Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tài liệu Báo cáo " Bảo vệ quyền và lợi ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam " pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.53 KB, 9 trang )



nghiên cứu - trao đổi
26 Tạp chí luật học số 1/
2009





ThS. Trần Phơng Thảo*
rong t tng dõn s, da trờn c s cú
n yờu cu ca ng s hoc trong
mt s trng hp khi xột thy cn thit, to
ỏn cú thm quyn gii quyt v ỏn dõn s cú
quyn ỏp dng mt hoc mt s bin phỏp
khn cp tm thi (BPKCTT) quy nh ti
iu 102 B lut t tng dõn s (BLTTDS).
Thc cht, BPKCTT trong t tng dõn
s l nhng bin phỏp c to ỏn cú thm
quyn ỏp dng trong tỡnh th khn cp
nhm gii quyt ngay yờu cu cp bỏch
ca ng s, bo v bng chng, bo
ton tỡnh trng hin cú trỏnh gõy thit hi
khụng th khc phc c hoc m bo
cho vic thi hnh ỏn (iu 99 BLTTDS).
Vic to ỏn ỏp dng BPKCTT l gii phỏp
hiu qu bo v khn cp quyn v li
ớch hp phỏp ca ng s khi to ỏn cha
xột x, cha ra bn ỏn, quyt nh gii
quyt ni dung v ỏn. Cng chớnh vỡ th,


BPKCTT luụn th hin tớnh cht c thự l
cú hiu lc phỏp lớ tm thi bi nú khụng
phi l kt qu gii quyt ni dung v ỏn
dõn s ca to ỏn. iu ny cng cú ngha
l BPKCTT ch cú hiu lc phỏp lut n
khi no tỡnh trng khn cp khụng cũn na,
quyt nh ỏp dng BPKCTT do to ỏn ban
hnh s ht hiu lc phỏp lut khi cú bn
ỏn, quyt nh gii quyt v ni dung v ỏn
thay th.
Theo quy nh ti iu 99 BLTTDS,
ng s, ngi i din ca ng s, c
quan, t chc ó khi kin v ỏn dõn s
bo v quyn, li ớch ca ngi khỏc cú
quyn yờu cu to ỏn cú thm quyn gii
quyt v ỏn ra quyt nh ỏp dng
BPKCTT. Nu yờu cu ú c chp nhn
thỡ theo quy nh ti iu 102 BLTTDS,
ngi b ỏp dng BPKCTT cú th phi thc
hin mt hoc mt s ngha v nh: Buc
phi thi hnh ngay ngha v tm ng ra mt
khon tin (nu b ỏp dng bin phỏp buc
thc hin trc mt phn ngha v cp
dng, buc thc hin trc mt phn
ngha v bi thng thit hi do tớnh mng,
sc khe b xõm phm, buc phi tm ng
tin lng, tin cụng lao ng, tin tr cp
tai nn lao ng, bnh ngh nghip) hoc
quyn ti sn ca h s b hn ch (nu b
ỏp dng bin phỏp kờ biờn, cm chuyn

dch quyn ti sn, phong ta ti sn, ti
khon) hoc h buc phi thc hin,
khụng thc hin mt hnh vi nht nh trỏi
vi ý chớ ca h. Tuy nhiờn, trong t tng
dõn s, cỏc ng s luụn bỡnh ng v
quyn v ngha v nờn tng ng vi cỏc
quy nh ca BLTTDS v quyn yờu cu
T

* Ging viờn Khoa lut dõn s
Trng i hc Lut H Ni


nghiªn cøu - trao ®æi
T¹p chÝ luËt häc sè 1/2009 27

toà án áp dụng BPKCTT của các chủ thể
theo luật định, các nhà làm luật cũng tạo
cho người bị yêu cầu áp dụng BPKCTT
trong tố tụng dân sự một sự bình đẳng hợp
lí, thể hiện qua các quy định của BLTTDS
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người bị
áp dụng BPKCTT.
Việc pháp luật tố tụng dân sự có những
quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của
người bị áp dụng BPKCTT là rất cần thiết
bởi vì rất có thể việc áp dụng BPKCTT
không đúng nên quyền và lợi ích của họ bị
ảnh hưởng nghiêm trọng. Để bảo vệ quyền
và lợi ích của những người bị áp dụng

