Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Người phụ nữ hiện đại qua cái nhìn của một số nhà văn nữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 125 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------

TRẦN THÚY AN



NGƯỜI PHỤ NỮ HIỆN ĐẠI
QUA CÁI NHÌN CỦA MỘT SỐ
NHÀ VĂN NỮ


Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34



LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC






NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. HUỲNH NHƯ PHƯƠNG








Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với tất cả các thầy cô giáo đã dạy dỗ tôi
trong quá trình học Cao học tại Trường Đại học Sư Phạm Tp. Hồ Chí Minh.

Tôi xin đặc biệt cảm ơn PGS.TS. Huỳnh Như Phương, người đã hướng dẫn tôi
làm luận văn này. Chính thầy đã gợi ý đề tài, cung cấp tài liệu, đọc luận văn và góp ý
nhiều lần để luận văn được ho
àn thiện như ngày hôm nay.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Giám đốc Sở GDĐT Tp. HCM, Trưởng phòng
GDĐT Quận 1, Ban giám hiệu Trường THCS Trần Văn Ơn Quận 1 và các đồng
nghiệp ở bộ môn văn đã quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi được đi học.

Tôi xin cảm ơn các nhà văn Dạ Ngân, Lý Lan, Võ Thị Hảo đã trả lời phỏng
vấn; cảm ơn các nhà văn Phong Điệp, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà đã cung cấp tư liệu để
luận văn có thêm
sức thuyết phục.

Xin cảm ơn gia đình đã là điểm tựa vững chắc để tôi hoàn thành nhiệm vụ học
tập.

Xin chân thành cảm ơn tất cả!










MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trong xã hội Việt Nam xưa, người phụ nữ có duyên với nghiệp văn chương rất
hiếm. Hiếm bởi người Việt Nam quan niệm đàn bà con gái sinh ra là để làm vợ, làm
mẹ, chứ không phải để thi thố tài năng. Họ không được học hành nên hầu như không
biết chữ. Cái quan niệm ấy ăn sâu vào máu thịt con người bởi ngay từ khi con còn
trong nôi mẹ đã ru rằng:
Gái thời giữ việc trong nhà
Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa
Trai thời đọc sách ngâm thơ
Dùi mài ki
nh sử để chờ kịp khoa
Ấy thế mà vẫn có những nữ sĩ được lưu danh muôn thuở. Đó là những gương
mặt thi ca đặc biệt xuất chúng mà có thể kể ra đây hai đại diện tiêu biểu: Hồ Xuân
Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Các nhà nghiên cứu văn học của ta đã tốn không ít
giấy mực để viết về cuộc đời v
à sáng tác thơ văn của hai bậc nữ lưu kì tài này.
Cùng với thời gian, quan niệm của xã hội về người phụ nữ có những thay đổi.
Con số phụ nữ viết văn, làm thơ tăng dần lên. Hoài Thanh trong cuốn “Thi nhân Việt
Nam” xuất bản năm 1942 đã giới thiệu bảy nhà thơ nữ trên tổng số 46 nhà thơ. Sau
1945, ở miền Bắc, số lượng các cây bút nữ tăng lên nhiều. Theo tác giả Châm
Khanh

trong bài “Phụ nữ và văn chương” đăng tải trên trang báo điện tử tienve.org, trong cả
thảy hơn 750 hội viên chính thức của Hội Nhà văn Việt Nam từ 1957 đến 1997 có
hơn 70 tác giả nữ, chiếm tỉ lệ chưa tới 10% nhưng đã cao hơn trước. Còn theo Võ
Phiến trong cuốn “Văn học Miền Nam, tổng quan” thì ở miền Nam từ 1954 đến 1975
trong số khoảng 60 tác giả tương đối có tiếng tăm, các cây bút nữ chiếm tỉ lệ 17%.
Những năm cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI
, văn đàn Việt Nam chứng kiến sự
bùng nổ về số lượng các nhà văn, nhà thơ nữ. Khó mà thống kê được con số chính
xác, nhưng lượng tác phẩm của họ nhiều không kém gì các đồng nghiệp nam. Có
người đặt câu hỏi : Tại sao thời điểm hiện nay lại xuất hiện nhiều cây bút nữ như
vậy? Câu hỏi này đã có nhiều người tìm cách lí giải, nhưng khó mà tìm ra câu trả lời
thấu đáo. Đó cũng là một trong những lí do khiến chúng tôi chọn nghiên cứu sáng tác
của các nhà văn nữ. Cũng phải nói rằng, tuy là phụ nữ, nhưng cũng như các nhà văn
nam giới, họ khai thác những vấn đề đa dạng, đa chiều của hiện thực cuộc sống muôn
màu muôn vẻ. Thế nhưng vì thuộc phái nữ nên trang văn của họ đậm chất nữ tính:
trắc ẩn, khoan dung, tinh tế và đằm t
hắm. Nhân vật chính của họ khá đa dạng với mọi
kiểu người ở những lứa tuổi khác nhau, nhưng nổi lên vẫn là những thân phận phụ nữ
bé nhỏ giữa dòng chảy ào ạt của cuộc đời. Tất nhiên, những nhà văn nam giới cũng
để nhiều tâm huyết viết về phụ nữ, nhưng nhân vật phụ nữ dưới cái nhìn của các nhà
văn nữ giới vẫn có nét độc đáo riêng, là một đề tài hấp dẫn, cần được quan tâm

nghiên cứu.
2. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Tên đề tài là Người phụ nữ hiện đại qua cái nhìn của một số nhà văn nữ cho
thấy phạm vi chúng tôi khảo sát nằm trong các sáng tác của các nhà văn nữ có tiếng
vang trong thời kì hiện nay.
Thuật ngữ “hiện đại” có hai n
ghĩa: 1) Hiện đại chỉ một giai đoạn phát triển
trong lịch sử nhân loại gắn liền với thời đại công nghiệp cổ điển; 2) Hiện đại đồng

nghĩa với đương đại, cái hiện thời, hiện kim. Thuật ngữ “hiện đại” trong đề tài của
luận văn được hiểu ở nghĩa thứ hai. “Người phụ nữ hiện đại” t
rong đề tài nghiên cứu
của chúng tôi là những người phụ nữ ở thời điểm cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI, chứ
không phải là những nhân vật nữ thời Tự lực văn đoàn, thời chống Pháp, chống Mỹ.
Và cụm từ “một số nhà văn nữ” cũng nhắm đến những nhà văn hiện còn đang sáng
tác, đang sống trong bầu không khí nghệ thuật của văn đàn Việt Nam đương thời.
Do
số lượng nhà văn nữ của chúng ta hiện nay rất đông đảo, nên chúng tôi sẽ
không thể khảo sát được sáng tác của tất cả những nhà văn nữ. Vì vậy, chúng tôi sẽ
lựa chọn một số gương mặt tiêu biểu, đó là những nhà văn lấy người phụ nữ hiện đại
làm
đối tượng thẩm mĩ. Ngay cả ở những nhà văn này, chúng tôi cũng sẽ lựa chọn
những tác phẩm tiêu biểu của họ về đề tài người phụ nữ hiện đại. Những nhà văn nữ
sau đây đã được chúng tôi cân nhắc lựa chọn làm đối tượng để khảo sát:
- Y Ban
- Võ Thị Xuân Hà
- Võ Thị Hảo
- Phạm Thị Hoài
- Nguyễn Thị Thu Huệ
- Lý Lan
- Trần Thùy Mai
- Bích Ngân
- Dạ Ngân
- Thuận
Ngoài ra chúng tôi sẽ tham khảo thêm tác phẩm của các nhà văn lớp trước như:
Ngô Thị Kim Cúc, Nguyễn Minh Dậu, Lê Minh Khuê, Phạm Thị Ngọc Liên, Nguyễn
Thị Anh Thư, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Trần Thị Trường.
Sự lựa chọn trên đây có thể l
àm cho một vài người không khỏi băn khoăn.

