Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

So sánh chế định giao kết hợp động theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 104 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT








NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG








SO SÁNH CHẾ ĐỊNH GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT HOA KỲ











LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Hà Nội – 2009



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







NGUYỄN THỊ MAI HƯƠNG




SO SÁNH CHẾ ĐỊNH GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT HOA KỲ






Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ HUY CƯƠNG

Hà nội – 2009



1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!



NGƢỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Thị Mai Hƣơng















2
MỤC LỤC

Trang
LỜI CAM ĐOAN 1
MỤC LỤC 2
PHẦN MỞ ĐẦU 5
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT HOA KỲ 9
1.1. Khái niệm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ. 9

1.1.1. Khái niệm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam 9
1.1.2. Khái niệm hợp đồng theo pháp luật Hoa Kỳ. 11
1.2. Khái niệm giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ.13
1.3. Pháp luật điều tiết giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật
Hoa Kỳ. 14
1.3.1. So sánh chung về pháp luật điều tiết giao kết hợp đồng theo pháp luật
Việt Nam và theo pháp luật Hoa Kỳ. 14
1.3.2. Pháp luật điều tiết giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam. 15
1.3.3. Pháp luật điều tiết giao kết hợp đồng theo pháp luật Hoa Kỳ. 17
Chƣơng 2: THOẢ HUẬN VÀ CÁC THÀNH TỐ CỦA THOẢ
THUẬN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT
HOA KỲ 20
2.1. Khái niệm về sự thoả thuận theo pháp luật Việt Nam và pháp luật
Hoa Kỳ. 20
2.2. Các thành tố của sự thoả thuận. 21
2.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng. 21
2.2.2 Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. 34
Chƣơng 3: HÌNH THỨC VÀ NỘI DUNG CỦA HỢP ĐỒNG THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT HOA KỲ. 47

3
3.1. Hình thức hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ. 47
3.1.1. Những vẫn đề chung về hình thức hợp đồng. 47
3.1.2. Sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ về hình
thức hợp đồng. 48
3.2. Nội dung của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ. 53
Chƣơng 4 : ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG. 60
4.1. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam 60
4.1.1. Điều kiện về chủ thể. 60
4.1.2. Điều kiện về mục đích và nội dung của hợp đồng. 62

4.1.3. Điều kiện về sự tự nguyện của người tham gia hợp đồng. 64
4.1.4. Điều kiện về hình thức. 66
4.2. Điều kiện có hiệu lực theo pháp luật Hoa Kỳ. 67
4.2.1. Thoả thuận giữa các bên trong quan hệ hợp đồng (Đề nghị và chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng) 68
4.2.2. Năng lực chủ thể giao kết hợp đồng. 68
4.2.3. Thống nhất ý chí giữa các bên. 71
4.2.4. Nghĩa vụ đối ứng (consideration). 73
4.2.6. Điều kiện về hình thức. 78
4.3. Nhận xét điều kiện hiệu lực của hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp
luật Hoa Kỳ. 79
4.3.1. Quy định về điều kiện chủ thể. 80
4.3.2. Điều kiện về nội dung và mục đích của hợp đồng 81
4.3.3. Điều kiện về sự tự nguyện theo pháp luật Việt Nam và sự thống nhất ý
chí theo pháp luật Hoa Kỳ. 81
4.3.4. Điều kiện về hình thức. 82
4.3.5. Điều kiện về nghĩa vụ đối ứng, đề nghị và chấp nhận đề nghị theo pháp
luật Hoa Kỳ. 84

4
Chƣơng 5: NHỮNG KIẾN NGHỊ RÚT RA TỪ NGHIÊN CỨU SO
SÁNH CHẾ ĐỊNH GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT HOA KỲ. 88
5.1. Kiến nghị về khái niệm “hợp đồng dân sự” trong Bộ luật dân sự năm 2005.88
5.2. Kiến nghị về hình thức của hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự Việt
Nam và hiệu lực của hợp đồng dân sự do có vi phạm về hình thức. 89
5.3. Kiến nghị về quy định thời điểm giao kết hợp đồng dân sự và hiệu lực của
hợp đồng dân sự. 92
5.4. Kiến nghị về rút, huỷ bỏ đề nghị giao kết hợp đồng của bên đề nghị. 94
5.5. Kiến nghị về các trường hợp chấm dứt hiệu lực của đề nghị giao kết hợp

đồng. 95
5.6. Kiến nghị quy định về sửa đổi đề nghị do bên được đề nghị đề xuất. 95
5.7. Kiến nghị về độ tuổi tham gia giao kết hợp đồng trong một số lĩnh vực nhằm
duy trì trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích công cộng. 96
KẾT LUẬN 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101



5
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.
Trong nền kinh tế thị trường, xu hướng hội nhập mọi mặt kinh tế - xã
hội đã làm phát triển các giao dịch với quy mô ngày càng mở rộng và tính
chất phức tạp, đa dạng. Các giao dịch thể hiện dưới hình thức hợp đồng ngày
càng phố biến không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn mở rộng ra khỏi khu
vực và thế giới. Pháp luật Hợp đồng Việt Nam đã và đang được hoàn thiện để
phù hợp và đáp ứng với nhu cầu điều chỉnh các giao dịch đó. Sự phát triển
của luật hợp đồng ở Việt Nam đã thể hiện sự cố gắng và nỗ lực của nền lập
pháp Việt Nam trên cơ sở kế thừa những thành tựu đạt được trong lịch sử phát
triển về luật hợp đồng ở Việt Nam cũng như là kết quả tiếp thu những giá trị
tiến bộ của luật hợp đồng một số nước trên thế giới. Chế định hợp đồng là
một chế định trọng tâm và chủ yếu trong hệ thống các chế định của pháp
luật dân sự Việt Nam. Việc xác lập quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong
hợp đồng là cơ sở cho sự điều chỉnh của luật về hợp đồng. Chính vì vậy,
tác giả nhận thấy các quy định về giao kết hợp đồng là cơ sở quan trọng
cho việc hình thành và phát triển các quan hệ hợp đồng. Trong phạm vi
nghiên cứu của chương trình đào tạo cao học, tác giả chọn đề tài “So sánh
chế định giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa

