Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

phân tích Hoạt động của thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.92 KB, 22 trang )

Mục lục
Mục lục 1
1.1 Khái niệm 3
1.2 Đặc điểm cơ bản: 3
1.3 Đặc trưng: 4
1.4 Phân loại trái phiếu: 4
Chương II Thị trường trái phiếu công ty 8
2.2 Phát hành trái phiếu quốc tế của các công ty 11
Chương III Đánh giá và giải pháp 13
3.1. Nhận định đánh giá về thị trường trái phiếu Việt Nam 13
3.1.1. Thành tựu 13
3.1.2. Hạn chế 14
3.1.3. Nguyên nhân: 14
3.2.Một số giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam 16
3.2.1. Hoàn thiện cấu trúc thị trường TPCP 16
3.2.2. Phát triển thị trường TPDN 18
3.2.3 Đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư 19
3.2.4. Hoàn thiện cơ chế chính sách cho sự phát triển của thị trường TPCP và TPDN 20
3.2.6. Thu hút nhà đầu tư nước ngoài: 21
Kết luận 21
Tài liệu tham khảo 22
1
LỜI MỞ ĐẦU
TPDN là một sản phẩm đầu tư đã phát triển rất mạnh tại các thị trường tài chính tiên tiến
trên thế giới như Mỹ, Châu Âu, Singapore, Hồng Kông và chất lượng giao dịch cũng như quy mô
lớn gấp nhiều lần so với thị trường chứng khoán.
Tại Việt Nam, thị trường TPDN mới bắt đầu phát triển mạnh vài năm trở lại đây. Trước đây
thì thị trường này chủ yếu dành cho trái phiếu chính phủ và các doanh nghiệp nhà nước. Nhưng
càng ngày càng có nhiều doanh nghiệp tư nhân bắt đầu có nhu cầu sử dụng công cụ huy động vốn
này.
Việt Nam là nước đang phát triển, nhu cầu vốn trung và dài hạn để đầu tư mở rộng sản xuất


kinh doanh và xây dựng cơ sở hạ tầng là rất lớn. Ngoài việc đi vay tín dụng, phát hành trái phiếu sẽ
là kênh huy động vốn quan trọng và cần thiết cho doanh nghiệp.
Nhằm làm rõ vấn đề này, tiểu luận tập trung phân tích Hoạt động của thị trường trái phiếu
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Với thời lượng cho phép, nhóm thực hiện tiểu luận này mong
nhận được góp ý, bổ sung của quý Thầy Cô, bạn bè để hoàn chỉnh tiểu luận được tốt hơn.
2
Chương I Lý thuyết chung
1.1 Khái niệm
- Trái phiếu là một chứng nhận nghĩa vụ nợ của người phát hành phải trả cho người sở hữu
tráiphiếu đối với một khoản tiền cụ thể (mệnh giá của trái phiếu), trong một thời gian xác
định vàvới một lợi tức quy định. Người phát hành có thể là doanh nghiệp (trái phiếu trong
trườnghợp này được gọi là trái phiếu doanh nghiệp), một tổ chức chính quyền như Kho bạc
nhà nước (trong trường hợp này gọi là trái phiếu kho bạc), chính quyền (trong trường hợp
này gọi là công trái hoặc trái phiếu chính phủ). Người mua trái phiếu, hay trái chủ, có thể là
cá nhân hoặc doanh nghiệp hoặc chính phủ. Tên của trái chủ có thể được ghi trên trái phiếu
(trường hợp này gọi là trái phiếu ghi danh) hoặc không được ghi (trái phiếu vô danh). Trái
chủ là người cho nhà phát hành vay và họ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả sử
dụng vốn vay của người vay. Nhà phát hành có nghĩa vụ phải thanh toán theo các cam kết
nợ được xác định trong hợp đồng vay.
• Mục đích phát hành trái phiếu
- Thực hiện chương trình, dự án đầu tư;
- Tăng quy mô vốn hoạt động;
- Cơ cấu lại các khoản nợ của doanh nghiệp.
• Thu nhập từ trái phiếu
- Lãi định kỳ (Lãi coupon) thường trả nửa năm một lần
- Lãi của lãi: phụ thuộc lãi suất thị trường
- Chênh lệch giá: lời hoặc lỗ phụ thuộc vào lãi suất thị trường
1.2 Đặc điểm cơ bản:
- Chủ thể phát hành trái phiếu không chỉ có Công ty, mà còn có Chính phủ Trung ương và
Chính quyền địa phương. Công ty phát hành trái phiếu có thể là công ty cổ phần hay