Những câu hỏi có thể xuất hiện, chẳng hạn như: “Tại sao những cây bút có bản sắc
riêng như Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư lại không có mặt?”, hay “Tại sao lại
chọn nhà văn này vào đối tượng khảo sát chính, trong khi nhà văn kia lớn hơn nhiều
mà chỉ được đặt ở phạm vi tham khảo?”. Theo suy nghĩ của chúng tôi, mọi sự chọn
lựa đều có tính chất tương đối. Vả lại, rất nhiều nhà văn nữ nổi tiếng của chúng ta lại
không lấy người phụ nữ hiện đại làm
đối tượng thẩm mĩ, mà cái nhìn của họ hướng
về những đối tượng khác, những vấn đề khác. Với khả năng còn hạn hẹp của mình,
chúng tôi chỉ dám lựa chọn một mảng nhỏ trong sáng tác của các nhà văn nữ để
nghiên cứu. Mọi sự tiếc nuối về một giới hạn buộc phải đặt ra ở luận văn này xi
n
dành lại cho một công trình khác có quy mô lớn hơn trong tương lai.
3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Ngay tựa đề của luận văn đã cho thấy đối tượng mà luận văn hướng tới là
“người phụ nữ hiện đại”, đó là
vấn đề của “cái ngày hôm nay”, do đó những công
trình nghiên cứu về nó thật ra chưa đủ nhiều để góp thành lịch sử. Vấn đề mà chúng
tôi nghiên cứu chỉ là một phần nhỏ trong mảng đề tài lớn: “Người phụ nữ Việt Nam
trong sáng tác của các nhà văn nữ” hoặc lớn hơn nữa: “Người phụ nữ Việt Nam
trong văn học”. Đã có một vài công trình nghiên cứu về đề tài người phụ nữ Việt
Nam trong văn học. Chúng tôi xin điểm qua một số bài viết và công trình nghiên cứu
mà chúng tôi may mắn có trong tay.
Trên các báo và tạp chí:
Cách đây tròn bốn mươi năm, Tạp chí Văn học số 9 năm 1967 đã đăng bài viết nhan
đề “Nhân vật phụ nữ nông thôn trong t
ruyện ngắn của Vũ Thị Thường” và sau đó
một năm, lại tiếp tục đăng bài “Nhân vật phụ nữ ba đảm đang qua sáng tác của một
số nhà văn nữ” của cùng một tác giả là Lê Thị Đức Hạnh. Mười năm sau, Tạp chí
Văn học dành hẳn một số (số 1 năm 1978) giới thiệu những cây bút nữ nghiên cứu
văn học. Trong số này có nhiều bài đáng quan tâm

về đề tài phụ nữ như “Nhìn qua
những tác phẩm viết về đề tài phụ nữ trong văn học chữ Hán thế kỉ XVIII đến đấu thế
kỉ XIX” của Trần Thị Băng Thanh hay “Người phụ nữ Việt Nam xã hội chủ nghĩa và
cuộc Cách mạng khoa học kĩ thuật trong văn học” của Đoàn Thị Hương. Đến số
tháng 3 năm
1979, Tạp chí Văn học lại đăng bài “Đề tài phụ nữ trong văn học yêu
nước thời cận đại” của Trịnh Thu Tiết. Nhìn lại quá khứ, chúng tôi nhận thấy đề tài
người phụ nữ trong văn học đã được nhiều người quan tâm nhưng ngay ở tựa đề các
bài viết trên cũng cho chúng ta thấy rằng đối tượng thẩm mĩ của các nhà văn là người
phụ nữ thời phong kiến, thời chống Pháp, chống Mỹ. Bẵng đi một thời gian, Tạp chí
Văn học số 6 năm
1996 có bài tường thuật của Vương Trí Nhàn tập hợp ý kiến của
các cây bút phê bình: Đặng Anh Đào, Văn Tâm, Vương Trí Nhàn, Lại Nguyên Ân,
Phạm Xuân Nguyên; hai nhà văn: Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo; hai nhà thơ: Ngô Thế
Oanh và Đặng Minh Châu. Cuộc trao đổi xoay quanh những vấn đề: chỗ mạnh và chỗ
yếu của n
hà văn nữ; triển vọng của họ đối với nghề văn; cây bút nữ nào đang nổi
lên? có đóng góp gì? và ai có thể đi xa? Vương Trí Nhàn cho rằng phụ nữ bắt mạch
thời đại nhanh hơn nam giới bởi họ có sự nhạy cảm riêng. Họ luôn gần với cái lỉnh
kỉnh, dở dang của đời sống. Mặt khác, với cái cực đoan sẵn có – tốt, dịu dàng, rộng
lượng thì không ai bằng, mà nhỏ nhen, chấp nhặt, dữ dằn cũng không ai bằng, từng
cây bút phụ nữ tìm ra mặt mạnh của mình khá sớm, định hình khá sớm. Cùng chung
suy nghĩ này với Vương Trí Nhàn còn có Văn Tâm, khi ông nhấn mạnh rằng từ khi
mới xuất phát, các cây bút nữ thường đã đạt đến độ chín. Đặng Anh Đào, một
chuyên gia về văn học phương Tây, nhưng lại có nhiều bài viết phê bình sắc sảo về
văn học Việt Nam đương đại thì lại thấy điểm mạnh của phụ nữ chính là ở chỗ họ
đưa tất cả cuộc đời và tâm hồn họ vào trang sách. Còn nhà văn nữ Lê Minh Khuê khi
nghĩ về những người v
iết cùng giới với mình lại bị chi phối bởi một cảm giác nước
đôi: Một mặt, nhiều chị em bộc lộ một tài năng rõ rệt, không lèm nhèm, không mờ

nhạt. Mặt khác, sao vẫn cảm thấy, đặt trong hoàn cảnh chung, rồi mỗi người cũng
đến thế thôi, không bao giờ có cái gọi là đồ sộ, vĩ đại ở những cây bút nữ này cả.
Trong tất cả các ý kiến đó, chúng t
ôi cảm thấy tâm đắc nhất với những nhận xét của
nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên. Theo ông, xu thế dân chủ hóa đời sống,
mà người ta hay nói, vào trong văn chương, bộc lộ ra thành một quan niệm cới mở về
nghề văn: văn chương như một trò chơi, ai thử cũng được, khi nào còn thích thì làm,
không thích thì bỏ… có lẽ cái sự cởi mở ấy đã được nhiều chị em phụ nữ cảm t
hấy
một cách đầy đủ, sâu sắc, và họ đã viết. Tuy nhiên, ông cũng lưu ý là có những người
viết với một quan niệm hẳn hoi, như Pham Thị Hoài, hoặc ở Phan Thị Vàng Anh các
trang viết có một bề dày văn hóa rõ rệt. Rồi ông kết luận đội ngũ các nhà văn nữ hiện
nay khá đa dạng, mỗi người có một gam riêng, chứ không thuần bản năng như có

người nghĩ. Nhìn chung, những người tham gia bộc lộ một cách khá thẳng thắn quan
điểm của mình về những vấn đề nêu trên, nhiều ý kiến tỏ ra có sự theo dõi sát sao con
đường đi của các nhà văn nữ, nhưng vì là một cuộc trò chuyện văn chương, nên
những vấn đề chỉ được nêu mà chưa được bàn sâu.
Báo Nông nghiệp Việt Nam, số 138 năm 2001, tác giả Văn Chinh có bài giới
thiệu “Tuyển văn tác giả nữ Việt Nam” với tiêu đề “Văn nữ thế kỉ XX – một tuyển tập
đáng quý”. Trong bài viết, ngoài việc giới thiệu một số tác giả, tác phẩm
tiêu biểu,
Văn Chinh đã khái quát nên một số đặc điểm của văn nữ Việt Nam như: “nữ tính
được miêu tả thật hơn, sâu hơn”; “giữa cái tốt, cái xấu trải ra
rộng hơn và lắm cung
bậc hơn”; “khi các nhà văn nam đang cảm thấy mệt mỏi, bế tắc thì sự xuất hiện của
các nhà văn nữ đã mang đến cho văn xuôi sự tươi tắn, trẻ trung có vẻ như do nữ tính
của họ phát tiết và được nhìn dưới ánh sáng của trí tuệ thời đại”.
Báo Văn Nghệ, số 10 năm 2007, tác giả Dương Thuấn có bài “Văn học dân tộc
thiểu số ngày càng thêm nhiều cây bút nữ”. Trong bài viết, tác giả chỉ ra được các