BPKCTT không đúng, trong BLTTDS năm
2004 đã đặt ra ba phương thức bảo vệ họ,
bao gồm:
- Buộc người đưa ra yêu cầu toà án áp
dụng BPKCTT phải thực hiện biện pháp bảo
đảm trong những trường hợp do pháp luật
quy định;
- Cơ chế chịu trách nhiệm bồi thường
nếu đưa ra yêu cầu áp dụng BPKCTT hoặc
ra quyết định áp dụng BPKCTT không đúng;
- Cho phép người bị áp dụng BPKCTT
có quyền khiếu nại về quyết định áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ hoặc không áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ BPKCTT theo luật định.
1. Buộc người có yêu cầu toà án áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải
thực hiện biện pháp bảo đảm trong những
trường hợp do pháp luật quy định
Thông thường đối với mỗi chủ thể của
quan hệ pháp luật thì quyền bao giờ cũng đi
đôi với nghĩa vụ. Vì thế trong tố tụng dân
sự, đương sự, người đại diện, cơ quan, tổ
chức khởi kiện vì lợi ích của người khác sau
khi thực hiện quyền yêu cầu toà án áp dụng
BPKCTT, nếu yêu cầu đó được toà án chấp
nhận thì họ buộc phải thực hiện biện pháp
bảo đảm trong những trường hợp do pháp
luật quy định. Biện pháp bảo đảm được xem
như phương thức tạo ra sự cân bằng, bình
đẳng cho các bên: Bên có quyền yêu cầu toà

án áp dụng BPKCTT và bên bị toà án áp
dụng BPKCTT có quyền được pháp luật
bảo vệ. Về bản chất, việc buộc người có yêu
cầu toà án áp dụng BPKCTT phải thực hiện
biện pháp bảo đảm chính là sự bảo vệ chắc
chắn cho quyền, lợi ích của người bị áp
dụng BPKCTT nếu họ bị áp dụng BPKCTT
không đúng và ngăn ngừa tình trạng lạm
quyền yêu cầu của các chủ thể có quyền.
Biện pháp bảo đảm mà người có yêu
cầu toà án áp dụng BPKCTT phải thực hiện
được xác định theo quy định tại khoản 1
Điều 120 BLTTDS, theo đó họ “phải gửi
một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc
giấy tờ có giá do toà án ấn định nhưng
phải tương đương với nghĩa vụ tài sản mà
người có nghĩa vụ phải thực hiện”. Mục
đích của việc tạm ứng một khoản tiền hoặc
kim khí quý, đá quý, giấy tờ có giá của
người có yêu cầu áp dụng BPKCTT dự liệu
cho khả năng nếu sau này xác định được rõ
ràng người bị áp dụng BPKCTT đã bị áp
dụng không đúng và việc áp dụng BPKCTT
không đúng đó đã gây cho họ những thiệt
hại thì người có yêu cầu toà án áp dụng
BPKCTT đã có sẵn một giá trị tài sản để
bồi thường, bù đắp những thiệt hại đã xảy
ra cho người bị áp dụng BPKCTT. Biện



nghiªn cøu - trao ®æi
28 T¹p chÝ luËt häc sè 1/
2009
pháp bảo đảm này được xem là phương
thức cơ bản nhất, hiệu quả nhất cho việc
bảo vệ quyền và lợi ích của người bị áp
dụng BPKCTT. Tuy nhiên, người yêu cầu
toà án áp dụng BPKCTT chỉ phải thực hiện
biện pháp bảo đảm khi họ yêu cầu áp dụng
một hoặc một số BPKCTT được quy định từ
khoản 6 đến khoản 11 Điều 102 BLTTDS
như yêu cầu toà án kê biên tài sản, cấm
chuyển dịch quyền tài sản đối với tài sản
đang tranh chấp, cấm thay đổi hiện trạng tài
sản đang tranh chấp Chính sự phân biệt
BPKCTT nào cần phải thực hiện biện pháp
bảo đảm (từ khoản 6 đến khoản 11 Điều
120 BLTTDS), BPKCTT nào không cần
phải thực hiện biện pháp bảo đảm (khoản 1
đến khoản 5 Điều 120 BLTTDS) đã thể
hiện sự điều chỉnh linh hoạt của pháp luật tố
tụng dân sự đối với các quan hệ phát sinh
khi áp dụng BPKCTT.
Như vậy, về nguyên tắc, trong những
trường hợp do pháp luật quy định, người
có yêu cầu toà án áp dụng BPKCTT và
yêu cầu đó được toà án chấp nhận thì
người đó phải tạm ứng ra một khoản tiền
(hoặc kim khí quý, đá quý, giấy tờ có giá).
Mức mà họ tạm ứng ra để bảo đảm cho yêu