Kỳ” vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, khi bắt đầu được tìm hiểu các quy định về giao kết hợp đồng
trong Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005, tác giả đã thực sự cảm thấy quan
tâm và nghĩ đến việc nghiên cứu đi sâu tìm hiểu các quy định về giao kết hợp
đồng ở Việt Nam.
Thứ hai, sự hiểu biết và kinh nghiệm của tác giả về giao kết hợp đồng ở
Việt Nam chưa vững vàng nhưng trong thực tiễn tác giả thấy hàng ngày, hàng

6
giờ biết bao giao dịch được diễn ra mà cũng chưa thể hình dung hết được tính
phức tạp chúng khi được điều chỉnh theo các quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành.
Thứ ba, việc chọn đề tài “So sánh chế định giao kết hợp đồng theo pháp
luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ” sẽ là cơ hội tốt nhất giúp tác giả nghiên
cứu sâu hơn về chế định giao kết hơp đồng của Việt Nam trên cơ sở đối chiếu,
so sánh với pháp luật Hoa Kỳ về các quy định tương ứng và các quy định
khác biệt. Việc tìm hiểu pháp luật Hoa Kỳ sẽ giúp tác giả hiểu biết sâu sắc
hơn về đặc trưng của hệ thống pháp luật của nước này cũng như pháp luật
thông lệ về hợp đồng. Đặc biệt, tác giả nghĩ rằng sau khi nghiên cứu sẽ mang
lại cho tác giả vốn kiến thức về ngoại ngữ và có thể nói đây cũng chính là một
trong những mục tiêu mà tác giả muốn phấn đấu để có được phương tiện
nghiên cứu và thực hành nghề luật một cách tốt hơn.
2. Tình hình nghiên cứu về so sánh chế định giao kết hợp đồng theo
pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ.
Đề tài nghiên cứu “so sánh chế định giao kết hợp đồng theo pháp luật
Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ” theo tác giả là một đề tài mới nhưng đang là
xu hướng nghiên cứu chung của ngành khoa học pháp lý. Hiện nay, đã có
nhiều công trình nghiên cứu mang tính chất so sánh trên cơ sở lý luận cơ bản
của môn học luật so sánh mới được đưa vào Việt Nam trong những năm gần
đây. Đã có một số công trình nghiên cứu so sánh pháp luật Việt Nam và pháp

luật Hoa Kỳ, trong đó có lĩnh vực hợp đồng và có giá trị khoa học trong
nghiên cứu và phát triển luật học, đầu tiên phải kể đến sách tham khảo “Tìm
hiểu pháp luật Hoa Kỳ trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới” do TS Phạm Duy Nghĩa (2001) cùng một số nhà khoa học khác viết
(NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội). Vấn đề pháp luật hợp đồng theo pháp luật
Hoa Kỳ được nghiên cứu và so sánh với pháp luật Việt Nam, qua đó thấy

7
được đặc trưng cơ bản của giao kết hợp đồng theo pháp luật Hoa Kỳ. Ngoài
ra, một số luận án, bài viết, một số sách và giáo trình khi viết về giao kết hợp
đồng theo pháp luật Việt Nam có so sánh với pháp luật các nước trong đó có
Hoa Kỳ, như luận án tiến sỹ luật học của Nguyễn Vũ Hoàng (2008) với đề tài
“Pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá với thương
nhân nước ngoài” hoặc sách “Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt
Nam” của TS Nguyễn Ngọc Khánh (2007), NXB Tư pháp, Hà Nội…v.v.
Tuy nhiên, với phạm vi so sánh rộng hoặc chỉ dừng lại ở một số quy định
tiêu biểu nên hiện tại chưa có công trình nghiên cứu nào chuyên sâu về so
sánh giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về giao kết hợp đồng. Đồng thời, tác giả
thấy một số phân tích so sánh về giao kết hợp đồng chưa rõ ràng hoặc còn
chung chung. Như vậy, để có cái nhìn tổng quan và chuyên sâu hơn về
chế định giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam với pháp luật Hoa
Kỳ, tác giả hy vọng rằng bằng công sức đóng góp của mình sẽ giải quyết
được những vấn đề còn bỏ ngỏ trên.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Như tác giả đã trình bày, mục tiêu để có cái nhìn tổng quan và cụ thể
hơn về chế định giao kết hợp đồng của pháp luật Việt Nam trên cơ sở nghiên
cứu so sánh pháp luật của Hoa Kỳ, nhận diện những mặt tiến bộ và phù hợp
của pháp luật Việt Nam để tiếp tục duy trì và phát huy, đồng thời kiến nghị,
đề xuất các điểm mới tiến bộ theo pháp luật Hoa Kỳ và vận dụng một cách
phù hợp trong điều kiện pháp luật Việt Nam hiện nay.

Với mục tiêu như trên, tác giả tập trung nghiên cứu về các vấn đề liên
quan đến giao kết hợp đồng, các quy định của hai nước về các điều kiện và
trình tự giao kết hợp đồng và các nội dung khác có liên quan chặt chẽ đến quá
trình giao kết hợp đồng như hình thức và nội dung của hợp đồng, điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng. Trên cơ sở đánh giá những điểm khác và tương

8
đồng giữa pháp luật hai nước về chế định này, nhận xét và đưa ra quan
điểm bình luận về tính tiến bộ và khả thi của mỗi quy định khác nhau, tác
giả kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng. Với
mục đích và phạm vi nghiên cứu trên, tác giả quyết tâm đi sâu nghiên cứu
bằng hết khả năng của mình. Tuy nhiên, vì lần đầu tiên tác giả tiếp cận
nghiên cứu theo một hướng mới còn khó khăn, trong khi điều kiện về thời
gian và trình độ còn hạn chế, nên luận văn sẽ không tránh khỏi những
thiếu sót, bất cập và hạn chế. Chính vì vậy, tác giả rất mong nhận được
mọi ý kiến phê bình và đóng góp của các chuyên gia.
Trân trọng cảm ơn!


















