Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung theo quy định của pháp luật chứng khoán ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 102 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN THỊ HÀ TRANG





BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH CỦA NHÀ ĐẦU TƯ
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG THEO
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC












HÀ NỘI - 2009




LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Trần Thị Hà Trang














MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các chữ viết tắt


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
TẬP TRUNG Ở VIỆT NAM VÀ BẢO VỆ QUYỀN, LỢI
ÍCH CỦA NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN TẬP TRUNG

6
1.1.
Các đặc điểm của thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam
6
1.2.
Nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung
12
1.3.
Các quyền của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung
14
1.3.1.
Quyền tham gia thị trường và thực hiện các giao dịch chứng khoán
15
1.3.2.
Quyền được cung cấp thông tin
22
1.3.3.
Quyền được bảo vệ tài sản đầu tư
30
1.4.
Bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung
33

Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH CỦA NHÀ
ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP
TRUNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
38
2.1.
Bảo vệ quyền tham gia thị trường và thực hiện các giao dịch

chứng khoán trên thị trường chứng khoán tập trung
38
2.1.1.
Các quy định của pháp luật chứng khoán về bảo vệ quyền
tham gia thị trường và thực hiện các giao dịch chứng khoán
của nhà đầu tư
38


2.1.2.
Thực trạng bảo vệ quyền tham gia thị trường và thực hiện các
giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư
43
2.2.
Bảo vệ quyền được cung cấp thông tin
54
2.2.1.
Quy định của pháp luật chứng khoán về bảo vệ quyền được
cung cấp thông tin của nhà đầu tư
54
2.2.2.
Thực trạng bảo vệ quyền được cung cấp thông tin của nhà
đầu tư
58
2.3.
Bảo vệ quyền sở hữu tài sản đầu tư
65
2.3.1.
Quy định của pháp luật chứng khoán về bảo vệ quyền sở hữu
tài sản đầu tư

65
2.3.2.
Thực trạng bảo vệ quyền sở hữu tài sản đầu tư của nhà đầu tư
73
2.4.
Nguyên nhân của các hạn chế trong thực tiễn bảo vệ quyền
của nhà đầu tư
78
2.4.1.
Chế tài chưa đủ mạnh
78
2.4.2.
Cơ chế giám sát của cơ quan quản lý nhà nước còn yếu
80
2.4.3.
Hệ thống công nghệ thông tin yếu kém
81
2.4.4.
Trình độ nghiệp vụ của nhân viên hành nghề chứng khoán thấp
81

Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC BẢO VỆ QUYỀN
VÀ LỢI ÍCH CỦA NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG
83
3.1.
Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán tập trung
83
3.1.1.

Luật Chứng khoán cần có quy định chi tiết, cụ thể về quyền
và nghĩa vụ của nhà đầu tư
83
3.1.2.
Hoàn thiện các chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng
khoán và thị trường chứng khoán
84
3.1.3.
Bổ sung các quy định về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực
chứng khoán
85


3.1.4.
Bổ sung các chế tài hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp
luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán
86
3.2.
Các giải pháp khác
87
3.2.1.
Các giải pháp kỹ thuật
87
3.2.2.
Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giám sát và quản lý
thị trường
90
3.2.3.
Nâng cao chất lượng tin tức báo chí
91

3.2.4.
Nâng cao trình độ nhà đầu tư
92

KẾT LUẬN
93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
94


























DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

HASTC
: Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội
HOSE
: Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
SGDCK
: Sở Giao dịch chứng khoán
Thị trường OTC
: Giao dịch chứng khoán phi tập trung
TTCK
: Thị trường chứng khoán
TTCKTT
: Thị trường chứng khoán tập trung
TTGDCK
: Trung tâm Giao dịch chứng khoán
UBCKNN
: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước


























1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thị trường chứng khoán (TTCK) là một kênh rất quan trọng để huy
động vốn cho nền kinh tế. Trong những nền kinh tế thị trường phát triển hay
đang phát triển, TTCK luôn được coi là "hàn thử biểu" để đánh giá thể trạng
của nền kinh tế mỗi quốc gia. Mọi biến động chính trị - xã hội - kinh tế luôn
được phản ánh vào sự tăng giảm của các chỉ số chứng khoán. Và sự dao động
của TTCK, hay sự sụp đổ vào một "ngày đen tối" định mệnh nào đó của một
TTCK chuyên nghiệp có thể dẫn đến sự sụp đổ cả một nền kinh tế theo tính
chất dây chuyền. Xây dựng và phát triển TTCK là yêu cầu bắt buộc đối với

mọi nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế
như hiện nay. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Trong năm 2006 và đầu năm 2007, cơn sốt chứng khoán đã ghi một
dấu ấn đặc biệt trong nền kinh tế Việt Nam với tốc độ tăng trưởng cao, chỉ số
VnIndex đạt mức cao nhất 1.170,67 điểm vào ngày 12/3/2007, mức độ vốn
hóa đạt 278.523 tỷ đồng, chiếm 65,47% so với GDP của năm 2006. Năm
2008 là một năm thực sự khó khăn đối với TTCK Việt Nam. Vào ngày
20/6/2008, chỉ số VNIndex giảm thấp nhất với 366,02 điểm. Vào thời điểm
này, giá trị vốn hóa của toàn thị trường vẫn đạt 168.747 tỷ đồng, chiếm
36,57% so với GDP năm 2007. Với sự tăng trưởng ấn tượng cũng như các
giai đoạn thăng trầm, thử thách nhà đầu tư như vậy, chứng khoán đã và vẫn
đang là một đề tài hấp dấn đối với những người nghiên cứu về nó, đồng thời
với cả những người không am hiểu về nó.
Thị trường chứng khoán chính thức của Việt Nam còn rất non trẻ với
8 năm kể từ khi thành lập và đi vào hoạt động. Tuy vậy, mức độ quan trọng của
TTCK trong bức tranh toàn cảnh của nền kinh tế Việt Nam đang dần dần được
xác lập, thu hút được sự tham gia của nhiều nhà đầu tư trong nước và nước