cầu của mình được thẩm phán hoặc hội
đồng xét xử ấn định nhưng phải được xác
định theo nguyên tắc “tương đương với
nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ
thực hiện”. Theo hướng dẫn tại Mục 9
Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao số 02/2005/NQ-HĐTP
ngày 27/4/2005 hướng dẫn thi hành một
số quy định tại Chương VIII “Các biện
pháp khẩn cấp tạm thời” của BLTTDS,
vấn đề này được xác định như sau:
- “Nghĩa vụ tài sản” là nghĩa vụ phải bồi
thường thiệt hại thực tế có thể xảy ra cho
người bị áp dụng BPKCTT hoặc cho người
thứ ba do việc yêu cầu áp dụng BPKCTT
không đúng gây ra. Cách giải thích này đã
giúp tránh được sự nhầm lẫn mà trước khi có
Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP một số
người mắc phải khi cho rằng nghĩa vụ tài sản
là nghĩa vụ của người bị yêu cầu áp dụng
BPKCTT sẽ phải thực hiện đối với người có
yêu cầu toà án áp dụng BPKCTT.
- Người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ
tài sản là người có yêu cầu toà án áp dụng
BPKCTT không đúng. Trong trường hợp
người yêu cầu áp dụng BPKCTT là người đại
diện theo ủy quyền của đương sự thì người có
nghĩa vụ phải thực hiện là đương sự. Trong
trường hợp người yêu cầu áp dụng BPKCTT
là người đại diện theo pháp luật của đương

sự là cơ quan, tổ chức thì người có nghĩa vụ
phải thực hiện là cơ quan, tổ chức.
Như vậy, người nào có yêu cầu toà án áp
dụng BPKCTT không đúng thì người đó
phải bồi thường cho người bị áp dụng
BPKCTT hoặc người thứ ba. Trách nhiệm
bồi thường này khác với biện pháp bảo đảm
mà người có yêu cầu toà án áp dụng
BPKCTT phải thực hiện khi yêu cầu đó của
họ được toà án chấp nhận. Theo chúng tôi,
những quy định này có tác dụng buộc người
đưa ra yêu cầu toà án áp dụng BPKCTT phải
thận trọng hơn. Tuy nhiên, các nhà làm luật
lại không đưa ra bất cứ trường hợp ngoại lệ
nào về việc người yêu cầu toà án áp dụng


nghiªn cøu - trao ®æi
T¹p chÝ luËt häc sè 1/2009 29

BPKCTT được miễn hoặc được giảm việc
thực hiện biện pháp bảo đảm. Trong thực
tiễn áp dụng, không ít trường hợp người có
yêu cầu toà án áp dụng BPKCTT gặp khó
khăn về kinh tế nên khoản tiền bảo đảm là
quá lớn đối với họ. Vì thế, theo chúng tôi
trong mọi trường hợp đều buộc người có
yêu cầu toà án áp dụng BPKCTT phải thực
hiện nghĩa vụ bảo đảm là không hợp lí bởi
về nguyên tắc, họ có quyền bảo vệ, bảo

toàn tình trạng tài sản hợp pháp của mình,
họ đang rất cần toà án hỗ trợ họ bảo vệ
quyền và lợi ích, không thể vì họ không có
tiền hoặc chưa có ngay tiền để bảo đảm thì
toà án sẽ quay lưng lại với họ. Cũng theo
quan điểm này, nếu người có yêu cầu toà
án áp dụng BPKCTT phải nộp một khoản
tiền để bảo đảm cho yêu cầu của mình, đề
phòng việc ra quyết định áp dụng BPKCTT
không đúng thì vai trò của toà án là cơ
quan đã ra quyết định áp dụng BPKCTT sẽ
xác định như thế nào trong trường hợp
này? Theo quy định của BLTTDS, đương
sự, người đại diện của đương sự, cơ quan,
tổ chức chỉ có quyền yêu cầu toà án áp
dụng BPKCTT chứ họ không hề có quyền
ra quyết định áp dụng BPKCTT. Quyền ra
quyết định đó là của toà án có thẩm quyền
sau khi xem xét, cân nhắc về yêu cầu của
đương sự. Vậy việc ra quyết định áp dụng
BPKCTT có cần thiết hay không là thuộc
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của toà
án, không thể buộc người đưa ra yêu cầu
phải bảo đảm về việc ra quyết định của toà
án. Theo quan điểm của chúng tôi, việc
BLTTDS quy định về thực hiện biện pháp
bảo đảm của người đưa ra yêu cầu toà án
áp dụng BPKCTT cũng có mặt tích cực
(như hạn chế tình trạng lạm quyền của
người yêu cầu, buộc họ phải thận trọng khi

