Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIẾN BPCT NGƯỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.66 KB, 21 trang )

LỜI NÓI DẦU
Sự phát triển bùng nổ của công nghệ y sinh học nhngữ năm gần đây đã
làm thé giới phải ngỡ ngàng. Con người khẳng định sự kỳ diệu của chính cơ
thể mình. Nhưng nó đẩy chúng ta đến nguy cơ phá vỡ mọi quy luật tự
nhiên, mọi quy tắc, quan điểm về con người đã tồn tại cùng chúng ta trong
suốt chiều dài lịch sử của mình tới nay. Công nghệ y sinh là mộ cơ hội
nhưng cũng là thách thức bởi “khoa học mà không có ý thức chỉ là khoa
học dẫn đến sự lụi tàn của con người”. hơn lúc nào hết chúng ta cần kiểm
soát công cụ này nhằm đưa nó đi đúng hướng cho sự phát triển thật sự lành
mạnh của nhân loại. Quy tắc về đạo đức sinh học, đặc biệt là các quy tắc
hành xử liên quan đến cơ thể người đượ đặt ra và nhanh chóng được luật
hóa tạo thành động lực định hướng phát triển một công nghệ y sinh học
mang tính nhân bản.
Ở Việt Nam, với nỗ lực không ngừng hơn mười năm nay, công nghệ y
sinh học mà điển hình là kỹ thuật y học của ta đã đạt được nhũng bước tiến
đáng kể, từng bước bắt kịp thế giới, trong đó ghép BPCT người rất đáng để
chúng ta tự hào. Nhu cầu bức thiết điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ có
thể phát sinh từ việc áp dụng kỹ thuật y sinh trong đời sống là một câu hỏi
lớn cần được sự quan tâm của chúng ta. Và nguồn BPCT người phục vụ
điều trị, nghiên cứu khoa học là bài toán tiên quyết, có tính chìa khóa cũng
là bài toán khó khăn nhất do tính nhạy cảm mà nó mang lại. Do đó, việc
nghiên cứu các vấn đề pháp lý về việc hiến BPCT người nói chung, đặc biệt
là việc hiến BPCT người sau khi chết cần được giải quyết để nghành y tế
Việt Nam có cơ sở pháp lý vững chắc triển khai các hoạt động cấy, ghép
thay thế trị liệu của mình, dảm bảo nhu cầu bảo vệ sức khỏe của nhân dân
trên cơ sở tôn trọng những giá trị tốt đẹp và nhân bản vốn có của y học.
1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIẾN BPCT NGƯỜI.
1. Khái niệm BPCT người và hiến bộ phận BPCT người.
1.1. BPCT người.