2

ngoài. Cho đến tháng 8/2008, đã có khoảng 400.000 tài khoản giao dịch
chứng khoán được mở, trong đó có hơn 11.000 tài khoản của nhà đầu tư cá
nhân nước ngoài, hơn 770 tài khoản của nhà đầu tư tổ chức nước ngoài

[16].
Tuy số lượng tương đối đông đảo như vậy, nhưng có một thực tế là các nhà
đầu tư khi tham gia vào TTCK đôi khi không nắm bắt được hoặc không sử
dụng có hiệu quả cơ chế pháp lý bảo vệ quyền lợi cho mình khi tham gia vào
một sân chơi tài chính bậc cao. Đồng thời, các quy định pháp luật chứng
khoán của Việt Nam ban đầu cũng còn nhiều lỗ hổng trong việc định ra các

cơ chế bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư cá nhân.
Hai nguyên nhân này tạo ra những vụ việc xâm phạm lợi ích của nhà đầu tư
và một sự chênh lệch tương đối lớn giữa các tầng lớp nhà đầu tư khác nhau
trong nhiều vấn đề: quyền tiếp cận thông tin, quyền tham gia thị trường, thực
hiện việc mua bán chứng khoán, quyền tham gia vào hoạt động quản trị - điều
hành công ty, quyền quyết định các vấn đề quan trọng của công ty Hệ thống
pháp luật về chứng khoán và TTCK đứng trước yêu cầu ngày càng phải được
hoàn thiện hơn trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư - đối tượng quan
trọng nhất góp phần làm nên TTCK. Bởi vậy, đề tài "Bảo vệ quyền và lợi ích
của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung theo quy định của
pháp luật chứng khoán ở Việt Nam" được tác giả chọn để nghiên cứu là một
vấn đề mang tính thời sự và cấp thiết trong bối cảnh hiện nay, được bàn thảo
và tranh cãi nhiều trên các diễn đàn khoa học, cũng như trên các phương tiện
thông tin đại chúng nhằm đạt được các luồng ý kiến đa chiều từ các học giả,
các nhà làm luật, cũng như từ các nhà đầu tư - những người trực tiếp tham gia
vào thị trường.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề này ở Việt Nam, ý nghĩa lý luận và
thực tiễn của đề tài
Hiện nay đã có nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học về
vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Phần lớn trong số đó liên quan đến
việc bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường phi tập trung. Một số bài viết liên quan

3

đến nhà đầu tư trên thị trường tập trung nhưng các bài nghiên cứu nói trên
mới dừng ở mức độ nêu ra tình huống nhà đầu tư bị thiệt hại và dẫn chiếu lại
các quy định của pháp luật Việt Nam để xác định trong những tình huống đó
thì nhà đầu tư nên làm gì để bảo vệ quyền lợi cho mình và trách nhiệm của cơ
quan quản lý nhà nước cần làm đến đâu để bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư.
Có một số bài nghiên cứu dẫn chiếu đến các quy định của pháp luật nước

ngoài, nhưng chưa phân tích được sự tương thích giữa trình độ phát triển của
TTCK Việt Nam với các quy định pháp lý đó. Ngoài ra, hàng năm, Ngân
hàng Thế giới đã đưa ra một báo cáo về giá tình hình quản trị doanh nghiệp,
trong đó có đánh giá về thực trạng bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư ở Việt Nam
nhưng chỉ ở mức độ đánh giá thực tiễn mà chưa đi sâu phân tích các quy
phạm pháp luật liên quan đến vấn đề này.
Hiện đã có một số công trình nghiên cứu về bảo vệ quyền lợi của nhà
đầu tư trên TTCK như luận văn thạc sĩ luật học của Phạm Thanh Tú về "Bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán
tập trung theo pháp luật Việt Nam" (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2006); hoặc bài nghiên cứu của tác giả Hoàng Thị Quỳnh Chi về "Hoàn thiện
các biện pháp bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán", đăng trên Tạp chí Kiểm sát,
số 19 năm 2006. Cách tiếp cận của các công trình nghiên cứu trước đây chủ
yếu tập trung vào các quyền của nhà đầu tư với tư cách là cổ đông của tổ chức
phát hành, tổ chức niêm yết theo hệ thống pháp luật về chứng khoán trước khi
Luật Chứng khoán 2006 được ban hành. Luận văn này tiếp cận theo một
hướng khác, đó là nghiên cứu về việc bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư
theo các quy định của Luật Chứng khoán 2006 và các văn bản hướng dẫn thi
hành xuất phát từ mối quan hệ giữa nhà đầu tư với tất cả các định chế của thị
trường, đặt nhà đầu tư vào vị trí là một mắt xích quan trọng của toàn bộ hệ
thống thị trường chứng khoán tập trung (TTCKTT) với sự tham gia của các
công ty niêm yết, các công ty chứng khoán, sở giao dịch chứng khoán, trung
tâm lưu ký Đồng thời, những kiến nghị mà tác giả có thể rút ra từ việc nghiên

4

cứu này hy vọng sẽ có ý nghĩa thiết thực trong quá trình hoàn thiện pháp luật
về chứng khoán và TTCK của Việt Nam, thúc đẩy sự phát triển nhanh, mạnh
và bền vững của TTCK.
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu

Đề tài này tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và các quy định cụ thể
về bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư trên TTCKTT theo Luật Chứng
khoán Việt Nam trên cơ sở so sánh với pháp luật một số nước khác. Pháp luật
chứng khoán, tại đây được hiểu, bao gồm Luật Chứng khoán số 70/QH11
được ban hành năm 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Các quyền của
nhà đầu tư với tư cách là cổ đông của công ty cổ phần theo quy định của Luật
Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành không thuộc phạm vi
nghiên cứu của luận văn này.
Trong phần trình bày, tác giả sẽ đưa ra các ví dụ thực tế về tình hình
bảo vệ nhà đầu tư tham gia TTCK Việt Nam, các trường hợp nhà đầu tư dễ bị
tổn thương và cách hành xử của các chủ thể tham gia thị trường cũng như cơ
quan quản lý nhà nước trong những trường hợp đó, từ đó đưa ra nhận định về
quy định của pháp luật Việt Nam trong từng trường hợp liên quan. Qua đó,
tác giả sẽ nêu lên những kiến nghị có thể được áp dụng trong việc hoàn thiện
pháp luật về chứng khoán và TTCK nhằm xác lập một cơ chế bảo vệ nhà đầu
tư một cách hợp lý, khoa học và phù hợp với thông lệ quốc tế.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp phân tích để phân tích các quy định của
pháp luật Việt Nam trong việc bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư và đánh giá mức
độ hiệu quả khi áp dụng các quy định đó vào từng tình huống cụ thể.
Bên cạnh đó, tác giả sử dụng phương pháp so sánh, đặc biệt so sánh
các quy định của pháp luật Việt Nam với các quy định của pháp luật các
nước, từ đó rút ra những điểm Việt Nam đã đạt được và những điểm cần phải
sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.

5

5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Khái quát chung về thị trường chứng khoán tập trung ở
Việt Nam và bảo vệ quyền, lợi ích của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán
tập trung.
Chương 2: Các quy định của pháp luật chứng khoán Việt Nam về bảo
vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung và
thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện việc bảo vệ quyền và lợi ích của
nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung.

6

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
TẬP TRUNG Ở VIỆT NAM VÀ BẢO VỆ QUYỀN, LỢI ÍCH CỦA
NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG

1.1. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG
Ở VIỆT NAM
Thị trường chứng khoán tập trung là nơi giao dịch các chứng khoán có
độ rủi ro thấp, được đăng ký niêm yết, được giao dịch tại một thị trường có tổ
chức, theo phương thức và địa điểm giao dịch cố định, có cơ chế xác lập giá
và cơ chế thanh toán bù trừ được quy định chặt chẽ. TTCKTT là một khái
niệm được sử dụng để phân định với một phương thức giao dịch chứng khoán
khác, là giao dịch chứng khoán phi tập trung (hay còn gọi là thị trường OTC).
Ở Việt Nam, thời kỳ đầu của sự phát triển TTCK, khái niệm "thị
trường chứng khoán" hầu như được đồng nhất với khái niệm "thị trường
chứng khoán tập trung". Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của
Chính phủ quy định về chứng khoán và TTCK đã định nghĩa: "Giao dịch
chứng khoán là việc mua, bán chứng khoán trên thị trường giao dịch tập
trung" [4, Điều 2]. Điều này không đúng về bản chất. Việc mua, bán, chuyển

nhượng cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ và các loại chứng khoán khác, bất
kể nó được diễn ra tại một địa điểm hoặc hệ thống thông tin tập trung (thị
trường tập trung) hay không, thì đó vẫn là việc giao dịch chứng khoán. Cần
phải phân biệt rõ hành vi giao dịch chứng khoán với phương thức tổ chức cho
việc diễn ra hành vi đó. Nghị định 48/1998/NĐ-CP với tư cách là văn bản
pháp lý đầu tiên điều chỉnh về chứng khoán và TTCK đã không làm rõ việc
phân định này. Luật Chứng khoán hiện hành không đưa ra định nghĩa hay
khái niệm "thị trường chứng khoán tập trung", mà chỉ có khái niệm "thị
trường giao dịch chứng khoán", theo đó Thị trường giao dịch chứng khoán là

7

địa điểm hoặc hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh mua, bán và giao
dịch chứng khoán [8, Điều 18]. Theo định nghĩa này, thị trường giao dịch
chứng khoán bao gồm của TTCKTT và TTCK phi tập trung, hay còn gọi là
thị trường OTC. Để phân biệt hai hình thức thị trường giao dịch chứng khoán
này, chúng ta có thể nhận thấy một số đặc điểm khác biệt như sau:
TTCK tập trung
- Địa điểm tập trung
- Giao dịch thông qua đấu giá tập trung
- Chỉ có một mức giá tại một thời điểm
- Giao dịch các chứng khoán có độ
rủi ro thấp hơn
- Sử dụng hệ thống mạng điện tử
- Vai trò nhà tạo lập thị trường
không rõ nét
- Cơ chế thanh toán bù trừ đa phương
thống nhất
Thị trường OTC
- Địa điểm phi tập trung

- Giao dịch thỏa thuận/khớp lệnh
- Tại một thời điểm có nhiều mức giá
- Giao dịch các chứng khoán có độ
rủi ro cao
- Sử dụng hệ thống mạng điện tử
- Có các nhà tạo lập thị trường

- Cơ chế thanh toán linh hoạt và đa dạng
Để hiểu rõ về TTCKTT, chúng ta có thể xem xét một số đặc điểm
chính như sau:
- Là thị trường có tính tổ chức cao. Khác với các thị trường hàng hóa
thông thường, TTCKTT là một thị trường có tính tổ chức rất cao, mọi hoạt
động của thị trường đều được điều tiết bởi một hệ thống các cơ quan có thẩm
quyền. Các chủ thể tham gia quản lý, điều hành và các định chế trung gian
đều là những tổ chức chuyên nghiệp và phải có đủ năng lực, quyền hạn cũng
như điều kiện để tham gian thị trường. Các định chế khi tham gia thị trường
phải đảm bảo tuân thủ theo những những quy định và nguyên tắc nhất định.
Các định chế tham gia thị trường được điều chỉnh thống nhất bởi hệ thống các
quy định, quy chế của các Sở Giao dịch chứng khoán (SGDCK)/ Trung tâm