đưa ra yêu cầu tại toà án, nếu đưa ra yêu
cầu áp dụng BPKCTT không đúng thì đã
có sẵn tiền để bồi thường cho người bị
thiệt hại ) nhưng pháp luật tố tụng dân sự
cũng cần phải có quy định về những trường
hợp ngoại lệ như người đưa ra yêu cầu toà
án áp dụng BPKCTT mà có khó khăn thì
có thể miễn hoặc giảm việc thực hiện biện
pháp bảo đảm cho họ.
- Về mức tạm ứng khi thực hiện nghĩa vụ
bảo đảm: Hiện vấn đề này đang có nhiều ý
kiến khác nhau. Theo quy định tại Điều 120
BLTTDS và mục 8.2 Nghị quyết số
02/2005/NQ- HĐTP, mức tài sản bảo đảm
của người yêu cầu toà án áp dụng BPKCTT
sẽ được xác định là “phải tương đương với
nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải
thực hiện”. Điều này có nghĩa là toà án có
thẩm quyền phải có trách nhiệm dự kiến,
“tạm tính thiệt hại thực tế” đã xảy cho người
bị áp dụng BPKCTT không đúng. Trong
thực tế, việc dự kiến, tạm tính này là rất khó,
bởi thiệt hại do việc áp dụng BPKCTT chưa
hề xảy ra, vì thế không thể dự tính hết tất cả
thiệt hại có thể. Ngay cả hướng dẫn trong
Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP về việc:
“Thẩm phán hoặc hội đồng xét xử đề nghị
người yêu cầu áp dụng BPKCTT dự tính
hoặc hỏi ý kiến của người bị áp dụng
BPKCTT, đề nghị họ dự tính ” theo chúng

tôi là không thực tế bởi rất ít khi một người
vừa yêu cầu toà án áp dụng BPKCTT để bảo


nghiªn cøu - trao ®æi
30 T¹p chÝ luËt häc sè 1/
2009
vệ quyền và lợi ích của mình vừa dự tính
được số tiền bồi thường thiệt hại mà chính
mình lại có thể phải trả. Điều này giống như
việc pháp luật cho người có quyền yêu cầu
áp dụng BPKCTT quyền yêu cầu nhưng lại
khống chế họ bằng các điều kiện thực hiện,
các chế tài làm họ không dám và không thể
thực hiện được quyền mà pháp luật quy
định. Mặt khác, dùng cụm từ “thiệt hại thực
tế có thể xảy ra” như trong Nghị quyết của
Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
số 02/2005/NQ-HĐTP hướng dẫn là chưa
hợp lí bởi lẽ nếu đã là “thiệt hại thực tế” thì
thiệt hại đó đã phải xảy ra rồi, nhìn thấy
được chứ không thể có thiệt hại thực tế chưa
xảy ra, “có thể” xảy ra.
- Về thủ tục thực hiện biện pháp bảo
đảm: Cũng theo hướng dẫn tại Nghị quyết
số 02/2005/NQ-HĐTP, thông thường khoản
tiền hoặc kim khí quý, đá quý, giấy tờ có
giá do người có yêu cầu toà án áp dụng
BPKCTT phải được gửi vào tài khoản
phong tỏa tại ngân hàng nơi có trụ sở của