BPCT người là cụm từ được sử dụng tương đối phổ biến trong đời
sống với một cách hiểu đơn nhất theo kiểu định nghĩa thống kê: “BPCT
người gồm: chân, tay,sương, gan, mật, tụy, máu…” Khái niệm này lần đầu
tien xuất hiện rong bộ luật dân sự năm 2005, với tư cách là quyền nhân thân
không thể phủ nhận (điều 33, 34, 35) mà kông hề giải thích thuật ngữ. Lúc
này người ta mới đề cập đến việc nhận thức như thế nào về khái niệm
BPCT người, để có những hành xử đúng theo tinh thần của luật. Khái niệm
này phức tạp ở chỗ trước đó người ta đã sử dụng thuật ngữ này bên cạnh
thuật ngữ mô (điều 30, Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân). Điều này cho phép
người ta hiểu rằng BPCT người và mô là hai khái niệm khác nhau và không
trùng nhau. Như thế có ngĩa thực tế cá nhân mặc dù thực hiện hành vi hiến
tế bào (trứng, tinh trùng…), mô, BPCT nhưng pháp luật chỉ thừa nhận một
quyền duy nhất: Quyền hiến BPCT người! Cách hiểu này càng được củng
cố hơn khi một lần nữa nó được dùng trở lại trong Luật 75/06.
1.2. Hiến BPCT người
Theo từ điển, hiến là động từ chỉ “hành động dâng hay tự nguyện cho
của một chủ thể” là hành vi mang tính chủ động cho cái quý giá nhất của
mình một cahcs tự nguyện, trang trọng. Vì vậy hiểu đơn thần về mặt câu
chữ hiến BPCT người có nghĩa là tặng/cho một phần cơ thể của chủ thể xác
định.
Dưới góc độ pháp lý, bản chất của hiến BPCT người không phải là hợp
đồng mà là hành vi pháp lý đơn phương của chủ thể hiến. Thực vậy, nó thể
hiện duy nhất ý chí tự nguyện của chủ thể hiến mà không phải là sự thỏa
2
thuận giữa các bên chủ thê nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự trong hoạt đọng hiến BPCT. Nó không thỏa mãn khái niệm
hợp đồng dân sự được quy định tại điều 388 BLDS 2005. Khi người hiến
ký tên vào đơn đăng ký hiến và cơ sở y tế hoàn tất thủ tục đăng ký cho
người hiến không phải là hợp đồng tặng cho được ký kết. Nó chỉ đơn giản
là một thủ tục ghi nhận duy nhất ý chí tự nguyện của người hiến, còn cơ sở

y tế là một chủ thể có nhiệm vụ trợ giúp người hiến thực hiện quyền của họ
(tiếp nhận, đăng ký đơn hiến, kiểm tra, tư vấn sức khỏe, thực hiện lấy, xử lý
an toàn và phân phối BPCT) mà thôi.
2. Nguyên tắc trong vấn đề hiến BPCT người
Khoa học đưa ra những sự lựa chọn, pháp luật sẽ thể hiện sự lựa chọn
cụ thể trên cơ sở đưa ra các quy phạm, còn đạo đức làm nhiệm vụ đánh giá
các ứng xử trước những lựa chọn đã xác định. Trong bối cảnh các hành tựu
của công nghệ y sinh và quan điểm đạo đức liên quan đến chúng cạnh tranh
liên tục và gay gắt thì nhân phẩm con người đòi hỏi phải được đặt lên hàng
đầu, tức là tất cả các nguyên tắc định hướng đặt ra đều phải nhằm vào mục
tiêu duy nhất là bảo vệ con người. Nguyên tắc về hiến BPCT người không
nằm goài mục tiêu đó. Pháp luật mỗi nước khác nhau thì bộ nguyên tắc này
có những cách thể hiện khác nhau, nhưng tựu chung lại nội dung mẫu chốt
của nó vẫn xoay quanh các nguyên tắc cơ bản được thừa nhận trên toàn thế
giới. Ở Việt Nam, chúng được ghi nhận tại điều 4, luật 75/06 gồm 4 nguyên
tắc sau:
2.1. Tự nguyện:
Nguyên tắc tự nguyện là nguyên tắc được đặt vị trí đầu tiên trong pháp
luật của tất cả các nước, được đòi hỏi như là điều kiện cần cho hoạt động
hiến BPCT người. Trong hoạt động này nhất thiết phải có sự đồng ý của
chủ thể hiến, không đề cập đến nguyên tắc nào khác nếu không nhắc tới sự
tự nguyện. Tự nguyện ở đây phải là sự tự nguyện hoàn toàn. Có nghĩa:
3
quyết định hiến BPCT của cá nhân phải được đưa ra trong trạng thái bình
thường, minh mẫn, sang suốt và quyết định này phải dựa trên việc họ được
thông tin. Không thể có bất cứ sự hiểu nhầm nào, người hiến phải nắm
được một số thông tin liên quan tới việc BPCT của họ có thể bị lấy đi khi
họ thực hiện quyền hiến của mình, đặc biệt là những rủi ro nhất định trong
hoạt động này cho phép họ có những cân nhắc cần thiết trước khi đưa ra
quyết định.