8

Giao dịch chứng khoán (TTGDCK), Trung tâm lưu ký chứng khoán nhằm tạo
ra một quá trình hợp tác hiệu quả, thông suốt đảm bảo tính an toàn, hiệu quả
của các giao dịch.
- Là thị trường được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật chặt chẽ.
TTCKTT, khi vận hành mọi hoạt động, hành vi của các chủ thể tham gia thị
trường đều chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp luật chặt chẽ. Với tính
chất là một thị trường nhạy cảm, nhiều rủi ro và khả năng tác động, ảnh
hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế - xã hội của mọi quốc gia, TTCK đòi hỏi

phải có sự quản lý chặt chẽ và minh bạch. Vì vậy, để điều hành và quản lý
TTCKTT, Nhà nước đã ban hành một hệ thống đầy đủ các văn bản pháp luật
mà tất cả các chủ thể tham gia thị trường đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh. Mọi
hành vi vi phạm đều có những chế tài xử lý thích hợp. Bên cạnh đó, cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, các SGDCK/ TTGDCK cũng thiết lập một hệ thống
các cơ quan giám sát để giám sát chặt chẽ mọi hoạt động của các chủ thể tham
gia thị trường, đảm bảo tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật.
- Là thị trường hoạt động trên nguyên tắc trung gian. Đây là một đặc
trưng nổi bật của TTCKTT so với các thị trường thông thường. Không giống
với thị trường hàng hóa thông thường, hàng hóa trên TTCKTT được coi là
những hàng hóa đặc biệt, đó là những cổ phiếu, trái phiếu và các loại giấy tờ
có giá khác được phép trao đổi. Việc mua bán trao đổi trực tiếp giữa người
mua, người bán vẫn có thể thực hiện được và mang lại lợi nhuận cho nhà đầu
tư. Tuy nhiên, phương thức trao đổi trực tiếp sẽ không mang lại hiệu quả và
khả năng thanh khoản nhanh chóng của các loại chứng khoán. Tại TTCKTT,
tất cả các loại chứng khoán niêm yết trên thị trường đều được lưu ký tập trung
tại Trung tâm lưu ký. Chứng khoán giao dịch giữa các nhà đầu tư thực chất
chỉ là quyền sở hữu chứng khoán, mọi chứng chỉ vật chất của các loại chứng
khoán đều được lưu giữ tại Trung tâm lưu ký. Nhà đầu tư khi tham gia trên
TTCKTT không trực tiếp thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán với
nhau. Mọi yêu cầu mua/ bán chứng khoán của các nhà đầu tư được thực hiện

9

thông qua các Công ty chứng khoán thành viên của thị trường. Việc thanh
toán tiền mua và chuyển giao chứng khoán sẽ được thực hiện thông qua hệ
thống thanh toán bù trừ giữa công ty chứng khoán, SGDCK/ TTGDCK và
Trung tâm lưu ký chứng khoán.
- Ngoài ra, TTCKTT cũng hoạt động theo các nguyên tắc của TTCK
nói chung như công bằng, minh bạch, công khai thông tin, tôn trọng quyền tự

do mua, bán, kinh doanh và dịch vụ chứng khoán của tổ chức, cá nhân, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
Một trong những bước đi đầu tiên có ý nghĩa khởi đầu cho việc xây
dựng TTCKTT ở Việt Nam là việc thành lập Ban Nghiên cứu xây dựng và
phát triển thị trường vốn thuộc Ngân hàng Nhà nước theo Quyết định số
207/QĐ-TCCB ngày 6/11/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước với
nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng đề án và chuẩn bị các điều kiện để thành lập
TTCK theo bước đi thích hợp.
Đến năm 1996, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) được
thành lập theo Nghị định số 75/CP của Chính phủ, theo đó UBCKNN là cơ
quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý nhà nước về
chứng khoán và TTCK. Việc thành lập cơ quan quản lý TTCK trước khi thị
trường ra đời trên thực tế là bước đi phù hợp với chủ trương xây dựng và phát
triển TTCK ở Việt Nam, có ý nghĩa quyết định cho sự ra đời của TTCK sau
đó hơn 3 năm.
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh được
thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998 và chính
thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/2000
với hai cổ phiếu đầu tiên là REE và SAM đã đánh dấu một sự kiện quan
trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Sự ra đời của TTGDCK
Thành phố Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo ra một kênh huy
động và luân chuyển vốn mới phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại

10

hóa đất nước, là sản phẩm của sự chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế vận hành
theo cơ chế thị trường theo định hướng chủ nghĩa xã hội của Đảng và Nhà
nước ta [21].
Đến ngày 11/5/2007, theo Quyết định số 559/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh được

chuyển đổi thành Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, đánh
dấu một bước phát triển đầy ý nghĩa của TTCK Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập và phát triển khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ
chức Thương mại Thế giới.
Bên cạnh SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao dịch
Chứng khoán Hà Nội cũng chính thức khai trương hoạt động vào tháng
3/2005, đánh dấu một bước phát triển mới của thị trường, khi nhu cầu giao
dịch chứng khoán của các doanh nghiệp và nhà đầu tư tăng lên, các cấp độ
tham gia thị trường của các chủ thể ngày càng trở nên đa dạng và phong phú.
Sự gia tăng nhanh chóng lượng cổ phiếu niêm yết trên thị trường đã
thu hút được thêm nhiều nhà đầu tư, trong cũng như ngoài nước, cá nhân cũng
như tổ chức . Đến cuối năm 2006, số lượng tài khoản của nhà đầu tư mở tại
các công ty chứng khoán thành viên lên tới trên 106 ngàn tài khoản , thì cho
đến hết năm 2007 số lươ
̣
ng ta
̀
i khoa
̉
n cu
̉
a nha
̀
đầu tư mơ
̉
ta
̣
i ca
́
c CTCK đa