9
Chƣơng 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT HOA KỲ

1.1. Khái niệm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật
Hoa Kỳ.
Ngay từ khoảng thế kỷ thứ V – IV trước công nguyên, thuật ngữ hợp
đồng (contractus) đã xuất hiện ở La Mã. Dần dần, qua quá trình phát triển
cùng các giao dịch thương mại, dân sự, thuật ngữ hợp đồng được thừa nhận
rộng rãi tại nhiều quốc gia. Theo đó, khái niệm về hợp đồng cũng có nhiều
quan điểm khác nhau. Ngày nay, dưới góc độ pháp luật, khái niệm hợp đồng
được đưa ra một cách đầy đủ hơn thể hiện đúng bản chất của nó. Tuy nhiên,
các thuật ngữ và sự kết hợp giữa chúng để đưa ra một khái niệm hợp đồng
theo pháp luật mỗi quốc gia có thể khác nhau mặc dù về bản chất có nhiều
điểm tương đồng. Dưới đây là quan niệm về hợp đồng theo pháp luật Việt
Nam và pháp luật Hoa Kỳ.
1.1.1. Khái niệm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
Pháp luật hợp đồng Việt Nam trải qua các thời kỳ hình thành và phát
triển với các quan điểm và khái niệm khác nhau về hợp đồng. Pháp luật thời
kỳ Pháp thuộc qua các Bộ dân luật Nam Kỳ, Bắc Kỳ và Trung Kỳ hồi thế kỷ
thứ XIX, đầu thế kỷ XX đã xuất hiện khái niệm hợp đồng nhưng được diễn
đạt bằng tên gọi là hiệp ước và khế ước [15, tr. 28, 29]. Những năm từ 1945
đến năm 1959, quy định của ba bộ dân dân luật phong kiến nửa thực dân vẫn
được thừa nhận áp dụng theo Sắc Lệnh số 97/SL ngày 25/5/1950 của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Chỉ đến năm 1959 với Chỉ thị số 772-CT/TATC ngày
10/7/1959 về việc đình chỉ áp dụng luật lệ của đế quốc và phong kiến thì khái

niệm về khế ước được thay thế bằng khái niệm hợp đồng. Từ thời điểm này
cho đến trước khi có Bộ luật dân sự năm 1995, trong hệ thống pháp luật về

10
hợp đồng ở Việt Nam xuất hiện hai khái niệm: “hợp đồng kinh tế” và “hợp
đồng dân sự” thay cho khái niệm hợp đồng khái quát như thời kỳ trước. Sự
phân biệt giữa “hợp đồng kinh tế” và “hợp đồng dân sự” là sự phân biệt giữa
công cụ giao dịch trong xây dựng kế hoạch hoá nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
với công cụ giao dịch trong sinh hoạt, tiêu dùng. Sự phân biệt này xuất phát từ
yêu cầu thực hiện các chỉ tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế của Nhà nước trong
thời kỳ đổi mới xây dựng kinh tế đất nước. Chỉ đến khi nhận thức được yêu
cầu của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự thay đổi quan điểm nhận
thức về hợp đồng thì tại Bộ luật dân sự năm 1995, khái niệm hợp đồng dân sự
được quy định tại Điều 395 theo đó: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa
các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sư”.
Khái niệm này đã trở lên gần gũi với tư tưởng về hợp đồng của nền văn hoá
pháp lý Rômanh – Giécmanh [7, tr 37]. Tuy nhiên, bên cạnh quy định về hợp
đồng dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự thì vẫn tồn tại khái niệm “hợp
đồng kinh tế” theo Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989. Do vậy, vẫn còn sự
phân biệt giữa “hợp đồng dân sự” và “hợp đồng kinh tế”, nhưng ranh giới
giữa chúng khó xác định, đặc biệt với sự ra đời của Bộ luật Thương mại năm
1997 lại càng gây ra nhiều bất cập về xác định các quan hệ hợp đồng.
Với sự ra đời của Bộ luật dân sự năm 2005, khái niệm về hợp đồng
được quy định tại Điều 388 về thuật ngữ không khác quy định về khái niệm
hợp đồng theo Điều 395, Bộ luật dân sự năm 1995. Nhưng, điểm mới căn bản
là khái niệm hợp đồng dân sự mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. Pháp lệnh
Hợp đồng kinh tế không còn hiệu lực kể từ thời điểm có hiệu lực của Bộ luật
dân sự năm 2005, do đó, không còn tồn tại khái niệm về hợp đồng kinh tế.
Thuật ngữ “dân sự” được nhận thức không chỉ là các quan hệ mang tính sinh
hoạt và tiêu dùng mà còn bao quát cả các quan hệ kinh doanh, thương mại và

lao động. Do đó, khái niệm “hợp đồng dân sự” bao quát tất cả các loại hợp
đồng trong lĩnh vực đời sống sinh hoạt, kinh doanh, thương mại và lao