gương mặt nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học là nữ của các dân
tộc thiểu số.
Có khoảng 13 nhà thơ, 15 nhà văn và một người làm nghiên cứu. Tuy vậy trong số
những cái tên đó chỉ có Vi Thùy Linh (dân tộc Tày) và Dư Thị Hoàn (dân tộc Hoa) là
được nhiều người biết tới với tư cách một nhà thơ. Bài viết ghi nhận những đóng góp
của các cây bút nữ này tuy còn ở mức độ khá khiêm tốn.
Trên các trang báo điện tử, có một số bài viết về sáng tác của các nhà văn nữ
đương đại Việt Nam nhưng rất ngắn gọn, chỉ dừng lại ở mức độ cảm n
hận, như “Cảm
nhận về văn xuôi của các cây bút nữ” của Bích Thu (www.hanoi.vnn.vn). Trong bài
viết của mình, Bích Thu đã nêu tên một số nhà văn nữ đã thành danh và đang khẳng
định mình như: Vũ Thị Thường, Lê Minh, Nguyễn Thị Cẩm Thạnh, Bích Thuận,
Nguyễn Thị Ngọc Tú, Nguyễn Thị Như Trang, Hoàng Ngọc Hà, Đoàn Lê, Lê Minh
Khuê, Dạ Ngân, Vũ Thị Hồng, Trần Thị Thắng, Trần Thị Trường, Phạm Thị Mi
nh
Thư, Nguyễn Minh Dậu, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Y Ban, Phan Thị Vàng
Anh, Phạm Sông Hồng, Võ Thị Xuân Hà, Hồ Thị Hải Âu, Trần Thanh Hà… Bài viết
“Phụ nữ - nguồn cảm hứng sáng tác của văn xuôi Việt Nam thời kì đổi mới” trên
www.hanoi.vnn.vn chỉ dừng lại ở mức độ khái quát diện mạo các nhân vật nữ t
rong
một giai đoạn mà nền văn học Việt Nam khởi sắc trên tinh thần đổi mới. Cũng viết về
đề tài nhân vật phụ nữ trong văn học thời kì đổi mới, Đào Đồng Điện có tiểu luận
“Phụ nữ là … đàn bà” đăng trên www.tuoitre.com. Trong bài viết này, tác giả chỉ ra
điểm khác biệt cơ bản của nhân vật nữ trong văn xuôi đổi mới và trong văn xuôi cách
mạng. “Khi nhìn nhận người phụ nữ ở những cái
thuộc về thiên tính, các nhà văn
hôm nay quan tâm vẻ đẹp cơ thể của người phụ nữ và những nhu cầu bản năng của
họ. Những “lạch đào nguyên”, những “tòa thiên nhiên” là vẻ đẹp tự nhiên mà tạo
hóa ban cho người phụ nữ. Đây cũng là một điểm khác biệt cơ bản của nhân vật nữ
trong văn xuôi đổi mới và trong văn xuôi

cách mạng. Con người nói chung và người
phụ nữ nói riêng trong văn học cách mạng đều rất đẹp nhưng đó là vẻ đẹp tâm hồn,
vẻ đẹp toát ra từ những phẩm chất cao quí như lòng dũng cảm, sự hi sinh... Dễ nhận
thấy khi mô tả ngoại hình nhân vật nữ, nhà văn cách mạng thường chọn mô tả mái
tóc. Đây là bộ phận vừa thể hiện được vẻ đẹp nữ tính lại vừa “an toàn”. Hơn nữa
mái tóc dài đối với người phụ nữ VN truyền thống đã nhuốm vẻ đẹp tinh thần và

tính tượng trưng cao. Trong xã hội hôm nay, tóc tai không còn nhiều giá trị khu biệt
về giới tính nữa. Cho nên các nhà văn quan tâm hơn đến làn da, bầu vú, cặp mông,
đôi chân, những đường cong cơ thể…” Đây là những so sánh rất thú vị, gợi cho
người đọc những suy ngẫm về xu hướng tìm lại con người ở những đặc trưng bản t
hể
và khát khao trần thế của văn học Việt Nam hiện nay. Tiểu luận “Phụ nữ và văn
chương” của Châm Khanh trên www.tienve.org có tính chất tổng kết và lí giải hiện
tượng nhà văn nữ ngày càng đông và nhà văn nữ chỉ tập trung viết văn xuôi. Dù tác
giả tỏ ra rất thấu hiểu văn học nữ Việt Nam cả ở trong nước và hải ngoại, nhưng bài
viết chỉ đi đến một kết luận là một cây b
út nữ hẳn phải viết khác một cây bút nam.
Về các công trình nghiên cứu chuyên sâu:
Chúng tôi có trong tay luận văn Thạc sĩ của Hồ Thị Liễu với đề tài “Khảo sát
truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam từ 1986 đến 1996”, bảo vệ tại trường Đại Học
Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn năm 2002. Luận văn cung cấp một cái nhìn hệ thống
về truyện ngắn nữ Việt Nam 10 năm t
hời kì đổi mới 1986 -1996, bước đầu đưa ra
những nhận định về đặc điểm nội dung và nghệ thuật cũng như những đóng góp của
các nhà văn nữ. Về mặt nội dung, luận văn khảo sát truyện ngắn của các nhà văn nữ
theo đề tài: chiến tranh, cuộc sống đời thường, khát vọng tình yêu, hạnh phúc. Về mặt
nghệ thuật, luận văn tìm
hiểu các đặc điểm về nhân vật, kết cấu và ngôn ngữ. Nói
chung tác giả có các nhận định khá quyết đoán và có sức thuyết phục. Tuy nhiên,

luận văn chỉ dừng lại ở những tác phẩm ra đời vào năm 1996 trở về trước. Từ bấy
đến nay, đã hơn 10 năm trôi qua, đã có thêm một số gương mặt nữ trẻ tỏa sáng; đã có

một số tác giả nữ Việt kiều có sách xuất bản trong nước như Thuận, Phạm Hải Anh,
Phan Việt, Đoàn Minh Phương; đã có những tác phẩm mới có tiếng vang của Dạ
Ngân, Võ Thị Xuân Hà, Thùy Dương, Võ Thị Hảo được xuất bản. Vì vậy, cần có
những công trình nghiên cứu mới có tính chất cập nhật hơn.
Bên cạnh đó, chúng tôi tìm thấy luận văn Thạc sĩ của Lê Thị Tâm Hoài bảo vệ
tại Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh năm 2005 với đề tài: “Cái nhìn nghệ thuật về
người phụ nữ trong một vài tiểu thuyết đoạt giải năm 1991 của Hội Nhà văn Việt
Nam”. Công trình này cũng nghiên cứu về người phụ nữ trong văn học, nhưng chỉ
giới hạn trong ba tiểu thuyết của ba nhà văn nam: Nguyễn Khắc Trường, Dương
Hướng, Bảo Ninh.
Với việc điểm
qua những bài viết trên, chúng tôi nhận thấy hình tượng người
phụ nữ trong sáng tác của các nhà văn nữ đã từng được quan tâm theo dõi. Các tác
giả đề cập đến vấn đề người phụ nữ t
rong văn học ở các mức độ, góc độ khác nhau,
nhưng chưa có ai nhắc đến hình ảnh người phụ nữ hiện đại trong sáng tác của các nhà
văn nữ. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài này với mong muốn góp một chút công sức nhỏ
bé của mình vào không khí “trăm nhà đua tiếng” của nghiên cứu, phê bình văn học
hiện nay.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp lịch sử: Được dùng để là
m rõ sự tác động của hoàn cảnh
lịch sử, xã hội đến đời sống văn học. Cần phải đặt các tác phẩm trong bối cảnh xuất
hiện của nó để nhìn thấy những đóng góp mà các tác giả đem lại so với thời kì trước
đó cũng như những hạn chế của thời đại mà các t
ác giả không thể vượt qua.