̃
lên

́
i gần 307 ngàn tài khoản trong đó có trên 7 ngàn tài khoản của nhà đầu tư
nước ngoài [26].
Đánh giá về quá trình phát triển của TTCKTT trong những năm qua,
ông Nguyễn Đoan Hùng, Phó Chủ tịch UBCKNN đã đưa ra năm thành quả
mà TTCK Việt Nam đã đạt được:
Thứ nhất, đã hình thành được thị trường vốn trung và dài hạn. Trước
kia, nguồn vốn cho các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào hệ thống ngân hàng.
Nhu cầu vốn cho nền kinh tế đè nặng lên vai các ngân hàng thương mại. Khi
TTCK ra đời, nó tạo ra một kênh huy động vốn trực tiếp, thu hút nguồn tiền
nhàn rỗi trong công chúng để đầu tư cho doanh nghiệp, san sẻ gánh nặng cho

11

ngân hàng. Đây được coi là giá trị nổi bật, có ý nghĩa lâu dài và đáng được đề
cao nhất của TTCK sau hơn 7 năm hoạt động.
Thứ hai, là yếu tố minh bạch hóa hoạt động của doanh nghiệp. Khi
chưa có TTCK, hoạt động của hầu hết doanh nghiệp có hạn chế lớn là không
công khai, không minh bạch, quản trị doanh nghiệp hầu hết đều yếu kém. Khi
tham gia TTCK, yếu tố đầu tiên phải thay đổi của doanh nghiệp là việc công
khai hóa, minh bạch hóa hoạt động của doanh nghiệp, cải thiện công tác quản
lý và quản trị doanh nghiệp để đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư và của
thị trường.
Thứ ba, TTCK đã tạo ra một kênh hiệu quả trong việc thu hút nguồn
vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài. Bên cạnh nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài thì nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đang ngày một tăng mạnh
mẽ, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển và hội nhập của nền kinh tế.

Thứ tư, TTCK góp phần tác động tích cực đến quá trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước. Thông qua thị trường, các công ty chứng khoán, các
công ty kiểm toán, các tổ chức định giá cùng nhau đẩy mạnh tiến trình chung,
nhiều doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa, bán cổ phiếu ra công
chúng, lên sàn niêm yết. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước vừa có ý nghĩa
cung cấp hàng hóa cho TTCK, đa dạng hóa hình thức sở hữu trong các doanh
nghiệp vốn là thế mạnh của nhà nước, giảm dần trạng thái nhà nước làm kinh
tế, đồng thời mang lại cho nhà nước nguồn vốn thặng dư rất lớn để thực hiện
các chính sách xã hội và đầu tư công.
Thứ năm, TTCK thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và
nền kinh tế Việt Nam nói chung hội nhập nhanh hơn với thế giới. Sự tham gia
của các nhà đầu tư nước ngoài, sự hợp tác quốc tế của các doanh nghiệp niêm
yết với các tổ chức nước ngoài qua hình thức cổ đông chiến lược, cổ đông góp
vốn, việc các doanh nghiệp Việt Nam tìm đường niêm yết trên các sàn giao
dịch chứng khoán của nước ngoài không chỉ tạo ra sự hội nhập về nguồn

12

vốn mà còn là kinh nghiệm quản lý, nhân sự, công nghệ. Điều đó thể hiện sự
hội nhập của nền kinh tế nói chung [22].
1.2. NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG
Khi nói đến thị trường, tức là nói đến việc mua bán một loại hàng hóa
nhất định, người ta phải nhắc đến các chủ thể tham gia vào quá trình trao đổi
hàng hóa trên thị trường. Nói một cách khác, đó là những người mua, người
bán hàng hóa trên thị trường, trong đó người bán đóng vai trò là người cung
cấp hàng hóa còn người mua là người tiêu thụ các loại hàng hóa do người bán
cung cấp. Tương tự như vậy, khi nhắc đến TTCK, không thể không nhắc đến
khái niệm nhà đầu tư với tư cách là những chủ thể tham gia mua bán các loại
chứng khoán trên thị trường. Hiểu một cách chung nhất, nhà đầu tư trên
TTCK là những người tham gia mua bán các loại chứng khoán trên thị trường

nhằm mục đích thu lợi từ việc mua bán chứng khoán của mình. Khác với các
chủ thể tham gia mua bán hàng hoá ở các thị trường hàng hóa thông thường,
nhà đầu tư trên TTCK vừa đóng vai trò là người mua vừa là người bán các
loại chứng khoán trên thị trường. Trên TTCK, nhà đầu tư mua các loại chứng
khoán không nhằm mục đích tiêu thụ hoặc sử dụng các loại chứng khoán mà
họ mua về mà nhà đầu tư thực hiện việc mua đi, bán lại các loại chứng khoán
giao dịch trên thị trường nhằm mục đích kiếm lời từ việc mua bán của mình.
Cùng với sự phát triển của thị trường, khái niệm nhà đầu tư theo quy
định của pháp luật Việt Nam cũng có những thay đổi. Tại khoản 22 Điều 2
Nghị định 48/1998/NĐ-CP qui định: "Người đầu tư là người sở hữu chứng
khoán, người mua hoặc dự kiến mua chứng khoán". Theo khái niệm này, thì
nhà đầu tư chứng khoán có thể bao gồm những người đã mua chứng khoán và
đang nắm giữ chúng hoặc những người có ý định mua chúng. Nghị định
144/2003/NĐ-CP không đưa ra định nghĩa về nhà đầu tư. Đến Luật Chứng
khoán năm 2006 thì khái niệm "Nhà đầu tư" được quy định là tổ chức, cá
nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư trên TTCK.