2.2. Mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa
học:
Trên cơ sở bảo vệ nhân phẩm con người chống lại mọi hình thức sử
dụng thân thể như một Phương tiện nhằm thỏa mãn bất kỳ mọi mục đích
nào, pháp luật luôn đặt con người ở vị trí chủ thể, phân biệt con người với
chủ thể khác. Vì thế bằng cách này hay cách khác “thủ thuật y học chỉ hợp
pháp nếu thủ thuật đó tôn trọng một số điều kiện có bản chất là giữ gìn và
bảo vệ con người.” theo đó cơ thể con người không thể bị xâm hại. Pháp
luật yêu cầu phải có sự đồng ý của chủ thể để có thể tiến hànhmột sự xâm
hại bất kỳ đến cơ thể người đó nhưng chỉ là điều kiện cần có tính tiên quyết
song chưa đủ. Người ta không thể xâm hại đến cở thể một người chỉ với sự
cho phép của chính họ. Sự can thiệp chỉ thực sự hợp pháp khi sự tự nguyện
là vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học
phục vụ công đồng và toàn bộ hoạt động này đều phải được tiến hành trên
tinh thần hoàn toàn phi lợi nhuận. Mọi hoạt động hiến BPCT người ngoài
mục đích trên đều bị coi là vi phạm pháp luật. Đây là sự cụ thể hóa BLDS
2005 (điều 33, 34), một biểu hiện cao đẹp của long nhân ái, tinh thần giác
ngộ khoa học, khẳng định tính nhân bản vì con người của cộng đồng.
2.3. Phi lợi nhuận:
Nguyên tắc phi lợi nhuận được áp dụng với tư cách là điều kiện đủ
trog hoạt động hiến BPCT người so với điều kiện cần là nguyên tắc tự
4
nguyện và ục đích hiến luật định ở trên. Nguyên tắc này được kỳ vọng như
là “thành trì bảo vệ chống lại ọi hành vi vi phạm có tổ chức đối với cơ thể
người và nhất là việc buôn bán các BPCT người”. Vì thế nó trở thành
nguyên tắc quan trọng, bao trùm lên toàn bộ hệ thống các quy định cua
pháp luật về vấn đề hiến BPCT người. Nguyên tắc phi lợi nhuạn gồm 2 nội
dung chính sau:
Thứ nhất, không trả tiền cho việc hiến BPCT người. Theo nội dung
này,không có việc đền bù tài chính trực tiếp cho người hiến; họ không có

quyền đòi hỏi bất cứ sự trả giá nào cũng như được phép nhận thù lao dưới
bất kỳ hình thức nào từ hành vi hiến BPCT của mình. Người nhận cấy
ghép, sử dụng giảng dạy, nghiên cứu không phải trả bất cứ khoản nào do
việc có được BPCT người. Đối với các bác sĩ thực hiện kỹ thuật lấy cũng
không được trả thêm tiền vì tiến hành phẫu thuật, đây phải được coi là một
nhiệm vụ của bác sĩ làm nhiệm vụ hưởng lương tại cơ sở y tế. Toàn bộ chi
phí phát sinh do việc lấy BPCT người do cơ sở y tế thực hiện chi trả. Việc
“không trả tiền” được áp dụng trên cả 4 đối tượng: người hiến, người nhận,
bác sĩ, cơ sở y tế nhằm ngăn chặn những biến tướng thương mại hóa cơ thể
người từ bất cứ nguồn, hướng nào trong hệ thống hoạt động hiến BPCT
người. Việc tả tiền được cho là một thách thức đối với công bằng xã hội.
Người bán sẽ luôn là người nghèo còn người mua sẽ luôn là người giàu
trong khi đây là một việc liên quan đến sức khỏe thậm chí là sự sống còn,
dẫn dến áp lực lợi nhuận gia tăngbiến hoạt động cao cả, tốt đẹp, đầy nhân
văn của con người trở thành phương tiện “hốt bạc”. Tính không đền bù
được xem là khởi nguồn của hoạt động đầy nhân văn và được đa số các
nước áp dụng. Tuy nhiên không phải tất cả, một số nước không áp dụng
nguyên tắc phi lợi nhuận, đại diện là Mĩ.
Thứ hai: cấm quảng cáo cho một người hoặc cho một tổ chức cụ thể.
Nội dung này đòi hỏi hoạt động cung cấp thông tin, giới thiệu, môi giới về
5
nhu cầu hiến, nhận BPCT cho một người, một tổ chức cụ thể mang tính
thương mại đều bị cấm. Tuy nhiên, trong hoạt động này do tính nhạy cảm
đặc biệt nên thông tin tuyên truyền là hết sức quan trọng, chính nó quyết
định sự thành công hay thất bại của chúng ta. Sẽ không thể xây dựng được
chương trình hiến BPCT người thành công nếu không thực hiện được các
hoạt dộng thông tin, tuyên truyền rộng rãi đối với nhân dân. Vì thế, việc
cấm quảng cáo này cũng không được làm cản trở hoạt động thông tin, tuyên
truyền về hiến BPCT trong cộng đồng. Để có thể vừa làm tốt công tác
thông tin tuyên truyền vừa ngăn chặn được những biến tướng quảng cáo