- Phương pháp phân tích: Trước hết được dùng để phân tích tác phẩm văn
học nhằm tìm ra những đặc điểm tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật. Tiếp theo,
chúng tôi còn sử dụng phương pháp phân tích để phân tích nhân vật với mục đích tìm
ra những mô hình tính cách, những tổ chức phẩm hạnh từ đó khái quát những chân
dung con người được thể hiện qua sác tác văn học.
- Phương pháp so sánh: Một hiện tượng văn học không bao giờ tồn tại một
cách biệt lập. Cho nên m
uốn tìm hiểu nó, chúng ta không thể chỉ mổ xẻ phân tích nó
một cách biệt lập, mà ta phải tìm hiểu các mối quan hệ đa dạng và đa chiều của nó.
Chúng tôi dùng phương pháp so sánh để đối chiếu một hiện tượng văn học với các
hiện tượng cùng loại, và ở cấp độ nhỏ hơn: để thấy được sự tương đồng và khác biệt
giữa nhà văn này với nhà văn khác.
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
Với việc thực hiện đề tài này, luận văn sẽ cố gắng để đạt được những mục tiêu

sau đây:
- Cung cấp cho người đọc cái nhìn của các nhà văn nữ, chủ thể sáng tạo,
về người phụ nữ hiện đại, đặc biệt là những quan niệm của họ về trách nhiệm của nhà
văn khi viết về người phụ nữ.
- Phác họa chân dung người phụ nữ hiện đại trong cách ứng xử với những
mối quan hệ gia đình và xã hội, với những khao khát về tình yêu, hạnh phúc; những
nỗi cô đơn, trăn trở, day dứt trước cuộc đời. Từ những số phận rất khác nhau ấy, luận
văn hi vọng cung cấp cái nhìn đa diện về người phụ nữ Việt Nam
trong thời điểm đất
nước có nhiều biến chuyển phức tạp như hiện nay.
- Làm sáng tỏ những điểm độc đáo về bút
pháp mà các nhà văn nữ đã thể
hiện qua những trang viết đầy trắc ẩn của mình.

6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

MỞ ĐẦU
1.Chương 1: Các nhà văn nữ: cái nhìn của chủ thể sáng tạo
1.1.Người phụ nữ hiện đại trong quan niệm sống của nhà văn nữ
1.2.Người phụ nữ hiện đại trong quan niệm văn chương của n
hà văn nữ
1.3.Vấn đề giới

2. Chương 2: Người phụ nữ hiện đại: đối tượng thẩm mĩ của các nhà
văn nữ
2.1. Người phụ nữ hiện đại trong quan hệ với xã hội
2.2. Người phụ nữ hiện đại trong quan hệ với gia đình
2.3. Người phụ nữ hiện đại trong quan hệ với bản thân

3.Chương 3: Giá trị thẩm mĩ: từ cái nhìn đến bút pháp
3.1. Điểm nhìn trần thuật
3.2. Tâm lí nhân vật
3.3. Ngôn ngữ văn xuôi
KẾT LUẬN
PHỤ LỤC








CHƯƠNG 1
CÁC NHÀ VĂN NỮ:
CÁI NHÌN CỦA CHỦ THỂ SÁNG TẠO


Người phụ nữ đời nào cũng vậy, là tặng phẩm tuyệt diệu của tạo hóa. Nhưng
sự phản ánh họ trong văn học qua cái nhìn nghệ thuật của nhà văn thì mỗi thời mỗi
khác. Trong một giai đoạn mà cảm hứng công dân chi phối sát hoạt động sáng tác,
người phụ nữ trong văn học Cách mạng Việt Nam 1945-1975 ít được nhìn nhận ở
những đặc trưng giới tính. Họ thường mang trong m
ình một phẩm chất chung xác
định giá trị con người là lòng yêu nước, ý chí chiến đấu, thành tích cống hiến cho tập
thể. Họ được ca ngợi là những người “giỏi việc nước đảm việc nhà”.
Trong xu hướng tìm lại con người ở những đặc trưng bản thể và khát khao trần
thế, các nhà văn thời kỳ đổi mới nhìn nhận người phụ nữ nghiêng về những gì thuộc
về thiên tính, thiên chức của họ. Văn học đổi mới không còn nhiều những phụ nữ sắt
đá, kiên cường nữa mà thay vào đó là những con người yếu đuối, nhẹ dạ cả tin, đa
cảm, đa đoan...
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta được gặp gỡ đủ loại phụ nữ trong t
ruyện
ngắn của các nhà văn nữ. Bằng kinh nghiệm bản thân, các nhà văn này thoải mái đã
phô bày đời sống của người phụ nữ ở tầng sâu bản thể. Họ đem đến cho văn học
những t
rải nghiệm mới, những hiểu biết mới về người phụ nữ. Họ cho ta cảm nhận về
người phụ nữ hiện đại, những con người thật đa sự. Sự bất ổn trong nội tâm của họ là
do “bản tính” của họ m
à ra chứ không do ai khác gây ra. Viết văn đòi quyền lợi cho
người phụ nữ hoặc phản ánh tình trạng mất bình quyền nam nữ cũng là mục đích
sáng tác của nhiều cây bút nữ thời nay.
Trong văn giới Việt Nam, chúng ta thường nghe câu nói "Văn là người".
Chúng tôi không cho rằng nhà văn sống ngoài đời ra sao thì sống trong tác phẩm
cũng như thế. Văn không phải là tấm gương phản chiếu thành thật con người tác giả.
Tuy nhiên, để hiểu sâu sắc tác phẩm của nhà văn thì một việc nhất thiết phải làm


tìm hiểu quan niệm của nhà văn về đối tượng thẩm mĩ mà họ hướng đến. Chính vì
vậy, chương 1 của luận văn dành để tổng hợp một số quan niệm của các nhà văn nữ
về người phụ nữ để từ đó chúng ta hiểu biết thêm về nhà văn với tư cách là chủ thể
sáng tạo.

1.1. Người phụ nữ hiện đại trong quan niệm sống của nhà văn nữ
Phải thấy rằng, những nhà văn nữ mà chúng tôi đang nói đến trước hết cũng là
những người phụ nữ hiện đại. Họ có một nghề nghiệp với những va chạm phức tạp.
Họ có một gia đình với những mối quan hệ bề bộn. Họ còn phải, nói như nhà văn Võ
Thị Hảo, mang trên vai cả một gánh “hành trang của người đàn bà Âu Lạc”. Trước
đây, họ là đối tượng để cho các nhà văn, hầu hết là nam
giới, phân tích, mổ xẻ. Nay
họ đã đủ tự tin để tự nói về mình, mà còn nói một cách chân thực, tinh tế nữa.
Nhà văn Dạ Ngân, người vừa cho ra đời tiểu thuyết Gia đình bé mọn được giải
thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội 2005, đã bày tỏ những suy nghĩ rất thú vị của mình
về người phụ nữ hiện đại. Chị thuộc thế hệ phụ nữ sinh ra
và lớn lên trong chiến
tranh, trưởng thành khi đất nước hòa bình. Cuộc đời Dạ Ngân cũng lắm thăng trầm,
truân chuyên, nhưng chị vẫn vượt qua tất cả bằng một nghị lực phi thường. Dạ Ngân
là một ví dụ tiêu biểu cho những người phụ nữ Việt Nam vượt qua những ngăn trở,
những định kiến của xã hội để giành lấy hạnh phúc
. Theo chị, người phụ nữ hiện đại
nếu được giải phóng triệt để về mặt tự do cá nhân sẽ có tất cả năng lực như nam giới.
Họ có thể rất xuất sắc trong các vị trí mà trước đây chỉ nam giới là có quyền đảm
nhận như chính khách, nhà khoa học, tướng lĩnh và các cương vị chuyên môn khác.
Tuy vậy, nhà văn Dạ Ngân vẫn nhấn mạnh c
hức năng làm vợ, làm mẹ của người phụ
nữ, chị còn cho rằng chính tính nữ trong đời sống hôn nhân và trong tình mẫu tử sẽ
làm cho người phụ nữ hiện đại thành đạt “một cách có hương vị”. Bằng sự từng trải
của một người phụ nữ trí thức đứng tuổi, Chị thấy rằng: “So với phụ nữ Hàn, phụ nữ