13

Với quy định như trên, khái niệm nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam đã được
mở rộng và có nội dung đầy đủ hơn. Theo quy định của Luật Chứng khoán,
nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam bao gồm cả tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước, có sở hữu, tham gia mua bán các loại chứng khoán trên TTCK Việt
Nam. Với quy định nhà đầu tư là các tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức cá
nhân nước ngoài có tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường, Luật
Chứng khoán đã quy định đầy đủ hơn về các đối tượng được phép mua bán
chứng khoán trên TTCKTT. Các tổ chức, cá nhân mua bán chứng khoán ở
đây không còn đơn giản là các cá nhân, các tổ chức đơn thuần mà nó còn
được hiểu là các công ty quản lý quỹ, các công ty đầu tư, các quỹ đầu tư (các
tổ chức đầu tư chuyên nghiệp) cũng được phép tham gia vào TTCK Việt Nam.

Hiện có nhiều quan niệm và cách phân biệt khác nhau về người đầu tư
chứng khoán cũng như có nhiều cách phân loại nhà đầu tư chứng khoán, căn
cứ vào các tiêu chí và mục đích khác nhau:
- Căn cứ theo mục đích đầu tư:
Nhà đầu tư dài hạn: Là những nhà đầu tư thực hiện mua chứng khoán
với ý định nắm giữ chúng trong một thời gian tương đối dài để hưởng cổ tức
do doanh nghiệp trả hoặc tham gia vào hoạt động quản trị công ty.
Nhà đầu tư ngắn hạn: là những nhà đầu tư mua chứng khoán để nắm
giữ trong một thời gian ngắn và hy vọng bán lại với mức cao hơn để hưởng
chênh lệch giá. Những người tham gia đầu tư theo mục đích này còn được gọi
là những nhà đầu cơ.
- Căn cứ theo quốc tịch của nhà đầu tư:
Nhà đầu tư trong nước: Là các tổ chức được thành lập theo pháp luật
Việt Nam và các cá nhân mang quốc tịch Việt Nam.

14

Nhà đầu tư nước ngoài: Là các tổ chức được thành lập theo pháp luật
nước ngoài và các cá nhân không mang quốc tịch Việt Nam thực hiện việc
mua bán chứng khoán trên TTCK Việt Nam.
Ngoài hai cách phân loại trên, nhà đầu tư trên TTCK tập trung còn
được phân loại thành nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức:
Nhà đầu tư cá nhân: là những cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân
sự chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi mua bán chứng khoán của
chính mình, có khả năng tài chính hoặc có đủ số chứng khoán đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ thanh toán của mình.
Nhà đầu tư tổ chức: Là các tổ chức thực hiện việc mua bán chứng
khoán như là một phần hoạt động kinh doanh của mình. Luật Chứng khoán
phân loại nhà đầu tư tổ chức theo mức độ chuyên nghiệp và không chuyên
nghiệp. Nhà đầu tư tổ chức chuyên nghiệp bao gồm các định chế tài chính

trung gian, các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, quỹ đầu tư
chứng khoán thực hiện việc mua bán chứng khoán một cách chuyên nghiệp,
là một trong những lĩnh vực hoạt động chính. Nhà đầu tư tổ chức không
chuyên nghiệp là các tổ chức thực hiện việc mua bán chứng khoán không
thường xuyên và không chuyên nghiệp với mục đích tạo thêm nguồn thu nhập
bổ sung [12, tr. 9-10].
1.3. CÁC QUYỀN CỦA NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN TẬP TRUNG
Nhà đầu tư trên TTCKTT trong mối quan hệ với tổ chức niêm yết họ
còn có tư cách cổ đông. Điều đó có nghĩa là nhà đầu tư có đầy đủ các quyền
và lợi ích của cổ đông đối với tổ chức niêm yết theo đúng quy định của pháp
luật về doanh nghiệp, ví dụ như quyền tham dự và biểu quyết tại Đại hội đồng
cổ đông, quyền tham gia quản lý doanh nghiệp nếu dồn đủ số cổ phần quy
định, quyền kiểm tra các sổ sách, báo cáo tài chính của doanh nghiệp, quyền dồn
phiếu để bầu thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, quyền khởi kiện ra

15

tòa án nếu thủ tục tiến hành Đại hội đồng cổ đông không theo luật định,
quyền nhận cổ tức Tuy nhiên, các quyền của cổ đông được điều chỉnh bằng
một hệ thống văn bản pháp luật khác là hệ thống pháp luật về doanh nghiệp.
Còn xét từ góc độ pháp luật chứng khoán thì nhà đầu tư có các quyền
đặc trưng liên quan đến việc mua, bán chứng khoán trên thị trường giao dịch
tập trung, đó là quyền được tham gia thị trường để thực hiện việc mua bán
chứng khoán, quyền được cung cấp đầy đủ thông tin thị trường để đảm bảo
việc mua bán chứng khoán được công bằng, minh bạch, và quyền được bảo
vệ tài sản đầu tư.
1.3.1. Quyền tham gia thị trường và thực hiện các giao dịch chứng khoán
Đầu tư chứng khoán là khái niệm chỉ hoạt động mua bán, chuyển
nhượng các loại chứng khoán của các nhà đầu tư trên TTCK. Hiểu theo nghĩa