11
động.Vì vậy, khi nói đến hợp đồng nói chung, không gì khác hơn là nói đến
hợp đồng dân sự. Và khi nói đến loại hợp đồng cụ thể từ phạm vi một lĩnh
vực như sinh hoạt, tiêu dùng, thương mại, kinh doanh đến phạm vi hẹp hơn
nữa như hợp đồng cho thuê, hợp đồng gia công, hợp đồng mua bán…v.v. tất
nhiên sẽ dựa trên nền tảng là hợp đồng dân sự.
Đến đây, một lần nữa khái niệm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
khẳng định xu hướng gần với khái niệm hợp đồng theo hệ thống dân luật
(civil law) có nguồn gốc từ hệ tư tưởng pháp lý Rô manh – Giéc manh nhưng
nó đã thể hiện đầy đủ hơn bản chất của hợp đồng, đó là sự thoả thuận giữa các
bên mà sự thoả thuận đó làm phát sinh quan hệ giữa các bên trong hợp đồng.
1.1.2. Khái niệm hợp đồng theo pháp luật Hoa Kỳ.
Pháp luật của Hoa Kỳ chưa bao giờ có sự tách biệt giữa cái gọi là “hợp
đồng kinh tế” hay “ hợp đồng dân sự” như từng diễn ra ở Việt Nam. Luật hợp
đồng của Hoa Kỳ được tiếp nhận từ luật hợp đồng của nước Anh trong dòng
chảy hệ thống thông luật (Commom law) được du nhập từ nước Anh sang
Hoa Kỳ nên mang những đặc điểm của pháp luật hợp đồng theo hệ thống
thông lệ. Cái gốc hình thành hợp đồng xuất phát từ nhu cầu trao đổi hàng hoá
đơn giản giữa các bên. Nhưng sự trao đổi đơn giản hàng – hàng không có sự
hứa hẹn nghĩa vụ gì nên chưa thể coi là hợp đồng. Chỉ đến khi có sự trao đổi
mà ở đó đòi hỏi sự tín nhiệm giữa các bên trong các giao dịch liên quan đến
tiền tệ, các giao dịch không chỉ là hàng hoá mà còn là dịch vụ trong điều kiện
hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường.
Thuật ngữ hợp đồng (contract) được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau
theo pháp luật Hoa Kỳ. Đôi khi, nó được sử dụng với nghĩa thông dụng chỉ
đơn giản ám chỉ tới một văn bản chứa đựng những điều khoản mà ở đó các
bên chủ thể đã thoả thuận với nhau, nhưng thông thường thuật ngữ hợp đồng

được sử dụng nhiều hơn với ý nghĩa là để nói tới một hay nhiều lời hứa mà

12
pháp luật quy định có hiệu lực hoặc thừa nhận theo một vài cách khác nhau
[19, p 1]. Một định nghĩa đầy đủ hơn về hợp đồng theo đó, hợp đồng là một
hoặt nhiều lời hứa mà việc thực hiện những lời hứa đó luật pháp quy định
thừa nhận như là những nghĩa vụ, nếu vi phạm thì pháp luật sẽ có những chế
tài nhất định [24, §1]
Theo Bộ luật thống nhất thương mại Hoa Kỳ (Uniform Commercial
Code hay còn gọi là UCC) điều chỉnh cụ thể về các hợp đồng mua bán hàng
hoá (bao gồm cả các dịch vụ) định nghĩa rằng: Hợp đồng là khối nghĩa vụ
pháp lý phát sinh từ sự thoả thuận của các bên theo quy định của luật này và
những quy định khác có liên quan [23, §1-201(11)].
Qua các định nghĩa trên cho thấy bản chất của hợp đồng là sự thoả
thuận hay lời hứa có hiệu lực bắt buộc. Sự thoả thuận hay lời hứa có thể làm
hoặc không làm một hoặc một số hành vi nhất định. Tuy nhiên, không phải tất
cả các lời hứa và sự thoả thuận đều là hợp đồng. Lời hứa hay sự thoả thuận là
hợp đồng chỉ khi pháp luật chấp nhận có hiệu lực.Vì vậy, toà án có thể không
thừa nhận sự tồn tại của một hợp đồng vì lời hứa của một bên đưa ra đã không
được bên kia chấp nhận. Theo quan điểm pháp luật Hoa Kỳ, Hợp đồng cần
sáu yếu tố bao gồm: đề nghị; chấp nhận đề nghị; sự đồng ý giữa các bên; năng
lực chủ thể; nghĩa vụ đối ứng (consideration); tính hợp pháp.
Như vậy, về bản chất, khái niệm hợp đồng theo pháp luật Hoa Kỳ về cơ
bản không khác so với khái niệm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam khi thừa
nhận sự thoả thuận của các bên trong hợp đồng và quy định chỉ khi những thoả
thuận đó có hiệu lực bắt buộc thì mới coi là hợp đồng. Nhưng về thuật ngữ thì
pháp luật Việt Nam có dùng cụm từ “hợp đồng dân sự” để nói tới hợp đồng nói
chung, còn pháp luật Hoa Kỳ cũng như nhiều nước khác trên thế giới dùng thuật
ngữ “hợp đồng” (contract) với ý nghĩa là hợp đồng nói chung.


13
Điểm khác biệt là quan điểm hợp đồng của Hoa Kỳ mang đặc điểm
chung của hệ thống luật thông lệ, trong khi quan điểm hợp đồng của luật Việt
Nam mang đặc điểm của hệ thống dân luật, nên trong một số trường hợp, theo
pháp luật nước này là hợp đồng mà pháp luật nước kia không được coi là hợp
đồng. Sự phân biệt này được nêu rõ ở những chương sau của luận văn này.
1.2. Khái niệm giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp
luật Hoa Kỳ.
1.2.1. Giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam chưa có một khái
niệm chính thức nào mà chỉ được nói tới như một giai đoạn của hợp đồng mà
ở đó pháp luật quy định những điều kiện cần phải có để hình thành hợp đồng.
Có thể hiểu giao kết hợp đồng là giai đoạn thiết lập mối liên hệ pháp lý giữa
các chủ thể trong quan hệ trao đổi [8, tr. 198]. Các quy định của pháp luật về
giao kết hợp đồng nhằm đảm bảo tính phù hợp và an toàn pháp lý cho các bên
tham gia giao kết, hướng dẫn xử sự của các chủ thể trong quá trình giao kết và
thiết lập quan hệ hợp đồng hợp pháp.
Giao kết hợp đồng cũng là quá trình tạo ra một hợp đồng mà ở đó có sự
thể hiện ý chí của các chủ thể trong thoả thuận. Bắt đầu quá trình giao kết là
đề nghị giao kết và kết thúc là chấp nhận đề nghị giao kết. Quá trình này phải
đảm bảo đầy đủ những yếu tố về hình thức và nội dung hợp đồng cũng như
những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thì mới thực sự hình thành được
một hợp đồng.
Giao kết hợp đồng gồm bốn đặc trưng: Là quá trình tuyên bố ý chí của
các chủ thể trong giao dịch; Chủ thể đầy đủ năng lực để giao kết hợp đồng;
Thống nhất ý chí của các bên về nội dung cần trao đổi và giao kết hợp đồng
được xác lập dưới hình thức nhất định.
1.2.2. Theo quan niệm truyền thống pháp luật thông lệ cũng như pháp
luật Hoa Kỳ, vấn đề giao kết hợp đồng (contract formation) liên quan đến các