Nhật, phụ nữ đạo Hồi, phụ nữ các nước Nam Á, phụ nữ Việt Nam nói chung rất có ý
thức vùng dậy… Vai trò người phụ nữ trong từng gi
a tộc rất lớn, rất phi thường. Phụ
nữ Việt Nam rất có uy với cộng đồng của mình”. [95] Những nhận định này được chị
thể hiện rất thành công qua hai nhân vật trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn là cô Tư
Ràng: “quan tòa của gia tộc”, có quyền sinh quyền sát đối với lũ con cháu mà cô
không hề mang nặng đẻ đau và bà mẹ của nhân vật Đính: rất yêu con nhưng cũng là
“bà trời” với các con, các cháu.
Trong khi nhà văn Dạ Ngân chú trọng đến năng lực và ảnh hưởng của người
phụ nữ hiện đại đối với cộng đồng, thì nhà văn Võ Thị Hảo lại quan tâm
đến tính
năng động và độc lập của người phụ nữ. Theo chị, “người phụ nữ hiện đại là người
luôn nắm bắt được thông tin, kiến thức và hành xử cập nhật thời đại. Đồng thời,
không nô lệ trong suy nghĩ, không lệ thuộc lối mòn, tôn trọng nhân phẩm và nhân
quyền của chính mình”. [89] Ở điểm này, suy nghĩ của nhà văn Võ Thị Hảo gặp gỡ
với nhà văn Lý Lan. Theo Lý Lan, “người phụ nữ hiện đại là người độc lập, tự do”.
[94
]
Thiết nghĩ, hai từ “độc lập”, “tự do” bao quát rất nhiều lĩnh vực: trong lao động
sáng tạo, trong đời sống gia đình, trong các quan hệ xã hội; và cốt lõi nhất là người
phụ nữ phải tự ý thức được sự tự do trong tư tưởng của mình.
Nhà văn Trần Thị Trường, người ghi dấu ấn trong lòng bạn đọc với những
cuốn tiểu thuyết Lời cuối cho em, Kẻ mắc chứng điên, hoặc những tập truyện ngắn
Hoa mưa, Thời gian ngoảnh mặt... được coi l
à nữ văn sĩ của những thân phận phụ
nữ. Chị đã từng sống và làm
việc ở Châu Âu, Mỹ. Với vốn sống phong phú, chị đưa
ra nhận xét của mình về phong cách sống của phụ nữ Việt Nam trong sự so sánh với
phụ nữ phương Tây:
Phụ nữ ngày nay phải đi làm, thậm chí gánh vác nhiều hơn cả đàn ông

ở trong xã hội lẫn gia đình. Một thời sống ở Châu Âu và mấy năm vừa rồi sang Mỹ,
tôi thấy đàn ông người Âu hay người Mỹ đi làm về là chia đôi việc nhà với vợ. Nếu
người đàn ông chủ động bỏ vợ, sẽ phải bồi thường.
.. Và tôi thấy phụ nữ Việt Nam nói
riêng, phụ nữ Châu Á nói chung quả là rất khổ. Ngày càng có nhiều đàn ông Châu
Âu, Châu Mỹ muốn lấy phụ nữ Châu Á làm vợ, và người vợ đó rất được yêu chiều.
Họ kể rằng, họ yêu và muốn cưới vì phụ nữ Châu Á bây giờ vừa có khả năng l
àm việc
như đàn ông, vừa rất dịu dàng và chăm chỉ. Con rể tôi (R.Michael - người Mỹ) cũng
bảo hình ảnh đẹp nhất của phụ nữ Việt Nam là lúc nấu cơm tối và thêu thùa bên bếp
lửa. [102]
Cùng nói về khả năng tiềm tàng của người phụ nữ hiện đại, nhà văn Nguyễn
Thị Bích Thuận có những ý kiến khá trùng khớp với nhà văn Dạ Ngân. Chị cho rằng:
Trong xã hội hiện đại, người phụ nữ có được những quyền lợi bình
đẳng như là nam giới. Họ nhận thức đư
ợc vai trò của mình trong xã hội hiện đại và
tự tin với khả năng của mình. Họ không ngừng học hỏi, nghiên cứu, trau dồi khả
năng lãnh đạo và không ít người trong số họ đã đạt đến những địa vị rất cao trong xã
hội. Trong gia đình cũng vậy, người phụ nữ hiện đại vẫn giữ được vai trò truyền
thống làm vợ, làm mẹ, nhưng bên cạnh đó họ vẫn luôn phấn đấu cho sự bình đẳng
trong quan hệ giữa vợ và chồng. Họ muốn đưa ra những quyết định để xây dựng gia
đình. Họ muốn quan tâm, chia sẻ những công việc cơ quan của chồng thay vì chỉ lo
chăm sóc chồng, con, nghe lời chồng như một người nô tỳ. Ngoài ra, người phụ nữ
hiện đại là người biết đấu tranh cho lý tưởng của mình, không quá phụ th
uộc vào
nam giới. Họ luôn phấn đấu không ngừng để chứng tỏ một điều rằng không phải chỉ
có nam giới mới là người có khả năng lãnh đạo. [71]
Qua những ý kiến trên, có thể dễ dàng nhận thấy các nhà văn nữ của chúng ta
nhận thức rất đầy đủ về khả năng và những lợi thế của người phụ nữ. Hơn ai hết, họ ý
thức được ảnh hưởng của m

ình trong gia đình, trong xã hội. Ý kiến của các nhà văn
nữ nói trên hầu hết gặp nhau ở một điểm: người phụ nữ hiện đại có năng lực chẳng
kém gì nam giới, song họ còn có những nghĩa vụ, trách nhiệm của người vợ, người
mẹ. Những công việc thuộc về nữ tính thiên phú làm cho họ có ít thời gian dành cho
công việc hơn. Đó là thiệt thòi của nhà văn nữ nói
riêng và cũng là thiệt thòi của phụ
nữ Việt Nam nói chung.
Đến với nhà văn Y Ban, chúng ta sẽ hiểu người phụ nữ hơn trong sự so sánh
giữa các thế hệ. Chị cũng là một mẫu phụ nữ hiện đại năng động, từng giảng dạy
trường Đại học Y Thái Bình trước khi viết văn. Chị cũng từng phải đi bán gà tần, đi
buôn đất để có tiền nuôi con trong những l
úc khó khăn. Chính vì vậy, cái nhìn của chị
về người phụ nữ rất thực tế. Nhìn vào ba thế hệ phụ nữ trong gia đình mẹ chị, chị,
con gái, chị nhận thấy những khác biệt của cuộc sống hôm nay.
Mẹ tôi, tôi và con gái tôi đều là những người phụ nữ mạnh mẽ. Tôi cảm nhận
rằng mạnh mẽ là một điểm nổi bật trong phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam, dù
nhìn vẻ ngoài họ là những phụ nữ nhu mì, cam chịu. Họ đã phải nén cảm xúc của
mình hàng nghì
n năm và lúc nào họ cũng có nguy cơ bùng nổ. Mẹ tôi phải nuôi một
bầy con khi bố tôi đi chiến trường. Bà chèo chống với thời kỳ đói nghèo để nuôi gia
đình. Tôi là thế hệ giao thời, với những buồn - vui, sướng - khổ không rành rẽ. Giống
như mẹ tôi, tôi luôn coi trọng việc học hành của con cái. Thời của mẹ tôi, nghèo khó
nhưng không phải lo lắng nhiều về cái gọi là đạo đức của con gái mì
nh. Tôi đầy đủ
hơn nhưng lại luôn lo lắng. Con gái tôi mười lăm tuổi và lúc nào tôi cũng tự hỏi cháu
sẽ tránh khỏi những cám dỗ của đời sống hiện đại ồn ào như thế nào. Nhưng con gái
tôi khác biệt với tôi và mẹ tôi một điểm lớn, đó là tính độc lập. [81]
Chị còn tâm sự:
Tôi thích viết về phụ nữ và n
hững vấn đề của phụ nữ hiện đại. Tôi cũng rất