chung nhất, khi muốn mua một loại chứng khoán bất kỳ, nhà đầu tư sẽ thực
hiện các giao dịch mua với các nhà đầu tư khác đang sở hữu loại chứng khoán
mà nhà đầu tư đó muốn mua, ngược lại, khi muốn bán một loại chứng khoán
mà mình đang sở hữu, nhà đầu tư sẽ thực hiện một giao dịch bán với người
muốn mua loại chứng khoán mà nhà đầu tư đang sở hữu. Đối với TTCKTT,
phương thức giao dịch mua/ bán chứng khoán không đơn giản như cách hiểu
nêu trên. Ở TTCKTT, ngoài các nhà đầu tư có nhu cầu mua/ bán các loại
chứng khoán còn có nhiều chủ thể khác tham gia vào hoạt động mua bán
chứng khoán như SGDCK/ TTGDCK, Trung tâm lưu ký chứng khoán, các
công ty chứng khoán hoặc trên một số thị trường phát triển, có thể có thêm
các nhà môi giới chứng khoán độc lập. Chính vì vậy phương thức giao dịch
mua/ bán chứng khoán trên thị trường cũng phức tạp hơn, đa dạng hơn. Thay
vì thực hiện một giao dịch mua/ bán trực tiếp với người mua hoặc người bán,
nhà đầu tư chứng khoán trên TTCKTT sẽ thực hiện giao dịch thông qua
những tổ chức trung gian và lệnh mua/ bán chứng khoán cũng được thực hiện
theo nhiều bước khác nhau, thông qua nhiều chủ thể khác nhau trước khi hoàn

16

thành việc mua bán. Vì vậy, để thực hiện một giao dịch mua bán chứng khoán,
ngoài việc tìm hiểu đầy đủ các thông tin liên quan đến loại chứng khoán mà
mình muốn mua, các nhà đầu tư luôn quan tâm đến khả năng mình có thể thực
hiện giao dịch một cách nhanh nhất, thuận tiện nhất, minh bạch nhất và các
lệnh giao dịch của mình không bị tác động, xâm phạm để thực hiện thành
công các giao dịch mua bán chứng khoán của mình. Đây không chỉ là mong
muốn của nhà đầu tư mà còn là quyền của nhà đầu tư khi tham gia TTCKTT
và là một quyền bất khả xâm phạm của nhà đầu tư. Quyền được tham gia thị
trường và thực hiện các giao dịch chứng khoán này của các nhà đầu tư là một
quyền được bảo vệ bởi các cơ quan tổ chức thị trường cũng như của pháp luật
bởi lẽ chỉ khi các lệnh mua bán chứng khoán của nhà đầu tư được thực hiện

thì giao dịch của nhà đầu tư mới được coi là thành công và mang lại lợi nhuận
cho họ.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu quyền tham gia thị trường và thực hiện
các giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư là quyền được mở tài khoản giao
dịch chứng khoán và thực hiện các giao dịch mua bán các loại chứng khoán
trên TTCKTT theo nguyên tắc: nhà đầu tư có quyền đặt lệnh nhanh nhất,
thuận tiện nhất. Lệnh giao dịch của nhà đầu tư được tiếp nhận, xử lý một cách
minh bạch nhất, công bằng nhất và không bị xâm phạm bởi bất kỳ một chủ
thể nào. Trong đó:
- Nguyên tắc đặt lệnh nhanh chóng, thuận tiện nhất phản ánh việc nhà
đầu tư có thể đặt lệnh mua bán chứng khoán của mình tại bất kỳ thời điểm
nào trong thời gian giao dịch, việc đặt lệnh của nhà đầu tư được thực hiện một
cách dễ dàng, thuận tiện không bị cản trở hoặc hạn chế. Lệnh đặt được tiếp
nhận, xử lý và truyền vào hệ thống giao dịch một cách nhanh chóng để đảm
bảo thứ tự ưu tiên sớm nhất để khớp lệnh.
- Nguyên tắc lệnh giao dịch của khách hàng được tiếp nhận, xử lý một
cách minh bạch, công bằng và không bị xâm phạm bởi bất kỳ một chủ thể nào

17

phản ánh việc lệnh giao dịch của nhà đầu tư phải được đối xử công bằng,
minh bạch, không có sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư khác nhau. Lệnh
giao dịch của bất kỳ nhà đầu tư nào với số lượng và giá trị như thế nào cũng
được đối xử một cách công bằng với các lệnh của các nhà đầu tư khác, không
có sự phân biệt đối xử. Các lệnh giao dịch của nhà đầu tư phải được đảm bảo
đúng nội dung, bản chất, trình tự và không có sự xâm phạm, tác động của bất
kỳ tổ chức, cá nhân nào tham gia vào quá trình đặt lệnh mua bán chứng khoán
của các nhà đầu tư.
Như chúng ta đã biết, TTCKTT là một thị trường đặc biệt. Thị trường
được tổ chức, quản lý bởi những cơ quan, tổ chức đặc thù, có chức năng và

nhiệm vụ rõ ràng. Hàng hóa mua bán trên thị trường không phải là các tài sản
hữu hình mà là các loại cổ phiếu, trái phiếu, giấy tờ có giá do các công ty, tổ
chức có thẩm quyền phát hành theo những điều kiện nhất định. Hàng hóa
niêm yết trên TTCKTT không được giao dịch, mua bán trao tay trực tiếp mà
tất cả các loại chứng khoán giao dịch đều được lưu ký tập trung tại một nơi và
giao dịch tại một hệ thống giao dịch thống nhất. Các nhà đầu tư khi mua bán
chứng khoán trên thị trường cũng không thực hiện quyền sở hữu một cách
hữu hình với các tài sản mà mình đã mua. Trên TTCKTT, các nhà đầu tư
chứng khoán không trực tiếp thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán
như thực hiện mua bán các loại hàng hóa thông thường khác mà lệnh mua/ bán
chứng khoán của các nhà đầu tư phải thông qua rất nhiều chủ thể trung gian
để thực hiện như Công ty chứng khoán, TTGDCK/ SGDCK, Trung tâm lưu ký
chứng khoán. Chính vì vậy, quyền được tham gia và thực hiện các giao dịch
mua bán các loại chứng khoán trên TTCKTT của các nhà đầu tư cũng được
thể hiện và được bảo vệ theo những cách thức khác nhau. Để xác định rõ việc
bảo vệ các quyền liên quan đến khả năng tiếp cận thị trường của nhà đầu tư,
trước hết chúng ta phải làm rõ phương thức giao dịch tại TTCK Việt Nam.
Có thể nói rằng, phương thức giao dịch của thị trường sẽ ảnh hưởng
rất lớn đến quyền lợi của nhà đầu tư khi tham gia TTCKTT. Phương thức giao