14

quy định về nghĩa vụ đối ứng (consideration), đề nghị giao kết và chấp nhận
đề nghị giao kết hợp đồng. Giao kết hợp đồng được bắt đầu từ thời điểm bên
đề nghị đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng và kết thúc khi bên được đề nghị trả
lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Các vấn đề pháp luật quy định liên
quan đến giao kết hợp đồng như hình thức, nội dung của hợp đồng, điều kiện
hình thành hợp đồng cũng được thể hiện trong giai đoạn này.
Như vậy, giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và giao kết hợp
đồng theo pháp luật Hoa Kỳ bao gồm tập hợp các quy định pháp luật điều
chỉnh quá trình thiết lập quan hệ hợp đồng giữa các bên chủ thể, là quá trình
các bên thoả thuận với nhau để xác lập quyền và nghĩa vụ của mỗi bên.
1.3. Pháp luật điều tiết giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
và pháp luật Hoa Kỳ.
1.3.1. So sánh chung về pháp luật điều tiết giao kết hợp đồng theo
pháp luật Việt Nam và theo pháp luật Hoa Kỳ.
Sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam về luật hợp đồng mang tính hệ
thống và thể hiện mối liên hệ giữa luật chung - Bộ luật dân sự và luật chuyên
ngành - các luật và nghị định có liên quan. Theo đó, bộ luật dân sự với vai trò
là luật gốc quy định những nguyên tắc chung và cơ bản nhất về hợp đồng.
Luật chuyên ngành cụ thể hoá và được phép quy định khác với bộ luật dân sự
để phù hợp với tính đặc thù của quan hệ giao dịch trong từng lĩnh vực cụ thể.
Nguồn án lệ không được thừa nhận là nguồn pháp luật chính thức trong khoa
học pháp lý Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế công tác xét xử, việc toà án sử
dụng án lệ không phải là hiếm.
Với pháp luật Hoa Kỳ, sự điều chỉnh của nó thể hiện mối quan hệ giữa
pháp luật liên bang và bang. Tuy nhiên, không giống như pháp luật Việt Nam
là hệ thống pháp luật thực định thì nguồn của pháp luật Hoa Kỳ chủ yếu là án
lệ. Và cái mà người ta gọi là bộ luật ở Hoa Kỳ không giống như như Bộ luật

15
hay luật ở Việt Nam, có thể so sánh giữa Bộ luật thương mại thống nhất Hoa

Kỳ và Bộ luật dân sự Việt Nam cho thấy sự khác biệt này. Tuy nhiên, pháp
luật Hoa Kỳ rất phong phú và đa dạng, vì bên cạnh tuyển tập những án lệ, còn
có những văn bản thành văn do Quốc hội Mỹ ban hành, thêm vào đó, những
án lệ tỏ ra lạc hậu, không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội
của Mỹ cũng như trong giao dịch quốc tế đã được điều chỉnh cho phù hợp.
Nhìn chung, pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt
Nam và pháp luật Hoa Kỳ mang tính linh hoạt và phong phú đa dạng nhưng
thể hiện đặc trưng riêng theo pháp luật mỗi nước. Để thấy được sự so sánh
tổng quát như trên, dưới đây là phần trình bày các quy định của pháp luật Hai
nước về giao kết hợp đồng.
1.3.2. Pháp luật điều tiết giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam.
Pháp luật điều chỉnh hợp đồng nói chung, giao kết hợp đồng nói riêng
theo pháp luật Việt Nam được quy định khá rõ ràng và cụ thể bằng các văn
bản quy phạm pháp luật. Qua các thời kỳ phát triển, luật hợp đồng của Việt
Nam hiện hành đã đạt được những thành tựu quan trọng và đóng vai trò trọng
tâm trong pháp luật dân sự Việt Nam. Dưới đây là sự điều chỉnh của các văn
bản pháp luật liên quan đến giao kết hợp đồng.
1.3.1.1. Bộ luật dân sự năm 2005.
Bộ luật dân sự năm 2005 được thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005
điều chỉnh các quan hệ dân sự, trong đó nổi bật và trọng tâm là chế định về
hợp đồng. Đóng vai trò quan trọng trong chế định hợp đồng là phần các quy
định về giao kết hợp đồng gồm 26 điều (từ Điều 388 đến Điều 411), mở đầu
cho các quy định về hợp đồng dân sự. Bộ luật dân sự điều chỉnh giao kết hợp
đồng qua việc quy định các nguyên tắc cơ bản của giao kết hợp đồng, những
nội dung liên quan đến đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng, hình thức hợp đồng dân sự, nội dung hợp đồng dân sự, vấn đề hiệu lực

16
của hợp đồng dân sự. Đó là các quy định này mang tính điều chỉnh chung cho
các quan hệ hợp đồng trong giai đoạn giao kết. Ngoài ra, Bộ luật còn có quy