thương mại BPCT người cần có một chương trình, kế hoạch thông tin,
tuyên truyền hiệu quả nằm trong chính sách chung của ngành y tế.
2.4. Vô danh
Nguyên tắc vô danh là một trong những biện pháp nhằm đảm bảo trật
tự các quan hệ xã hội, ngăn chặn cáchiện tượng thương mại hóa BPCT
người đồng thời bảo vệ người hiến, nhận về mặt riêng tư cá nhân. Nguyên
tắc này rất quan trọng, nó cho phép tránh mọi áp lực không cần thiết về mặt
tinh thần cũng như vật chất từ phía người hiến, nhận và gia đình họ đối với
nhau; qua đó ngăn chặn khả năng thương mại hóa do quan hệ trực tiếp giữa
các đối tượng này. Vô danh có nghĩa là mọi thông tin về danh tính cá nhân
đèu không thể được biết đến. Nguyên tắc này đtặ ra yêu cầu: mọi thông tin
về người hiến, nhận phải được mã hóa và bảo mật, người hiến không được
biết căn cước người nhận và ngược lại; cấm tiết lộ thông tin nào cho phép
xác định người hiến, nhận. Bảo mật thông tin là nghĩa vụ bắt buộc của các
nhân viên hoạt động trong mạng lưới hiến tặng. Hồ sơ người hiến, nhận sẽ
được lưu trong một thời gian xác định trước khi công bố. nhưng khi công
bố thì vẫn phải đảm bảo khuyết danh. Thời hạn lưu trữ tùy thuộc vào quy
định của mỗi nước, thường là 30 năm (Việt Nam có áp dụng).
6
Ngoài 4 nguyên tắc cơ bản trên đây, tuy không được luật Việt Nam
trực tiếp quy định nhưng trên tinh thần của luật, khi tiếp cận vấn đề hiến
BPCT người cần phải tuyệt đối tôn trọng các nguyên tắc sau:
• Tôn trọng cơ thể con người.
• Quyền được thông tin của người hiến.
II. HIẾN BPCT NGƯỜI THEO LUẬT THỰC VIỆT NAM.
1. Hiến BPCT người sau khi chết.
1.1. Chủ thể.
Cái chết là một phần nỗi đau và luôn gây ra những buồn não. Con
người đã cố gắng tự an ủi mình bằng các yếu tố tâm linh nào đó như một sự
xoa dịu. Với tư cách là loài động vật duy nhất nhận thức được cái chết,