toà án ra quyết định áp dụng BPKCTT
trong thời hạn do toà án ấn định. Trong
trường hợp nơi có trụ sở của toà án quyết
định áp dụng BPKCTT có nhiều ngân hàng
thì người phải thực hiện biện pháp bảo đảm
được lựa chọn một ngân hàng trong số các
ngân hàng đó và thông báo tên, địa chỉ của
ngân hàng mà mình lựa chọn cho toà án biết
để ra quyết định thực hiện biện pháp bảo
đảm. Nếu người phải thực hiện biện pháp
bảo đảm có tài khoản hoặc có tiền, kim khí
quý, đá quý, giấy tờ có giá gửi tại ngân
hàng nơi có trụ sở của toà án ra quyết định
áp dụng BPKCTT mà họ đề nghị toà án
phong tỏa một phần tài khoản hoặc một
phần tiền, kim khí quý, đá quý, giấy tờ có
giá gửi tại ngân hàng đó tương đương với
nghĩa vụ tài sản của họ thì toà án chấp nhận.
Vậy việc sử dụng dịch vụ này của ngân
hàng thì ai sẽ là người chịu phí? Hiện chưa
có quy định cụ thể nào về vấn đề này. Vì
vậy, trong thời gian tới Toà án nhân dân tối
cao cần hướng dẫn cụ thể nhưng theo chúng
tôi, nếu người phải chịu phí lại là người có
yêu cầu toà án áp dụng BPKCTT thì trên
thực tế sẽ có những trường hợp người có
yêu cầu toà án áp dụng BPKCTT đã khó
khăn lại càng khó khăn hơn (vì trước đó họ
phải lo một khoản tiền để thực hiện biện
pháp bảo đảm) do đó họ khó có cơ hội thực

hiện quyền yêu cầu của mình.
- Quy định về thời hạn thực hiện biện
pháp bảo đảm cũng được các nhà làm luật
chú trọng. Do tính chất của việc yêu cầu toà
án áp dụng BPKCTT là nếu không nhanh
chóng áp dụng biện pháp này thì có thể
quyền, lợi ích của người có yêu cầu sẽ bị ảnh
hưởng nghiêm trọng nên thời hạn thực hiện
biện pháp bảo đảm cũng cần phải quy định
trong khoảng thời gian nhất định. Theo Điều
120 BLTTDS, điểm 9.2 Mục 9 Nghị quyết
số 02/2005/NQ-HĐTP, thời hạn thực hiện
biện pháp bảo đảm được xác định theo
những trường hợp sau:
+ Nếu có yêu cầu áp dụng BPKCTT vào
thời điểm sau khi thụ lí đến trước khi mở
phiên toà, thời hạn thực hiện biện pháp bảo
đảm là hai ngày làm việc kể từ thời điểm
toà án ra quyết định buộc thực hiện biện


nghiªn cøu - trao ®æi
T¹p chÝ luËt häc sè 1/2009 31

pháp bảo đảm. Nếu có lí do chính đáng,
thời hạn này có thể dài hơn nhưng mọi
trường hợp phải được thực hiện trước ngày
mở phiên toà. Nếu tại phiên toà thì việc
thực hiện biện pháp bảo đảm được bắt đầu
từ khi hội đồng xét xử ra quyết định buộc

thực hiện biện pháp bảo đảm đến trước khi
hội đồng xét xử vào phòng nghị án. Về cơ
bản, thời hạn 2 ngày để thực hiện biện pháp
bảo đảm phần nào cũng đã đáp ứng được
tính khẩn cấp của việc áp dụng BPKCTT
nhưng về trường hợp có lí do chính đáng thì
thời hạn này có thể dài hơn mà không
hướng dẫn như thế nào là lí do chính đáng
nên hiện trong thực tế các toà án cũng đang
rất lúng túng khi áp dụng. Theo chúng tôi,
Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao cần phải có hướng dẫn cụ thể hơn nữa
về vấn đề này.
+ Trường hợp tại phiên toà mà hội đồng
xét xử ra quyết định buộc thực hiện biện
pháp bảo đảm thì thời hạn thực hiện biện
pháp bảo đảm được tính từ khi ra quyết định
buộc thực hiện biện pháp bảo đảm nhưng
phải xuất trình chứng cứ đã thực hiện xong
biện pháp bảo đảm trước khi hội đồng xét xử
bước vào phòng nghị án. Đây cũng là quy
định rất khó thực hiện. Chúng ta đều biết
rằng chủ yếu biện pháp bảo đảm được thực
hiện tại ngân hàng chứ không phải ngay tại
toà án nên phải có một khoảng thời gian
hợp lí để người có yêu cầu thực hiện biện
pháp bảo đảm. Sẽ có những phiên toà thời
gian từ khi bắt đầu phiên toà đến khi nghị
án là rất ngắn, không đủ thời gian để thực
hiện nghĩa vụ bảo đảm. Nên chăng trong