thích mổ xẻ đến tận cùng tâm lý của người đàn bà hiện đại. Họ thông minh, giỏi
giang nhưng vẫn luôn cần một cuộc sống tình cảm phong phú. Tôi không thích sự cực
đoan và cô đơn. Tôi thích người phụ nữ có trách nhiệm với gia đình, nhưng người đó
cũng yêu và hiểu về tình yêu. [80]
Ý kiến của Y Ban có điểm gặp gỡ với các nhà văn chúng ta đã nói ở trên ở
những nhận xét về người phụ nữ: mạnh mẽ, thông m
inh, giỏi giang, độc lập… nhưng
chị lại để ý đến một đặc điểm rất “phụ nữ” là “họ luôn cần một đời sống tình cảm
phong phú”. Cũng như vậy với Nguyễn Thị Thu Huệ, trong khi các nhà văn khác nói
về các khả năng tiềm tàng của người phụ nữ làm
cho họ chẳng thua kém gì các đấng
mày râu thì từ những trải nghiệm của chính mình, chị cho rằng: “Khác với nhiều
người nghĩ, thực ra người đàn bà lúc nào cũng muốn nương tựa. Bất đắc dĩ mới phải
tự mình đứng thẳng, vì bị xô đẩy mà phải gánh vác việc của đàn ông và người đàn
ông phải hiểu điều đó”. [92
]
Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ là một người phụ nữ có nhan sắc, và cũng rất
thành đạt vừa trên cương vị một nhà văn, đồng thời lại là giám đốc một hãng phim
truyền hình. Ý kiến của Thu Huệ không đối lập với các bạn văn của mình, mà nó có
tính chất bổ sung. Người phụ nữ Việt Nam là vậy, họ luôn muốn nương tựa dưới một
bóng tùng quân nào đó. Mạnh mẽ, giỏi giang ở đâu
đó nhưng vẫn muốn có một bờ
vai vững chãi để dựa vào những khi yếu lòng. Và có lẽ chính đặc điểm này làm nên
nét nữ tính của phái đẹp, là một thế mạnh không thể có được ở các đấng nam nhi.
Thế nhưng không phải người phụ nữ nào cũng có được hạnh phúc là sự nương
tựa. Trong số những nhà văn nữ đương đại của Việt Nam, nhà văn Võ Thị Hảo có
cuộc sống riêng khá vất vả. Chị vừa là nhà văn nổi tiếng, vừa l
à một nhà báo sắc sảo
và là mẹ của hai đứa con gái tuổi cập kê. Chị tâm sự:
Tôi vốn là người đàn bà thích được che chở. Nhưng oái oăm thay, số

phận không cho tôi điều đó. Tôi luôn phải gánh vác những công việc của đàn ông từ
khi mới lớn đến tận bây giờ… Gánh đã chất trên vai, muốn sống t
hì phải gánh, vậy
thôi. Cũng có lúc mệt mỏi, chùn bước lại đứng dậy, buộc phải gánh tiếp. Nhưng
trong tôi vẫn khắc khoải là mình sinh ra để làm đàn bà – mong được là một “dây leo
đẹp” bên một “cây đại thụ”. [16]
Một người bạn của chị đã viết về chị như sau:
Gần gũi chị, nhiều lúc cũng cảm thấy xót xa khi thấy chị phải gánh
vác quá nhiều trong gia đình bốn người. Người phụ nữ nào, dù giỏi đến đâu, nhiều
lúc vẫn cần có cảm giác được dựa vào tì
nh yêu lớn của một người đàn ông thực sự.
Là đàn bà, thật hạnh phúc khi thấy mình thực sự bé nhỏ trong vòng tay của một
người đàn ông của riêng mình. Một cánh tay chở che, cảm giác được chia sẻ tri âm
với người bạn đời, với chị Hảo trong một cuộc đời làm vợ hầu như không có. Không
chỉ bây giờ khi chỉ còn ba mẹ con chị cũng luôn phải cố gắng để vừa làm mẹ, vừa
làm bố cho hai
con.. Chị bảo: “Hạnh phúc là do cách người ta quan niệm và lựa
chọn”. Giờ đây, có lẽ chị đang hạnh phúc vì thanh thản… [90]
Mỗi người có một câu chuyện, mỗi người là một dòng sông, nó chảy từ nguồn
ra tới biển. Dòng sông là thứ chúng ta không thể cắt khúc, rồi xóa đi khúc này khúc
nọ được, nó cần có sự liên tục. Trò chuyện với các nhà văn, lĩnh hội ý kiến của họ
cũng như soi bóng mình xuống dòng sông tư tưởng của họ. Có thể dòng sông này
hiền hòa, êm ả, dòng sông kia nhiều ghềnh thác hoặc ngay trên môt dòng sông cũng
có khúc dịu dàng, có khúc dữ dội nhưng chính những nét khác biệt đó lại tạo nên sự
cuốn hút mãnh liệt.
Quan điểm của các nhà văn nữ có thể có những điểm tương đồng, cũng có thể
khác biệt, điều đó không có gì khó hiểu. Qua những phát biểu đó, chúng ta hiểu về
người phụ nữ hiện đại trong tác phẩm của họ hơn, nhờ vậy, tác phẩm của họ đến gần
với độc giả hơn.


1.2. Người phụ nữ hiện đại trong quan niệm văn chương của nhà
văn nữ

Nhà văn cho ra đời một tác phẩm văn học, cũng như người mẹ sinh thành một
đứa con, đều muốn đứa con của mình lớn lên khỏe mạnh và có ích cho xã hội. Từ
những quan niệm, những suy nghĩ về người phụ nữ trong cuộc sống, họ đã xây dựng
nên những chân dung phụ nữ trong văn chương với những lời nhắn gửi thiết tha tới
những người đồng giới nói riêng và xã hội nói chung. Y Ban tâm
sự:
Thực ra, khi viết về những người phụ nữ hôm nay, mổ xẻ và phân tích
thân xác cũng như thân phận của họ, tôi muốn rằng các tác phẩm của tôi sẽ là thứ để
họ vin vào và đứng dậy. Tôi muốn chỉ ra rằng, đàn bà chúng ta, họ đau khổ và phức
tạp hơn, ngay từ trong ý nghĩ. Họ bị hành hạ bởi những suy nghĩ, có khi chỉ là rất
nhỏ nhoi, như một phút xao lòng. Tôi
muốn chỉ cho họ một lối đi, để họ hiểu rằng,
cuộc sống là thế đấy, đàn bà là thế đấy, đừng dằn vặt bản thân mình, đừng hỏi tại
sao”. Từ các câu chuyện của mình, tôi cũng có thêm tham vọng là chỉ cho phụ nữ
những ranh giới, để họ biết dừng lại, khi họ là phụ nữ. Đó là con đường mà các nhà
văn nữ trước tôi và cả các bạn nữ viết văn sau này vẫn sẽ tiếp nối nhau.
Những nhà
văn nữ thực sự đang đóng góp cho sự tiến bộ của xã hội, bằng các tác phẩm của
mình. Bắt đầu từ việc họ thay đổi chính mình, tiến bộ hơn, văn minh hơn. Tôi muốn
xã hội hãy đọc tác phẩm của nhà văn nữ như một sự lắng nghe, một sự thấu hiểu. Vì
đó chính là tiếng lòng của họ, là những khát khao tự giải phóng bản thân mình. [81]
Những định hướng như vậy đã giúp nhà văn Y Ban thành công trong khá nhiều
truyện ngắn viết về những phút giây xao lòng của người phụ nữ trước người đàn ông
không phải là chồng mình. Những người phụ nữ trong truyện ngắn Sau chớp là bão
giông và Người đàn bà và những giấc mơ của chị đều có những cơ hội để có
thể
ngoại tình, nhưng họ đã biết dừng lại đúng lúc để giữ gìn mái ấm gia đình bền vững.

Cái níu giữ họ lại với gia đình có thể là những chăm sóc chu đáo tận tình của chồng
hay tiếng gọi của những đứa con nhắc nhở họ trách nhiệm của người làm
mẹ. Truyện
ngắn của Y Ban, ngoài tác dụng cảnh tỉnh chị em phụ nữ đừng chạy theo những tình
cảm nông nổi, bồng bột, thoáng qua, còn nhắc nhở những người đàn ông hãy biết giữ
lấy người phụ nữ của mình. Hạnh phúc gia đình trong thời buổi này thật quá mong
manh. Khi được hỏi: “Trong văn học thời kỳ trước đây, có rất ít cảnh phụ nữ ngoại
tình. Nhưng trong các tác phẩm của chị, và nhiều nhà văn đương đại khác, hình ảnh
người đàn bà ngoại tình (có thể chỉ là trong tư tưởng) lại hơi... nhiều. Vì sao vậy?”
Chị đã nói rằng:
Xã hội nào thì hoàn cảnh đấy. Và thân phận của người phụ nữ thể
hiện rõ nhất hoàn cảnh xã hội mà chị ta đang sống. Trong xã hội phong kiến, trong
chiến tranh, thế giới quan của người phụ nữ chỉ bó gọn trong một gia đình, một cái
làng nhỏ, phải đối diện với những lề thói, hủ tục, sự soi mói của người đời nên rất
khó để người phụ nữ thay đổi cuộc sống của mình. Nhưng trong xã hội hiện đại đã
khác đi nhiều. Người phụ nữ độc lập, tự chủ hơn. Họ có xu
hướng sống cho bản thân
mình, chiều chuộng cảm xúc của chính mình. Khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ
thể hiện ở khát vọng chinh phục người đàn ông. Và chinh phục người khác giới cũng
chính là để chinh phục chính mình. [81]
Là một nhà văn nữ, nhiều truyện ngắn của Y Ban được viết ra nhằm giảm bớt
“tai nạn” của người phụ nữ trong xã hội ngày nay. Những truyện ngắn như Thiên
đường và địa ngục, Cái điềm con thỏ trắng, Sự vô tội của Ađam và Êva... là những
“câu chuyện cảnh giác” chị viết dành riêng cho các cô gái trẻ, khuyên họ chớ yêu m
ù
quáng, chớ quá tin vào đàn ông mà rước họa vào thân. Các cô gái trong những truyện
này đều chịu chung cảnh “trống thủng vì chưng kẻ nặng dùi” hay “cả nể cho nên hóa
dở dang”. Khi “tai nạn” không may đã xảy ra với họ, chị lại viết Bức thư gửi mẹ Âu
Cơ đòi mẹ phải quan tâm đến họ.Từ những tên sách của chị: Người đàn bà có ma
lực, Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Đàn bà xấu thì không có quà... có thể thấy phụ nữ là đề