định một số loại hợp đồng dân sự thông dụng làm cơ sở điều chỉnh pháp lý
các quan hệ giao kết hợp đồng cho từng loại hợp đồng như hợp đồng mua bán
tài sản, hợp đồng trao đổi tài sản, hợp đồng vay tài sản, hợp đồng thuê tài sản,
hợp đồng mượn tài sản, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng vận chuyển, hợp đồng
gia công, hợp đồng gửi giữ tài sản, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng uỷ quyền,
hứa thưởng và thi có giải. Tuy là những quy định cụ thể về một số loại hợp
đồng thông dụng nhưng với vai trò của Bộ luật dân sự là luật gốc nên ngoài
các quy định chung đó, tuỳ từng lĩnh vực và trường hợp cụ thể mà có sự áp
dụng kết hợp với các luật chuyên ngành khác.
1.3.1.2. Các luật chuyên ngành.
Các luật chuyên ngành quy định việc giao kết hợp đồng trong từng lĩnh
vực cụ thể dựa trên cơ sở luật gốc là Bộ luật dân sự. Ngày càng nhiều văn bản
luật chuyên ngành trong mọi lĩnh vực cụ thể được ban hành thể hiện sự phong
phú đa dạng của đời sống kinh tế - xã hội. Mỗi lĩnh vực tương ứng với luật
điều chỉnh riêng, có thể kể đến như Luật thương mại, một văn bản quan trọng
liên quan đến chế định hợp đồng bên cạnh Bộ luật dân sự điều chỉnh quan hệ
thương mại giữa các thương nhân. Ngoài ra, quá trình giao kết hợp đồng còn
có thể chịu sự điều chỉnh của các luật chuyên ngành khác có liên quan đến
lĩnh vực giao kết hợp đồng trong từng trường hợp cụ thể như Luật đầu tư năm
2005; Luật đất đai năm 2003; Luật doanh nghiệp năm 2005; Luật giao dịch
điện tử năm 2005; Luật kinh doanh bảo hiểm 2000; Luật xây dựng; Luật nhà
ở; Luật giao dịch bảo đảm; Luật chứng khoán; Luật đấu thầu…v.v. và toàn bộ
hệ thống các văn bản dưới luật trong lĩnh vực có liên quan.
1.3.1.3. Mối quan hệ giữa Bộ luật dân sự và các luật chuyên ngành.
Như phần trên đã trình bày, Bộ luật dân sự được coi là văn bản luật
điều chỉnh chung nhất vấn đề hợp đồng, trong đó có giao kết hợp đồng. Giữa
Bộ luật dân sự và các luật chuyên ngành có mối liên hệ gắn bó nhau thể hiện

17
ở chỗ bổ sung cho nhau. Với vai trò là bộ luật gốc, chế định về giao kết hợp

đồng trong Bộ luật dân sự năm 2005 đóng vai trò định hướng nguyên tắc
trong việc điều chỉnh các quan hệ giao kết hợp đồng nói chung cũng như từng
hợp đồng cụ thể cho phù hợp với đặc thù của loại hợp đồng dân sự đó. Tuy
nhiên, sự áp dụng của Bộ luật dân sự mang tính linh hoạt mà không áp đặt
hay loại trừ sự áp dụng của luật chuyên ngành, điều đó thể hiện ở việc luật
chuyên ngành có quy định điều chỉnh về một trường hợp cụ thể thì phải áp
dụng quy định của luật chuyên ngành đó. Ngược lại, nếu luật chuyên ngành
không có quy định thì áp dụng Bộ luật dân sự.
1.3.3. Pháp luật điều tiết giao kết hợp đồng theo pháp luật Hoa Kỳ.
1.3.2.1. Tuyển tập về luật hợp đồng (Restatements of contracts).
Thế kỷ thứ 19 được coi là thời điểm phát triển các học thuyết, tư tưởng
và hệ thống hoá các quy định của luật hợp đồng ở Hoa Kỳ. Sự phát triển này
thể hiện ở các chuyên luận và các bộ tuyển tập các án lệ về hợp đồng
(restatement of contracts). Tuyển tập luật hợp đồng là một trong những công
trình của Viện nghiên cứu luật Hoa Kỳ thể hiện sự cố gắng trình bày chính
xác những quyết định của Toà án có độ dung hoà cao nhất và có thể được áp
dụng bởi các toá án của các bang của Hoa Kỳ [ 17, tr. 325, 326]. Tuyển tập
quan tâm nhiều đến các nguyên tắc cơ bản trong giao kết hợp đồng cũng như
vấn đề hiệu lực của hợp đồng.
Tuyển tập hợp đồng đầu tiên được hoàn thành vào năm 1932. Năm
1981, tuyển tập hợp đồng lần thứ hai được xuất bản với một số thay đổi và bổ
sung so với tuyển tập năm 1932, đặc biệt là việc bổ sung những ngoại lệ của
chế định nghĩa vụ đề bù (consideration), hạn chế rút lại lời hứa. Nhìn chung,
tuyển tập lần hai có nhiều đối mới và được quy định chi tiết hơn so với tuyền
tập lần đầu [19, p 55]. Những nội dung chính liên quan đến giao kết hợp đồng
được thể hiện trong tuyển tập như chế định về lời hứa, đề nghị và chấp nhận
đề nghị, hiệu lực của hợp đồng tuy không mang giá trị như các quy định của
pháp luật thành văn tại các nước theo hệ thống dân luật nhưng lại có thể được

18

trích dẫn trong các quy định của toà án, là cơ sở để tìm ra những quyết định
quan trọng trong những vụ việc tương tự.
1.3.2.2. Bộ luật thƣơng mại chuẩn thống nhất Hoa Kỳ.
Bộ luật thương mại chuẩn thống nhất Hoa Kỳ là tuyển tập các án lệ
điều chỉnh những vấn đề liên quan đến hoạt động thương mại, mua bán và cho
thuê hàng hoá. Bộ luật có nguồn gốc từ luật thương nhân, sau đó được phát
triển dựa trên cơ sở các án lệ liên quan đến hoạt động thương mại. Vấn đề
giao kết hợp đồng trong lĩnh vực thương mại được quy định cụ thể trong Bộ
luật với những điểm kế thừa quan điểm truyền thống của thông luật và ghi
nhận những điểm mới cho phù hợp với điều kiện giao dịch thương mại hiện
đại. Bộ luật là sản phẩm của Viện nghiên cứu luật Hoa Kỳ có vai trò kham
thảo và là bộ luật mẫu cho các bang, ngoại trừ bang Louisiana, nơi chịu ảnh
hưởng của luật dân sự Pháp nên chỉ chấp nhận một phần của Bộ luật không
liên quan đến mua hán hàng hoá. Các bang dựa vào Bộ luật này ban hành cho
mình đạo luật riêng. Vì vậy, tuy mỗi bang có đạo luật riêng về hợp đồng
nhưng về cơ bản các đạo luật đó có nhiều điểm tương đồng về điều chỉnh giao
kết hợp đồng nói riêng, các vấn đề giao dịch thương mại nói chung.
Bộ luật chia thành 11 điều, trong đó tập trung về điều chỉnh giao kết
hợp đồng tại Điều 1 (những quy định chung) và Điều 2 (mua bán hàng hoá).
Ngoài các công trình luật nói trên, Hoa Kỳ có còn một số văn bản luật
thực định chuyên về một số lĩnh vực do Quốc hội Mỹ ban hành như Luật
Magnjewsson Moss ( luật về các bảo đảm và thẩm quyền của ban thương mại
Hoa Kỳ); Luật chống lừa đảo (Statute of frauds), Luật thống nhất về giao dịch
thông tin trên máy tính (UCITA), Luật thống nhất về giao dịch điện tử
(UETA), Luật chữ ký điện tử trong thương mại quốc gia và quốc tế (E –
Sign), Luật bảo hộ tín dụng tiêu dùng, Luật an toàn hàng hoá tiêu dùng; Luật
nghĩa vụ đóng bao bì bảo đảm tránh sự thâm nhập của chất độc hại; Luật cấm
dùng các chất gây hại sức khoẻ con người….v.v.