trường hợp này, thay vì sau khi ra quyết
định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm,
phiên toà vẫn tiếp tục xét xử thì cần tạm
ngừng để ngay sau khi có căn cứ người có
yêu cầu đã thực hiện xong biện pháp bảo
đảm, phiên toà lại tiếp tục xét xử.
+ Trường hợp rất khẩn cấp (khoản 2
Điều 99 BLTTDS) thì thời hạn thực hiện
biện pháp bảo đảm không được vượt quá 48
giờ kể từ thời điểm nộp đơn yêu cầu và được
toà án chấp nhận. Theo chúng tôi, nếu đã là
rất khẩn cấp thì đáng lẽ toà án phải quyết
định ngay về BPKCTT cần được áp dụng
chứ không thể toà án cần ra quyết định khẩn
cấp mà lại phải chờ cho người yêu cầu thực
hiện xong nghĩa vụ bảo đảm. Nếu cứ cứng
nhắc như vậy, chúng tôi e rằng khi người có
yêu cầu thực hiện xong nghĩa vụ bảo đảm thì
cũng là lúc quá muộn để toà án áp dụng
BPKCTT. Ví dụ, trong thực tế hành vi tẩu
tán tài sản, chuyển tiền trong tài khoản của
một cá nhân có thể được thực hiện rất nhanh
chóng trong một khoảng thời gian vài phút
Chính vì vậy, pháp luật tố tụng dân sự càng
có những quy định phát huy vai trò chủ động
của toà án trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự thì càng tốt. Hiện tại,
các quy định của BLTTDS và Nghị quyết số
02/2005/NQ-HĐTP về BPKCTT còn chưa
thể hiện rõ được điều này. Vai trò chủ động,

tích cực, dám chịu trách nhiệm của toà án
chưa được phát huy, quyết định của toà án
về việc giải quyết yêu cầu áp dụng BPKCTT
còn quá phụ thuộc vào hành vi của những
người tham gia tố tụng dân sự.
Với các quy định của Bộ luật tố tụng dân


nghiªn cøu - trao ®æi
32 T¹p chÝ luËt häc sè 1/
2009
sự về buộc thực hiện biện pháp bảo đảm, chế
định BPKCTT trong tố tụng dân sự đã được
đánh giá là có bước phát triển rất đáng kể.
Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng các quy
định này vẫn bộc lộ nhiều vướng mắc, hạn
chế cần phải có sự sửa đổi, bổ sung cụ thể
hơn. Mặc dù vậy, xét về sự tác động của nó
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của người
bị áp dụng BPKCTT trong tố tụng dân sự,
biện pháp buộc người có yêu cầu toà án áp
dụng BPKCTT phải thực hiện biện pháp bảo
đảm vẫn được xem là phương thức hữu hiệu.
2. Cơ chế xác định trách nhiệm do việc
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
không đúng
Theo Điều 101 BLTTDS, nếu việc áp
dụng BPKCTT không đúng, làm ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích của người bị áp dụng
BPKCTT thì trách nhiệm sẽ thuộc về chính

người có yêu cầu toà án áp dụng BPKCTT
hoặc toà án đã ra quyết định áp dụng
BPKCTT. Quy định này biểu hiện rất rõ tinh
thần bảo vệ quyền và lợi ích của người bị áp
dụng BPKCTT ở chỗ mặc dù người bị áp
dụng BPKCTT bị áp dụng BPKCTT trái với
ý muốn của họ nhưng nếu việc họ bị áp dụng
BPKCTT không đúng, họ sẽ được bồi
thường. Chủ thể phải bồi thường sẽ được xác
định theo hai trường hợp sau:
- Thứ nhất: Theo khoản 1 Điều 101
BLTTDS, người có yêu cầu áp dụng
BPKCTT không đúng phải bồi thường.
Quy định này dựa trên nguyên tắc quyền
tự định đoạt của các chủ thể trong tố tụng
dân sự. Một người có quyền yêu cầu toà án
áp dụng BPKCTT thì họ phải chịu trách
nhiệm về việc thực hiện quyền yêu cầu đó.
Nếu việc thực hiện yêu cầu đó là không
đúng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của
người khác thì họ phải bồi thường. Theo
quan điểm của chúng tôi, việc buộc người có
yêu cầu toà án áp dụng BPKCTT phải chịu
trách nhiệm như khoản 1 Điều 101 BLTTDS
là đúng, có như vậy mới buộc họ phải thận
trọng trong việc đưa ra yêu cầu. Tuy nhiên,
chúng ta cũng cần phải bàn về trách nhiệm
của toà án trong trường hợp này. Như đã
phân tích ở trên, người có yêu cầu chỉ có
quyền đưa ra yêu cầu, toà án mới là người có

