộc … được nhà văn t
hể hiện một cách
khá uyển chuyển trong tình thế chính trị hết sức khó khăn lúc đó. Ông lấy khá nhiều
bút danh khác nhau để dễ bề hoạt động dưới sự kìm kẹp của kẻ thù. Các bút danh
ông đã sử dụng là: Phạm Võ, Văn Phụng Mỹ, Triều Phong, Vũ Ái, Văn Minh Phẩm,
nhưng Trang Thế Hy chính là bút danh được nhà văn sử dụng nhiều nhất. (Nhà văn
cho hay, ông đã sử dụng bút da

nh Trang Thế Hy từ năm 1959 đến tận bây giờ).
Giai đoạn thứ hai là từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng(1975) cho
đến những năm 90 của thế kỷ trước. Tình thế đã thay đổi. Từ trạng thái bị nô lệ, mất
tự do, đất nước đã chuyển sang một thời kỳ mới: thời kỳ của hòa bình, độc lập, tự
do đích thực. Nhà văn không còn phải đối mặt với những ngăn t
rở, cấm đoán như
giai đoạn trước nữa, nghĩa là ngòi bút được tự do tung hoành. Nhưng cũng ngay sau
chiến tranh, một mảng hiện thực mới đã phơi lộ, để lại trong lòng nhà văn vốn đa




cảm những trăn trở khôn nguôi. Và những trăn trở về thời cuộc ấy đã được ông kín đáo
thể hiện trong những sáng tác ở giai đoạn sau này.
Thực ra khó mà phân chia rạch ròi giai đoạn sáng tác của nhà văn. Bởi phần
nhiều những đặc trưng truyện ngắn của ông đều có sự nhất quán từ đầu đến cuối
trong các sáng tác như cách viết ẩn dụ, dựng truyện phi cốt truyện, giọng trữ tình…
(chúng ta sẽ nói rõ ở phần sa
u), đặc biệt, cho dù viết ở giai đoạn nào, vấn đề cần
nhấn mạnh là gì đi chăng nữa thì Trang Thế Hy vẫn luôn dành những dòng tâm
huyết cho số đông những con người bất hạnh luôn thầm lặng của ông. Có khác
chăng là càng ngày, với nhiều trải nghiệm, tay bút này càng vững hơn, vấn đề đưa
ra nhiều hơn, sâu hơn, nhất là những vấn đề mới của thời cuộc.
1.1.
2.2. Những tập truyện ký đã xuất bản:
Kể từ khi bắt đầu sáng tác đến nay, nhà văn của chúng ta đã có bảy tập
truyện ký được xuất bản, bắt đầu với tập Nắng đẹp miền quê ngoại (1964) và gần
đây nhất là Truyện ngắn Trang Thế Hy (2006). Các tập còn lại lần lượt là:Mưa ấm
(1981), Người yêu và mùa thu (1981), Vết thương thứ mười ba (1989), Tiếng khóc
và tiếng hát (1993), Nợ nước mắt và những t

ruyện ngắn khác (2001). Trong các tập
truyện ký kể trên, tập sau có in lại một số tác phẩm tiêu biểu của tập trước.
Trang Thế Hy được biết đến với tư cách một nhà văn, nhưng những bài thơ
ông sáng tác cũng có một sức nặng đáng kể. Một trong số ít ỏi những bài thơ của
ông đã đư
ợc bình chọn là một trong 100 bài thơ hay của thế kỷ trong năm 2007. Đó
là bài Lời nói dối nhân ái. Những bài thơ khác của ông được người đọc biết đến là:
Dấu răng, Định lý và định lý, Lời dạy của mẹ về thời gian và văn minh, Bứt đứt sợi
chỉ hồng, Tấm vé số và những thiên đư
ờng có sẵn, Người bạn đường có tên là hy
vọng, …
1.1.2.3.Các giải thưởng đã đạt được:
- Giải thưởngvăn học Nguyễn Đình Chiểu của Hội Văn nghệ giải phóng
miền Nam (1960-1965) cho truyện ngắn Anh Thơm râu rồng.




- Tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1994 với tập truyện Tiếng
khóc và tiếng hát.
- Tặng thưởng loại A của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ
thuật Việt Nam năm 2001 cho tập truyện Nợ nước mắt.
1.2. Quan niệm nghệ thuật của Trang Thế Hy
Nhà văn có cái nhìn, cách nhìn rất riêng về con người, về thế giới. Cách nhìn
ấy được thể hiện thông qua sáng tác của chính ông.
Nga
y từ đầu, ông không hề có ý định “lập thân” bằng văn chương. Giản dị
và cao quý thay cái duyên cớ mà nhà văn cầm bút: để phục vụ cách mạng và …kiếm
sống! Và trong hành trình lặng lẽ của ngòi bút thâm trầm ấy, nhà văn của chúng ta
nhận ra trách nhiệm của mình là: viết văn để bênh vực những con người bất hạnh.

Nhà văn đã từng tâm sự:
Có nhiều người hỏi tôi và tôi cũng tự hỏi: C
ái gì làm nên ngòi bút
Trang Thế Hy? Có lẽ là điều này: ngòi bút của tôi dùng để bênh vực
những bất hạnh trong cuộc đời này. (…) Tôi nghĩ trong xã hội nào cũng
có người tốt người xấu, có người chân thật, kẻ giả dối, có cái ác đan cài
với cái thiện…, nhưng người bất hạnh thì nhiều lắm. Họ kém may mắn
trong đời sống xã hội đang đổi thay, họ bị vùi dập trong cuộc đời nghiệt
ngã nhưng vẫn giữ được chút l
òng tự trọng của con người. Tôi nghĩ
những con người như thế rất xứng đáng đưa lên những trang sách. Và
công việc của nhà văn là phải bênh vực người thất thế. [2, tr.85].
Quan niệm này được nhà văn thủy chung gìn giữ cả trong cuộc sống đời
thường cũng như trong các sáng tác của ông. Trong các sáng tác, quan niệm này
được thể hiện ở sự tự ý thức của một nhà văn châ
n chính.Đó trước hết là sự tự ý
thức về trách nhiệm của người cầm bút, thứ đến là tự ý thức về nhân cách của người
nghệ sĩ.


×