19
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Qua phân tích, so sánh những vấn đề chung về giao kết hợp đồng theo
pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ có thể rút ra được những điểm chính
sau đây:
1. Khái niệm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ
đều có chung bản chất là sự thoả thuận giữa các bên tham gia giao kết hợp
đồng. Nhưng pháp luật Việt Nam sử dụng thuật ngữ “hợp đồng dân sự” để
nói về khái niệm hợp đồng trong khi pháp luật Hoa Kỳ cũng như nhiều nước
khác chỉ sử dụng thuật ngữ hợp đồng (contract).
2. Chế định giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam và pháp luật
Hoa Kỳ đều điều chỉnh tập trung vào những vấn đề liên quan đến đề nghị và
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng.
3. Nếu như pháp luật Việt Nam điều chỉnh giao kết hợp đồng bằng các
nguồn pháp luật thành văn của cơ quan lập pháp, hành pháp thì pháp luật Hoa
Kỳ điều chỉnh giao kết hợp đồng chủ yếu bằng các nguồn án lệ của toà án.
Các quy phạm pháp luật thành văn chỉ đóng vai trò thứ yếu và điều chỉnh
trong một số lĩnh vực nhất định.
4. Hệ thống pháp luật Việt Nam là pháp luật thống nhất của một quốc
gia khác với pháp luật Hoa Kỳ có sự phân biệt giữa pháp luật liên bang và
tiểu bang. Tại Hoa Kỳ, lĩnh vực pháp luật hợp đồng mang tính tiểu bang
hơn là liên bang. Pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng theo pháp luật
Việt Nam thể hiện mối liên hệ giữa luật chung và luật chuyên ngành cũng
như luật chuyên biệt còn pháp luật Hoa Kỳ điều chỉnh giao kết hợp đồng
thể hiện mới liên hệ giữa pháp luật liên bang và tiểu bang, giữa pháp luật
thành văn và án lệ.



20
Chƣơng 2 - THOẢ THUẬN VÀ CÁC THÀNH TỐ CỦA THOẢ THUẬN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT HOA KỲ

2.1. Khái niệm về sự thoả thuận theo pháp luật Việt Nam và pháp
luật Hoa Kỳ.
Thuật ngữ thoả thuận theo nghĩa rộng được hiểu là bất kỳ sự đồng ý
của hai hay nhiều chủ thể cho dù có hay không hậu quả pháp lý. Ở đây, tác
giả chỉ nói tới khái niệm thoả thuận mang tới hậu quả pháp lý và trong mối
liên hệ với quan hệ hợp đồng.
Như chương đầu của luận văn đã trình bày, thoả thuận vừa thể hiện
bản chất của hợp đồng, vừa là yếu tố không thể thiếu trong hợp đồng. Thoả
thuận thể hiện sự thống nhất trong việc bày tỏ ý chí của các bên, theo đó, nội
dung của hợp đồng được hình thành [15, tr. 20]. Thoả thuận vừa là kết quả,
vừa là nội dung của sự thống nhất ý chí, sự gặp nhau về mặt tư tưởng giữa
các chủ thể bình đẳng về mặt pháp lý. Mục đích của thoả thuận trong hợp
đồng nhằm tạo lập hệ quả pháp lý theo đó xác định mỗi chủ thể trong thoả
thuận có những quyền và nghĩa vụ nhất định [7, tr. 42, 43].
Pháp luật Việt Nam hiện hành chưa đưa ra khái niệm chính thức về
thoả thuận. Nhưng viện dẫn theo các quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam
năm 2005, thoả thuận là kết quả của sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể
giao kết hợp đồng mà ở đó phải đảm bảo sự tự do, tự nguyện giữa các bên.
Yêu cầu của sự thoả thuận là không vi phạm điều cấm của pháp luật, không
trái với đạo đức xã hội thì mới được coi là hợp pháp. Thoả thuận hợp pháp
có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên và phải được cá nhân, pháp
nhân, chủ thể khác tôn trọng [1, Điều 4].
Trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ, thoả thuận (agreement) được hiểu
là sự thể hiện thống nhất ý chí của hai hoặc nhiều người [24, § 3]. Sự thoả
thuận như các toà án đã từng nói, nó không khác gì hơn sự thể hiện nhất trí giữa