quyền ra quyết định áp dụng hay không áp
dụng BPKCTT. Chính vì thế mà toà án cũng
phải là một chủ thể phải chịu trách nhiệm về
quyết định của mình, nếu chỉ buộc người có
yêu cầu phải chịu trách nhiệm thì vô hình
trung, hoạt động của toà án sẽ càng ngày
càng thiếu trách nhiệm: Cứ có yêu cầu thì
toà ra quyết định áp dụng BPKCTT, còn
việc ra quyết định đúng hay sai, có căn cứ
hay không, thiệt hại xảy ra như thế nào đã
có đương sự chịu. Theo chúng tôi, nếu việc
ra quyết định áp dụng BPKCTT dựa trên
yêu cầu của người có quyền yêu cầu mà
không đúng, gây thiệt hại cho người bị áp
dụng hoặc người thứ ba thì cả người yêu
cầu và cả toà án đã ra quyết định cùng phải
chịu trách nhiệm bồi thường. Quy định theo
hướng này sẽ có tác dụng khiến người có
quyền yêu cầu không dám lạm dụng quyền
của mình đồng thời toà án cũng phải thận
trọng, dám chịu trách nhiệm trong việc ra
quyết định áp dụng BPKCTT.
- Thứ hai: Theo khoản 2 Điều 101


nghiªn cøu - trao ®æi
T¹p chÝ luËt häc sè 1/2009 33

BLTTDS, toà án đã ra quyết định áp dụng
BPKCTT không đúng phải bồi thường.

Mọi chủ thể đều bình đẳng trước pháp
luật. Vì vậy, nếu đương sự nào yêu cầu toà
án áp dụng BPKCTT không đúng, gây thiệt
hại phải bồi thường thì tương tự toà án nào
ra quyết định áp dụng BPKCTT không đúng,
gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT
hoặc cho người thứ ba thì toà án đó phải bồi
thường. Căn cứ cụ thể để xác định trách
nhiệm bồi thường của toà án được liệt kê
theo ba trường hợp sau:
+ Toà án tự mình áp dụng BPKCTT.
+ Toà án áp dụng BPKCTT khác với
BPKCTT mà cá nhân, cơ quan, tổ chức có
yêu cầu.
+ Toà án áp dụng BPKCTT vượt quá yêu
cầu áp dụng BPKCTT của cá nhân, cơ quan,
tổ chức có yêu cầu.
Đọc qua điều khoản này, chúng ta có
cảm giác các căn cứ để xác định trách nhiệm
bồi thường của toà án là tương đối đầy đủ,
cụ thể. Tuy nhiên, trên thực tế nhu cầu áp
dụng các BPKCTT mà toà án có quyền tự
mình áp dụng, không cần dựa vào yêu cầu
của cá nhân, cơ quan, tổ chức là rất thấp. Vì
thế rất hiếm khi toà án phải chịu trách nhiệm
về trường hợp này. Còn với hai trường hợp
sau thì cũng rất ít khi toà án lại để mình rơi
vào tình cảnh đó vì tốt nhất là người có
quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT nào, áp
dụng đến mức nào thì toà sẽ ra quyết định áp

dụng BPKCTT đó, đến mức đó. Có như vậy,
toà án sẽ luôn ở thế an toàn, không có rủi ro,
không phải lo về việc mình phải bồi thường.
Thực tế áp dụng BPKCTT cho thấy có một
căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường mà
các toà án hay mắc phải, là biểu hiện của
“bệnh cửa quan”, đó là việc chậm ra hoặc
không ra quyết định áp dụng BPKCTT để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các
chủ thể thì BLTTDS lại không đề cập. Theo
chúng tôi, bỏ sót căn cứ này sẽ làm cho toàn
bộ khoản 2 Điều 101 BLTTDS không phát
huy được tác dụng, hay nói cách khác khoản
2 Điều 101 chỉ là quy định mang tính hình
thức. Theo chúng tôi, trong thời gian tới,
quy định về trách nhiệm bồi thường của toà
án khi ra quyết định áp dụng BPKCTT
không đúng cần bổ sung căn cứ thứ tư: “Toà
án đã không ra hoặc chậm ra quyết định áp
dụng BPKCTT”.
3. Về quyền khiếu nại của người bị áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Cho đương sự quyền được khiếu nại về
quyết định áp dụng BPKCTT chính là
phương thức thứ ba để bảo vệ quyền và lợi
ích của người bị áp dụng BPKCTT. Theo
Điều 124 BLTTDS, đương sự bị áp dụng
BPKCTT có quyền khiếu nại về quyết định
áp dụng, thay đổi, hủy bỏ hoặc không áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT của toà.