18

dịch chính là cách thức nhà đầu tư đặt lệnh và cách thức truyền và nhận lệnh
lệnh từ công ty chứng khoán vào hệ thống giao dịch của SGDCK/ TTGDCK.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc đặt lệnh, nhận lệnh và thực hiện
các lệnh mua/ bán chứng khoán của nhà đầu tư được thực hiện qua hai bước
theo trình tự như sau:
(i) Khi có nhu cầu đầu tư chứng khoán, nhà đầu tư mở một tài khoản
giao dịch chứng khoán tại một công ty chứng khoán là thành viên giao dịch
của các SGDCK/ TTGDCK. Muốn mua/ bán một hoặc nhiều loại chứng khoán

niêm yết trên thị trường tập trung, nhà đầu tư sẽ đặt lệnh mua/ bán tại công ty
chứng khoán mà mình đã mở tài khoản;
(ii) Khi nhà đầu tư đặt lệnh mua/ bán chứng khoán đảm bảo đúng các
nội dung theo quy định và hợp lệ, Công ty chứng khoán sẽ thực hiện việc
truyền lệnh vào trạm đầu cuối của Công ty chứng khoán đặt tại TTGDCK/
SGDCK để nhập vào hệ thống giao dịch. Các lệnh đã được truyền vào sẽ
được đại diện giao dịch của Công ty chứng khoán nhập vào hệ thống giao
dịch của TTGDCK/ SGDCK để khớp lệnh. Việc nhập lệnh của các đại diện
giao dịch của các công ty chứng khoán sẽ được thực hiện một cách thủ công
bằng cách các đại diện sàn nhập từng lệnh đã truyền vào trạm đầu cuối của
công ty chứng khoán mở tại TTGDCK/ SGDCK vào hệ thống giao dịch của
TTGDCK/ SGDCK đã mở cho từng công ty chứng khoán thành viên.
(iii) Các lệnh mua bán chứng khoán của khách hàng sau khi được nhập
vào hệ thống giao dịch của TTGDCK/ SGDCK sẽ so khớp với các lệnh đối
ứng theo nguyên tắc ưu tiên về giá và thời gian. Theo đó, các lệnh mua có
mức giá cao hơn sẽ được thực hiện trước, các lệnh bán có mức giá thấp hơn sẽ
được thực hiện trước. Trường hợp các lệnh mua hoặc lệnh bán có cùng mức
giá thì lệnh được nhập vào hệ thống giao dịch trước sẽ được thực hiện trước.
Với phương thức nhận lệnh và truyền lệnh như trên, có thể dễ dàng
nhận thấy có rất nhiều chủ thể và yếu tố có thể ảnh hưởng đến quyền của nhà

19

đầu tư khi tham gia đặt lệnh trên TTCKTT. Với một phương thức giao dịch
mua bán trực tiếp, các nhà đầu tư có thể tự mình thực hiện các giao dịch mua
bán theo ý định của mình mà không chịu tác động của bất kỳ chủ thể nào hoặc
không có bất kỳ yếu tố nào tác động đến quyết định mua bán cũng như
phương thức thực hiện lệnh giao dịch của mình. Ngược lại, khi tham gia
TTCKTT, có sự tham gia của nhiều chủ thể vào một giao dịch mua bán, các
lệnh mua bán chứng khoán của nhà đầu tư chắc chắn sẽ bị chi phối bởi các

chủ thể trung gian. Đặc biệt khi các chủ thể trung gian nêu trên cũng có
những lợi ích nhất định khi thực hiện lệnh giao dịch của khách hàng cũng như
việc tham gia thị trường. Như đã đề cập tại phần 1.1, nguyên tắc trung gian là
một đặc trưng của TTCKTT, chính vì vậy các chủ thể trung gian có liên quan
như công ty chứng khoán, TTGDCK/ SGDCK khi tham gia vào giao dịch
mua/ bán chứng khoán của nhà đầu tư đều có một vai trò khác nhau và có
những tác động nhất định đến lệnh giao dịch của nhà đầu tư cũng như các
quyền và lợi ích của nhà đầu tư khi tham gia thị trường. Ta có thể xem xét vai
trò của từng chủ thể khi tham gia vào một giao dịch mua bán chứng khoán
của nhà đầu tư như sau:
Các công ty chứng khoán, với vai trò là tổ chức trung gian nhận, xử lý
và truyền các lệnh mua/ bán chứng khoán của nhà đầu tư vào hệ thống giao
dịch của TTGDCK/ SGDCK. Có thể nói, các Công ty chứng khoán có những
tác động trực tiếp tới giao dịch mua bán chứng khoán của nhà đầu tư vì họ là
tổ chức đầu tiên và trực tiếp nhận, xử lý và truyền các lệnh mua bán chứng
khoán của nhà đầu tư vào hệ thống giao dịch. Quá trình tiếp nhận, xử lý lệnh
này lại trải qua nhiều giai đoạn và có sự tham gia của nhiều người khác nhau.
Thực tế cho thấy, những yếu tố tác động và các hành vi xâm phạm quyền
tham gia thị trường và thực hiện các giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư
chủ yếu tập trung ở khâu nhận, xử lý và truyền lệnh của công ty chứng khoán.
TTGDCK/ SGDCK đóng vai trò là nơi thực hiện các lệnh mua/ bán
chứng khoán của các nhà đầu tư do các công ty chứng khoán truyền vào. Việc

×