nhận thức được mình sẽ chết, con người đã chọn một trong những cách đơn
giản để giảm bớt nỗi đau do cái chết gây ra và chia sẻ với người khác khi để
phúc lại cho người sống bằng chính một phần cơ thể của mình. Việc này
cũng làm cho mối liên kết giữa con người với con người trong xã hội bền
chặt hơn. Các quy định pháp luật về điều kiện chủ thể tham gia thực hiện
quyền hiến BPCT sau khi chết được đặt ra gần giống với với trường hợp
hiến khi còn sống, có 2 tiêu chí được chú ý là: điều kiện tuổi vàn năng lực
hành vi, điều kiện sức khỏe. Người hiến không bị rang buộc điều kiện quan
hệ giữa người hiến/nhận do không có áp lực đòi tra công từ phía người
hiến, nguyên tắc vô danh được áp dụng gần như triệt để.
Điều kiện sức khỏe người hiến cũng không thực sự quan trọng khi xét
đơn đăng ký của họ vì phải đến khi sự kiện chết xảy ra mới có thể can nhắc
việc có hay không lấy BPCT người hiến. Điều kiện này chỉ thực sự được
đặt ra khi mục đich sử dụng BPCT là chữa bệnh, nếu dùng vào mục đích
nghiên cứu khoa học, giảng dạy thì không nhất thiết phải có nó. Đương
nhiên khi dùng vào mục đích chữa bệnh thì người hiến phải không mắc các
7
bênh truyền nhiễm, di truyền nguy hiểm, khối u, ung thư… như khi hiến
còn sống.
Đối với điều kiện tuổi và năng lực hành vi, pháp luật quy định thành
hai trường hợp: đăng ký và không đăng ký.
Nếu một người dăng ký hiến sau chết họ phải thỏa mãn yêu cầu về tuổi
và NLHV một cách chặt chẽ: từ đủ 18 tuổi, có NLHV đầy đủ (khoản 1 điều
18, điều 5 luật 75/06), lý do ở đây là xuất phát từ sự nhân đạo và lợi ích của
người được lấy. Thực tế lập pháp và hoạt động thực tiễn ở Việt Nam đã
chứng minh không ít hành vi hay trách nhiệm mà người dưới 18 tuổi có thể
thực hiện hoặc có thể có (Luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Lao
động), đặc biệt theo BLHS 1999 lứa tuổi từ đủ 14 tuổi đã có được những sự
phát triển nhất định cho phép khả năng suy nghĩ độc lập và chịu trách
nhiệm về những hành vi của mình. Không có lý gì các em phải chịu trách

nhiệm về việc làm sai của mình lại không có quyền được thực hiện một lựa
chọn không có hại cho các em mà còn có ích cho cộng đồng, việc cho các
em cơ hội thể hiện sự đồng ý cũng là cho các em cơ hội cân nhắc về sự từ
chối khi các em đã chọn thái độ cho mình, lẽ nào không tôn trọng?
Trongkhi thực tế lại trao quyền đó cho gia đình khi các em đã mất như vậy
là chưa thực sự công bằng với các em. Phong tục Á Đông khó chấp nhận
chết không toàn thây nên rất nhiều trường hợp cha mẹ quyết định cho
BPCT con cái họ đặc biệt khi các em không may qua đời ở tuổi rất nhỏ bởi
xót thương quá lớn! Nhưng nếu các em thể hiện sự dồng ý cho BPCT sau
khi chết thì kại khác, có thể cha mẹ sẽ tôn trọng ý nguyện của các em, đây
cũng là một động lực giúp họ can đảm quyết đinh hiến BPCT đứa con xấu
số của mình để cứu đứa trẻ đang trong tình trạng hiểm nghèo khác. Việc
cho các em có quyền quyết định có ý nghĩa giáo dục rất lớn và tuyên truyền
rộng mở vì đối tượng cần được tuyên truyền chính là những người trẻ tuổi,
mặt khác nó đảm bảo tính thực hiện của điều luật. Như vậy các em hoàn
8

×