Thời hạn khiếu nại là 3 ngày làm việc kể từ
ngày nhận được quyết định. Chánh án toà án
đã ra quyết định áp dụng BPKCTT sẽ là
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
của đương sự bị áp dụng BPKCTT nếu khiếu
nại đó xảy ra vào thời điểm trước phiên toà
xét xử. Tại phiên toà mà đương sự bị áp
dụng BPKCTT có khiếu nại về quyết định áp
dụng BPKCTT thì hội đồng xét xử không
chấp nhận, giải thích cho họ biết họ có


nghiªn cøu - trao ®æi
34 T¹p chÝ luËt häc sè 1/
2009
quyền yêu cầu hội đồng xét xử thay đổi, áp
dụng bổ sung BPKCTT hoặc hủy bỏ
BPKCTT. Nếu đương sự có khiếu nại về
quyết định của hội đồng xét xử về việc ra
quyết định, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ
BPKCTT thì hội đồng xét xử sẽ xem xét,
thảo luận và thông qua tại phòng nghị án.
Theo chúng tôi, việc BLTTDS quy định
đương sự bị áp dụng BPKCTT có quyền
khiếu nại là quy định đảm bảo tính khách
quan trong hoạt động giải quyết vụ án của
toà án nhưng nếu đương sự có khiếu nại về
quyết định của hội đồng xét xử về việc ra
quyết định, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ
BPKCTT thì hội đồng xét xử sẽ xem xét,

thảo luận và thông qua tại phòng nghị án như
hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2005/NQ-
HĐTP là chưa hoàn toàn phù hợp bởi đương
sự khiếu nại về quyết định của hội đồng
nhưng chính hội đồng lại là người xem xét,
giải quyết khiếu nại.
Tóm lại, bảo vệ quyền, lợi ích của người
bị áp dụng BPKCTT trong tố tụng dân sự là
rất cần thiết. Các quy định của pháp luật tố
tụng dân sự về bảo vệ quyền, lợi ích của
người bị áp dụng BPKCTT chính là cơ sở
pháp lí hữu hiệu để các đương sự tự tin hơn,
bình đẳng hơn khi tham gia tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, theo chúng tôi thực tế áp dụng
các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
hiện nay về vấn đề này bộc lộ những hạn
chế, vướng mắc cần được khắc phục. Với
mong muốn đóng góp ý kiến nhằm hoàn
thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam,
chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến
trao đổi, tranh luận của các độc giả./.
QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG
VỀ ĐỔI MỚI (tiếp theo trang 13)
toà phúc thẩm và toà thượng thẩm để Toà án
nhân dân tối cao tập trung vào xét xử giám
đốc thẩm như hiến pháp đã quy định.
Tuy nhiên, khi thành lập toà án khu vực,
Nghị quyết số 49/NQ-TW cũng lưu ý mấy
điểm: Một là toà án khu vực không theo địa
hạt hành chính cần có cơ chế bảo đảm sự

lãnh đạo của cấp uỷ Đảng; hai là việc đi lại
của nhân dân đến trụ sở toà án quá xa,
không thuận tiện. Vì vậy, cần thành lập một
số tổ chức hoà giải ở từng xã, giải quyết các
tranh chấp bằng hoà giải kết hợp với tài
phán, giảm bớt khối lượng công việc gửi lên
toà án khu vực.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng (4/2006) đã tiếp tục nêu lên một cách
khái quát, cô đọng tinh thần cải cách tư
pháp của Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ
Chính trị. Đại hội khẳng định: “Đẩy mạnh
việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn
chương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét
xử làm trọng tâm”.
(10)

Tóm lại, nhận thức của Đảng về đổi mới
tổ chức toà án là quá trình từng bước hình
thành và hoàn thiện các chủ trương của
Đảng nhằm xây dựng được mô hình tổ chức
toà án hiện đại, xét xử đúng người, đúng tội,
tránh oan sai, phù hợp với thực tiễn đất
nước, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư
pháp hiện nay./.

(10).Xem: Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội,
2006, tr. 127.


×