tài m
à chị quan tâm nhất. Có thể nói, Y Ban đang tự vẽ chân dung người đồng giới
mình. Khi đặt bút viết về thân phận một người đàn bà nào đó, chị đã hóa thân vào họ,
kể lại những câu chuyện của họ. Chị tâm sự rằng: “Tôi chỉ có một gương mặt. Còn
hình tượng người phụ nữ trong các tác phẩm của tôi có nhiều gương mặt khác nhau.

Tất nhiên, trong các gương mặt ấy có một phần gương mặt của tôi. Vì vậy, có thể tôi
viết chưa hay, chưa tới, nhưng tôi không viết giả tạo”. [81]
Với Y Ban, viết về người phụ nữ là để làm điểm tựa cho họ “vin vào và đứng
dậy”, để “chỉ cho phụ nữ những ranh giới, để họ biết dừng lại, kh
i họ là phụ nữ”. Võ
Thị Hảo cũng có những suy nghĩ tương tự, chỉ khác nhau ở cách diễn đạt mà thôi.
Phóng viên Nguyên Hằng trong bài phỏng vấn nhà văn Võ Thị Hảo với nhan đề Suốt
đời chỉ mơ một giấc đã viết về chị như sau: “Vào nghề viết văn chưa lâu, song Võ
Thị Hảo đã nhanh chóng được người đọc biết đến. Chị được xếp vào hàng những cây

bút sắc sảo và giàu nữ tính. Những thân phận đàn bà, những con người nhỏ bé trước
bão lũ cuộc đời, “những gì rất riêng tư mà chẳng riêng tư chút nào”… [22] là điều
mà chị luôn trăn trở trên các trang viết của mình. Võ Thị Hảo đã dùng cụm từ “những
thân phận bé mọn” để chỉ những người phụ nữ, “những người mà tôi đã không quên
họ, nếu họ sống thì cũng vẫn tiếp thân phận bé mọn, vẫn ngơ ngác, lạc lõng, hẳn phải
có rất nhiều thời gi
an để vực dậy, đánh thức họ sang giấc mơ khác, cả với tôi cũng
vậy. Có thể suốt đời chỉ mơ một giấc mà thôi.” [22]
Những ý tưởng của chị được cụ thể hóa qua hình tượng các nhân vật nữ luôn
khát khao hạnh phúc mà hạnh phúc với họ chỉ là những ngôi sao xa không bao giờ
với tới được. Đó là Trang, một cô gái xinh đẹp và đoan trang yêu đêm đầu tiên và thất
tình ngay trong đêm đầu tiên để rồi trở thành một “người đàn bà cẩm thạch” với đôi
bàn tay và ánh mắt giá băng. (Bàn tay lạnh). Đó l
à Thuận, góa phụ đen kì bí, nguy

hiểm và quyến rũ tưởng như đã tìm được tình yêu nhưng rồi cái chết của người tri kỉ
trên môt chuyến bay đã vĩnh viễn cướp đi hạnh phúc muộn mằn (Góa phụ đen). Đó
là Hạnh, người phụ nữ luôn được đàn ông săn đuổi nhưng đã tự thu mình vào ốc đảo
cô đơn sau cuộc hôn nhân tan vỡ (Tiếng vạc đêm). Tất cả đều xinh đẹp, quyến rũ và
lương thiện. Nhưng tất cả họ đều rất cô đơn, cô đơn đến cùng cực trong sự săn đuổi
và những ánh mắt n
gưỡng vọng của người khác giới.
Trong khi Y Ban và Võ Thị Hảo viết về phụ nữ một cách đầy ý thức thì Võ Thị
Xuân Hà lại viết rất hồn nhiên. Phóng viên Hiền Hòa đã nói về chị với một sự so sánh
thú vị: “Đôi mắt to với cái nhìn vừa cay nghiệt vừa dịu dàng, vừa trần trụi vừa mơ
mộng, Võ Thị Xuân Hà biến ảo và khó nắm bắt như màu sắc một hạt cườm dưới ánh
mặt trời. Những trang viết của chị cũng lóng lánh y hệt một thứ nhà gương mà người
ta có thể nhận diện đủ loại gương mặt của mình, để rồi lúc thì bật cười, lúc lại sợ
hãi.” [85]
Trong bài
trả lời phỏng vấn ông Trần Quý Phiệt, Giáo sư khoa Tiếng Việt
trường Đại học Northeastern University, Hoa Kỳ, khi được hỏi: “Chị có viết với tư
cách nhà văn phụ nữ như các nhà văn phụ nữ tranh đấu cho nữ quyền có ở phương
Tây không?”, chị bày tỏ:
Khi ngồi vào bàn viết, tôi nghĩ mình viết về những con người, cho
những con người, nhưng vì tôi là phụ nữ nên việc t
hể hiện những xúc cảm nội tại sẽ
thiên giọng nữ hơn. Đã là nhà văn thì phải đấu tranh cho và vì quyền con người. Nếu
những tác phẩm của tôi góp phần tranh đấu cho hạnh phúc của một hay hàng vạn chị
em phụ nữ thì cũng đơn giản vì tôi là một nhà văn. Tôi không có ý chia thế giới ra
làm hai phần và xác định mình phải viết để tranh đấu cho một phần hai thế giới là
phụ nữ như mình. Chính bởi vì tôi không thích bất cứ một sự thương xót nào mà
người ta c
ó thể quan niệm về sự tự ti, sự yếu đuối, sự kêu gọi thương hại từ phía phụ
nữ. [88]

Câu trả lời của Xuân Hà cho thấy rõ ràng chị không “ưu ái” nhân vật nữ. Chị
không xác định phải đấu tranh cho nữ quyền bằng việc chia thế giới ra làm hai phần
và xác định mình phải viết để đấu tranh cho một phần hai t
hế giới là phụ nữ như
mình. Thế nhưng, thế giới nhân vật của chị chủ yếu là những người đàn bà. Đó là một
cô Diễm biệt danh cáo Ecmơlin, thường gọi bố chồng là đồ tể, thích nghiền ngẫm
khoái cảm xác thịt và thường mơ những giấc mơ quái gở. Thế giới của Diễm là sự
pha trộn giữa cõi sống và cõi chết, giữa cõi âm và cõi dương và có vẻ gì đó không
bình thường. Nhưng hình như cũng nhờ thế mà n
gười ta có thể hiểu nhau hơn (Đàn
sẻ ri bay ngang rừng). Đó là một cô gái theo đuổi nghề viết văn với tâm trạng nửa
bụi bặm, nửa thánh thiện, nửa muốn phá phách, nửa muốn xây dựng, nửa muốn sống
theo bản năng, nửa lại bị khuôn vào những phép tắc, những quy ước xã giao, những
định kiến xã hội (Người đàn bà và những con rối). Và nữa, một người đàn bà tên
Linh. Nàng không bao giờ thoả mãn với tình yêu và luôn m
uốn tìm cảm giác mới.
Nàng đã tự đánh giá mình quá cao và rồi chợt tỉnh ra khi nhìn thấy những nốt mụn đỏ
dưới chân mình (Mùa biển)... Những người đàn bà của Võ Thị Xuân Hà dù ngoan
ngoãn hay vụng trộm, phá phách cũng đều có một đặc điểm giống nhau: mặc kệ cuộc
sống nghèo khó hay sung túc, họ luôn bị trộn lẫn giữa thực tại và mộng tưởng, bị ám
ảnh bởi một quá khứ m
ông lung, một tương lai đầy bất trắc. Hà Phạm Phú trong bài
viết Ngôi nhà gương của Võ Thị Xuân Hà, đăng trên tạp chí “Người đẹp Việt Nam”,
đã có một sự tổng kết về hình tượng những người phụ nữ trong sáng tác văn chương
của Võ Thị Xuân Hà như thế. Ông viết: “Thế giới đàn bà của Hà là một thế giới
riêng, không lẫn vào ai. Những người đàn bà của chị hình như cũng là sự xáo trộn
giữa cái tốt và cái xấu, đầy lòng vị tha nhưng cũng í
ch kỉ, rất tự tin nhưng cũng dễ bị
cám dỗ, sống yên phận nhưng lại không chịu yên với số phận đã an bài. Mỗi người
phụ nữ là một bí ẩn”. [57]