21
các bên một cách hợp pháp. Ở một vài khía cạnh, thoả thuận là một thuật ngữ
rộng hơn so với hợp đồng, sự thương lượng hay lời hứa. Nó bao trùm các giao
dịch mua bán, tặng cho và các chuyển giao tài sản khác [22, § 2].
Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ định nghĩa thoả thuận là sự phân
biệt so với hợp đồng để thể hiện sự thương lượng giữa các bên trong thực tế,
được thiết lập theo ngôn ngữ của họ hoặc được suy ra từ hoàn cảnh bao gồm
quá trình thực hiện, giải quyết hợp đồng hoặc theo tập quán thương mại theo
quy định của Bộ luật này [23, § 1- 201 (3)]. Theo pháp luật Hoa Kỳ, thoả thuận
giữa các bên phải hợp pháp mới được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Như vậy, pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ đều thừa nhận thoả
thuận là yếu tố cơ bản của hợp đồng, thể hiện bản chất của hợp đồng, qua đó
thể hiện sự thống nhất ý chí của các bên. Về cơ bản, những yêu cầu của thoả
thuận làm phát sinh hiệu lực hợp đồng theo pháp luật hai nước cũng có
nhiều quan điểm tương đồng nhau. Quan điểm về sự thoả thuận chính vì vậy
mà có thể phân biệt được với hợp đồng. Thoả thuận không đồng nghĩa với
hợp đồng, nhưng hợp đồng thì đương nhiên là thoả thuận, vì hợp đồng bao
hàm sự thoả thuận. Sự thoả thuận chỉ được coi là hợp đồng nếu nó có đầy đủ
những yếu tố cơ bản của hợp đồng.
2.2. Các thành tố của sự thoả thuận.
Thoả thuận gồm hai yếu tố cấu thành, đó là đề nghị giao kết hợp đồng
và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mà nếu thiếu một trong hai yếu tố
này sẽ không tồn tại một thoả thuận theo đúng nghĩa pháp lý của nó. Dưới
đây là những vấn đề cơ bản về các thành tố đó.
2.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng.
2.2.1.1. khái niệm, bản chất đề nghị giao kết hợp đồng theo pháp
luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ.
Nếu như giao kết hợp đồng là hành vi pháp lý của hai hay nhiều chủ
thể với nhau thì đề nghị giao kết hợp đồng là hành vi pháp lý đơn phương


22
thể hiện ý định định giao kết hợp đồng của chủ thể này đối với một hay
nhiều chủ thể khác. Không phải ngẫu nhiêu mà có sự xuất hiện của các thủ
thể cùng một lúc để tiến hành giao kết hợp đồng, hay nói cách khác không
phải lúc nào hợp đồng cũng dễ dàng được hình thành từ hai phía nếu không
có sự chủ động của một phía.
Theo pháp luật Việt Nam, khái niệm về giao kết hợp đồng được quy
định tại khoản 1, Điều 390, Bộ luật dân sự năm 2005, cụ thể là:“đề nghị
giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự
ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định
cụ thể”.
Khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam cho
thấy bản chất của đề nghị là hành vi pháp lý đơn phương với nội dung thể
hiện rõ ý định giao kết hợp đồng của bên đề nghị đối với bên được đề nghị,
thông qua đó thể hiện sự sẵn sàng chịu sự ràng buộc của bên đề nghị với bên
được đề nghị về nội dung đề nghị đó.
Theo quan niệm của pháp luật Hoa Kỳ, đề nghị giao kết hợp đồng
được xác định là sự thể hiện ý chí của bên đề nghị đối với bên được đề nghị
dưới hình thức là lời hứa mà lời hứa đó phụ thuộc vào hình thức thể hiện ý
chí (hành vi) của bên được đề nghị [19, tr. 82]. Ví dụ, người bán hàng hứa
sẽ cung cấp hàng hoá nếu người mua hàng hứa thanh toán tiền mua hàng.
Do đó, cũng có thể nói đề nghị giao kết hợp đồng là đề xuất của một bên này
với bên kia để thể hiện ý định giao kết hợp đồng. Đề nghị giao kết hợp đồng
tạo cho chủ thể được đề nghị quyền được tạo ra hợp đồng bằng việc thể hiện
sự đồng ý.
Như vậy, bản chất của khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng theo pháp
luật hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ đều khẳng định là hành vi pháp lý đơn
phương thể hiện ý định giao kết hợp đồng của bên đề nghị với bên được đề
nghị. Với khái niệm về giao kết hợp đồng như đã trình bày trên theo pháp


23
luật hai nước đều cho phép nhận diện và phân biệt với các lời mời giao kết
hợp đồng sẽ được trình bày ở mục 2.2.1.2 dưới đây.
2.2.1.2. Điều kiện của đề nghị giao kết hợp đồng.
Đề nghị giao kết hợp đồng là bước đầu tiên trong việc tạo ra mối quan
hệ pháp lý giữa các bên chủ thể giao kết. Vì ý nghĩa quan trọng như vậy nên
pháp luật các nước đều đưa các yêu cầu cũng như điều kiện đối với một đề
nghị giao kết hợp đồng.
Theo pháp luật Việt Nam, chưa có điều luật cụ thể nào nói về điều
kiện của đề nghị giao kết hợp đồng, nhưng xuất phát từ khái niệm đề nghị
giao kết hợp đồng như đã trình bày tại mục trên cho thấy đề nghị giao kết
hợp động phải có những điều kiện cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, đề nghị giao kết hợp đồng phải là sự thể hiện rõ ý định
giao kết hợp đồng.
- Thứ hai, bên đề nghị thể hiện ý chí muốn ràng buộc về đề nghị đối
với bên được đề nghị;
- Thứ ba, đề nghị phải được gửi tới đối tượng xác định cụ thể.
Theo pháp luật Hoa Kỳ, đề nghị giao kết hợp đồng phải đảm bảo
những điều kiện như: đề nghị phải thể hiện ý định giao kết hợp đồng một
cách nghiêm túc; đề nghị giao kết hợp đồng phải có tính xác định, và đề nghị
giao kết phải được truyền đạt tới bên được đề nghị cụ thể. Như vậy, ở
phương diện chung, pháp luật Hoa Kỳ và pháp luật Việt Nam có điểm chung
về điều kiện để coi một trường hợp là đề nghị giao kết hợp đồng. Dưới đây
là các khía cạnh cụ thể về các điều kiện của đề nghị giao kết hợp đồng theo
pháp luật hai nước:
Điều kiện thể hiện ý định giao kết hợp đồng.
Đề nghị giao kết hợp đồng phải thể hiện rõ ý định của bên đề nghị đối
với bên được đề nghị về việc muốn được giao kết hợp đồng. Nhưng mức độ
thể hiện rõ ràng ý định đó như thế nào thì pháp luật thực định của Việt Nam

×