Thật khó mà tìm ra một chân dung phụ nữ ổn định trong sáng tác của mỗi nhà
văn, bởi trong trang viết của họ có rất nhiều cuộc đời, rất nhiều số phận phụ nữ.
Nhưng tôi
cho rằng khi đặt bút viết về những người đồng giới với mình, các nhà văn
nữ của chúng ta hẳn phải gửi gắm nhiều điều, mà những điều đó không nằm ngoài
việc mong muốn cho cuộc sống của người phụ nữ tốt đẹp hơn lên. Nhưng, những ý
tưởng tốt đẹp ấy có trở thành hiện thực hay không lại cần có một điều kiện. Đó là nhà
văn phải gặp được bạn đọc tri âm
của mình. Hoàn cảnh xã hội Việt Nam hiện nay vẫn
còn có những trở ngại cho việc đó. Theo nhà văn Dạ Ngân là “do dân trí thấp, mà số
thấp lại nằm phần lớn ở phụ nữ, đó là thiệt thòi của nhà văn nữ nói riêng và cũng là
thiệt thòi của phụ nữ Việt Nam nói chung”. [95] Còn nhà văn Lý Lan thì cho rằng đối
với chị, “trong thời điểm hiện nay, khó khăn nhứt là việc đưa tác phẩm của mình vượt
qua cơ chế xuất bản, hệ thống phát hành,
sự rụt rè của giới nghiên cứu phê bình, sự
hờ hững của công chúng, để đến được bạn đọc tri âm”. [94]
Thiết nghĩ, những khó khăn này không phải chỉ của riêng nhà văn nữ. Và dẫu
có khó khăn, hầu hết họ vẫn trung thành với các nhân vật là nữ. Nhà văn Dạ Ngân đã
tâm sự:
Tôi tiếp tục chung thủy với những nhân vật trung tâm là nữ. Nhưng
những tiểu thuyết tôi đang nghĩ tới tính xã hội rộng hơn, nhân vật nam không lép vế.
Ví như tôi đang thai
nghén một tiểu thuyết về đề tài hậu chiến và hòa giải dân tộc,
nam và nữ đều được chăm sóc như nhau. Ví như sẽ có cuốn về cuộc chiến tranh 10
năm ở Campuchia, ở đó những nhân vật là người lính. Tôi đang cố gắng rời chất tự
truyện trong sáng tác của mình để tầm bao quát có thể rộng hơn. [95
]
Chị đang cố gắng để tự vượt mình, vượt khỏi một sự thật thường thấy cả ở Việt
Nam cũng như trên thế giới là “các tiểu thuyết gia nữ thường đưa yếu tố tự truyện
vào”; vượt khỏi cái lối nghĩ của ai đó về nhà văn nữ rằng: “viết mãi thì cũng không ra

khỏi thân phận người nữ như chạy trời không khỏi nắng”. Đối với nhà văn Võ Thị
Hảo, vấn đề không phải ở đề tài vì đề t
ài nào cũng liên quan đến phụ nữ, mà ở thời
gian để viết ra nó mà thôi. Còn nhà văn Lý Lan thì “bật mí” rằng chị sắp xuất bản tiểu
thuyết Đàn bà.[94] Chẳng cần phải nói nhiều, chỉ cái tên tiểu thuyết cũng đã thể hiện
phần nào đó nội dung của tác p
hẩm.
Bằng kinh nghiệm, ai cũng biết nam giới và nữ giới khác nhau trong rất nhiều
phương diện, từ cách ăn, cách mặc, cách giải trí đến cách cảm xúc, cách suy nghĩ và
cách ứng xử trong cuộc sống... Nếu giữa hai phái tính có một sự khác biệt sâu rộng
như vậy thì trong lãnh vực văn chương liệu họ có khác nhau không? Theo nhà văn Dạ
Ngân, điểm khác biệt giữa một cây bút
nam và một cây bút nữ khi viết về phụ nữ
được chính là lợi thế về giới tính của các cây bút nữ. “Sự tinh tế trong phát hiện chi
tiết, trong chiều sâu tâm lí và sự chân thực trong tính cách nhân vật… đó là thế mạnh
không ai giành được ở nhà văn nữ. Trên hết, sự trải nghiệm và chiêm nghiệm cá
nhân của người nữ mặc nhiên sẽ có sự đồng cảm lớn lao với nhân vật của mình, từ
đó khoảng cách giữa nhà văn với độc giả, nhất là độc giả nữ sẽ ngắn hơn nhiều”.
[95] Ý kiến của Võ Thị Hảo cũng tương tự như vậy khi chị cho rằng:
“Về cơ bản là
giống nhau, chỉ khác ở chỗ phụ nữ viết về chính giới của mình thì sẽ phát hiện ra
nhiều nỗi đau hơn của phụ nữ và cảm thấy tình yêu ở một khía cạnh khác hơn là khía
cạnh hưởng thụ và chiêm ngưỡng như nam giới thường hay quan tâm trong các tác
phẩm của họ”. [89] Trong khi đó Lý Lan không thấy có sự khác biệt giữa cây bút nữ
và cây bút
nam viết về phụ nữ mà chị chỉ thấy “sự khác biệt giữa người viết giỏi và
người viết không giỏi mà thôi”. [94]
Có lẽ mọi người đều có thể đồng ý là một cây bút nữ hẳn phải viết khác một
cây bút nam. Thế nhưng, không phải ai cũng cho rằng nhà văn nữ gặp nhiều khó khăn
trong nghề nghiệp hơn nhà văn nam giới. Tìm

ra lí lẽ thuyết phục không phải là một
công việc dễ dàng. Chúng ta sẽ có dịp bàn về vấn đề này ở tiểu mục sau.

1.3.Vấn đề giới
Viết văn là một công việc rất khó. Dù là nam hay nữ, đã theo đuổi nghiệp văn
chương là phải đương đầu với nhiều thử thách. Tuy nhiên, có những khó khăn mà chỉ
nhà văn nữ mới vấp phải. Đó trước hết là những vất vả do thiên chức làm vợ, làm mẹ
mang đến cho người phụ nữ. Kế tiếp là trong một xã hội còn ít nhiều dấu ấn của tư
tưởng trọng nam
khinh nữ như Việt Nam thì sự đánh giá của dư luận dành cho nhà
văn nữ còn khắt khe. Nhà văn Dạ Ngân và nhà văn Võ Thị Hảo đã chỉ rất rõ điều này
khi nói về những khó khăn của nhà văn nữ trong thời điểm hiện nay. Theo Dạ Ngân,
khó khăn cụ thể là thời gian. “Người phụ nữ bị xẻ đôi, xẻ ba cho nhiều nghĩa vụ:
nghĩa vụ công sở, nghĩa vụ gi
a tộc, nghĩa vụ gia đình”. Chị nhấn mạnh, nếu người
đó là nhà văn nữa thì sẽ còn gặp nhiều khó khăn hơn nữa bởi, “người họ lúc nào
cũng căng như sợi dây đàn, chạm đến là rung mà cũng có thể đứt bất cứ lúc nào”.
Chị cho rằng, khó khăn chung của tất cả các nhà văn nữ là áp lực xã hội khi phán xét

×