TNHH.
- Người mua trái phiếu chỉ là người cho chủ thể phát hành vay tiền và là chủ nợ của chủ thể
phát hành trái phiếu. Khác với người mua cổ phiếu là người chủ sở hữu công ty.
- Thu nhập của trái phiếu là tiền lãi, là khoản thu cố định không phụ thuộc vào kết quả sản
xuất kinh doanh của công ty.
3
- Trái phiếu là chứng khoán nợ, vì vậy khi Công ty bị giải thể hoặc phá sản thì trước hết
Công ty phải có nghĩa vụ thanh toán cho các Chủ trái phiếu trước, sau đó mới chia cho các
cổ đông.
Với những đặc điểm trên, trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ
phiếu. Vì vậy, trái phiếu là loại chứng khoán được các nhà đầu tư ưa chuộng.
1.3 Đặc trưng:
- Mệnh giá trái phiếu hay còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu là giá trị ghi trên trái
phiếu. Giá trị này được coi là số vốn gốc. Mệnh giá trái phiếu là căn cứ để xác định số lợi
tức tiền vay mà người phát hành phải trả. Mệnh giá cũng thể hiện số tiền người phát hành
phải hoàn trả khi trái phiếu đến hạn.
- Lãi suất danh nghĩa: Lãi suất trái phiếu thường được ghi trên trái phiếu hoặc người phát
hành công bố được gọi là lãi suất danh nghĩa. Lãi suất này được xác định theo tỷ lệ phần
trăm so với mệnh giá trái phiếu và cũng là căn cứ để xác định lợi tức trái phiếu.
- Thời hạn của trái phiếu là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày người phát hành
hoàn trả vốn lần cuối. Trái phiếu có thời hạn khác nhau, trái phiếu trung hạn có thời gian từ
1 năm đến 5 năm. Trái phiếu dài hạn, có thời gian từ 5 năm trở lên.
- Kỳ trả lãi là khoảng thời gian người phát hành trả lãi cho người nắm giữ trái phiếu. Lãi
suất trái phiếu được xác định theo năm, nhưng việc thanh toán lãi suất trái phiếu thường
được mỗi năm hai hoặc một lần.
- Giá phát hành là giá bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành. Thông thường giá phát
hành được xác định theo tỷ lệ phần trăm (%) của mệnh giá. Tùy theo tình hình của thị
trường và của người phát hành để xác định giá phát hành một cách thích hợp. Có thể phân
biệt 3 trường hợp: giá phát hành bằng mệnh giá (ngang giá), giá phát hành dưới mệnh giá
(giá chiết khấu) và giá phát hành trên mệnh giá (giá gia tăng).

- Dù trái phiếu được bán với giá nào (ngang giá, giá chiết khấu hay giá gia tăng), thì lợi tức
luôn được xác định theo mệnh giá của trái phiếu và khi đáo hạn, người có trái phiếu sẽ được
thanh toán theo mệnh giá của trái phiếu.
1.4 Phân loại trái phiếu:
Có nhiều tiêu chí phân loại:
• Phân loại theo người phát hành
4
- Trái phiếu của Chính phủ: Đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Chính phủ, chính phủ phát hành
trái phiếu để huy động tiền nhàn rỗi trong dân và các tổ chức kinh tế, xã hội. Chính phủ luôn
được coi là Nhà phát hành có uy tín nhất trên thị trường; Vì vậy, Trái phiếu Chính phủ được
coi là loại chứng khoán có ít rủi ro nhất.
- Trái phiếu của doanh nghiệp: là những trái phiếu do doanh nghiệp nhà nước, công tcổ
phần và công ty trách nhiệm hữu hạn phát hành để tăng vốn hoạt động. Trái phiếu doanh
nghiệp có nhiều loại và rất đa dạng.
- Trái phiếu của ngân hàng và các tổ chức tài chính: các tổ chức này có thể phát hành trái
phiếu để tăng thêm vốn hoạt động.
• Phân loại lợi tức trái phiếu
- Trái phiếu có lãi suất cố định là loại trái phiếu mà lợi tức được xác định theo một tỷ lệ
phần trăm (%) cố định tính theo mệnh giá.
- Trái phiếu có lãi suất biến đổi (lãi suất thả nổi) là loại trái phiếu mà lợi tức được trả trong
các kỳ có sự khác nhau và được tính theo một lãi suất có sự biến đổi theo một lãi suất tham
chiếu.
- Trái phiếu có lãi suất bằng không là loại trái phiếu mà người mua không nhận được lãi,
nhưng được mua với giá thấp hơn mệnh giá (mua chiết khấu) và được hoàn trả bằng mệnh
giá khi trái phiếu đó đáo hạn.
• Phân loại theo mức độ đảm bảo thanh toán của người phát hành
- Trái phiếu bảo đảm là loại trái phiếu mà người phát hành dùng một tài sản có giá trị làm
vật đảm bảo cho việc phát hành. Khi nhà phát hành mất khả năng thanh toán, thì trái chủ có
quyền thu và bán tài sản đó để thu hồi lại số tiền người phát hành còn nợ. Trái phiếu bảo
đảm thường bao gồm một số loại chủ yếu sau:

+ Trái phiếu có tài sản cầm cố là loại trái phiếu bảo đảm bằng việc người phát hành cầm cố
một bất động sản để bảo đảm thanh toán cho trái chủ. Thường giá trị tài sản cầm cố lớn hơn
tổng mệnh giá của các trái phiếu phát hành để đảm bảo quyền lợi cho trái chủ.
+ Trái phiếu bảo đảm bằng chứng khoán ký quỹ là loại trái phiếu được bảo đảm bằng việc
người phát hành thường là đem ký quỹ số chứng khoán dễ chuyển nhượng mà mình sở hữu
để làm tài sản bảo đảm.
- Trái phiếu không bảo đảm là loại trái phiếu phát hành không có tài sản làm vật bảo đảm
mà chỉ bảo đảm bằng uy tín của người phát hành.
• Phân loại dựa vào hình thức trái phiếu
5
- Trái phiếu vô danh là loại trái phiếu không ghi tên của người mua và trong sổ sách của
người phát hành. Trái chủ là người được hưởng quyền lợi.
- Trái phiếu ghi danh là loại trái phiếu có ghi tên của người mua và trong sổ sách của người
phát hành.
• Phân loại dựa vào tính chất trái phiếu
- Trái phiếu có thể chuyển đổi là loại trái phiếu của công ty cổ phần mà trái chủ được quyền
chuyển sang cổ phiếu của công ty đó. Việc này được quy định cụ thể về thời gian và tỷ lệ
khi mua trái phiếu.
- Trái phiếu có quyền mua cổ phiếu là loại trái phiếu có kèm theo phiếu cho phép trái chủ
được quyền mua một số lượng nhất định cổ phiếu của công ty.
- Trái phiếu có thể mua lại là loại trái phiếu cho phép nhà phát hành được quyền mua lại
một phần hay toàn bộ trước khi trái phiếu đến hạn thanh toán
1.5 Cách thức phát hành
Hiện tại, một số văn bản luật quy định về phát hành trái phiếu công ty như:
- Nghị định 90/2011/NĐ-CP ngày 14/10/2011 – Phát hành Trái phiếu doanh nghiệp.
- Thông tư 211/2012/TT-BTC ngày 05/12/2012 - Hướng dẫn Nghị định 90/2011/NĐ-CP.
- Thông tư số 17/2013/TT-NHNN hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với việc phát hành
trái phiếu quốc tế của doanh nghiệp không được Chính phủ bảo lãnh.
Nguyên tắc phát hành trái phiếu
- Tự vay, tự trả và chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn;

- Minh bạch, công bằng bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư;
- Việc phát hành TP để cơ cấu nợ, đảm bảo không phát hành ra thị trường quốc tế;
- Phát hành TP đầu tư cho các chương trình, dự án đảm bảo tỷ lệ VCSH tối thiểu 20% tổng
mức đầu tư.
Thông tin về trái phiếu
- Kỳ hạn; Khối lượng; Đồng tiền; MG; LS; Phương thức.
- Loại hình TP:
- TP chuyển đổi: thời hạn chuyển đổi; tỷ lệ chuyển đổi; thủ tục chuyển đổi; Cam kết thực
hiện nghĩa vụ; Phương án bồi thường khi DN phát hành không thực hiện chuyển đổi.
- TP không chuyển đổi kèm chứng quyền: Số lượng chứng quyền kèm theo TP; ĐK chuyển
nhượng chứng quyền; Thủ tục thực hiện quyền mua cp; Phương án bồi thường khi DN phát
hành không thực hiện các điều khoản đã công bố.
- TP bảo đảm thanh toán: Phương thức; Phạm vi bảo đảm; Thủ tục thực hiện bảo đảm thanh
toán khi DN không thực hiện thanh toán, Tài liệu chứng minh việc đảm bảo thanh toán theo
quy định đăng ký giao dịch bảo đảm; Cam kết thực hiện nghĩa vụ.
6
Điều kiện phát hành TP không chuyển đổi
- DN hoạt động 01 năm;
- KQKD năm liền trước năm phát hành có lãi;
- Đáp ứng yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn và các hạn chế đối với các ngành nghề kinh doanh
có điều kiện;
- Có phương án phát hành TP được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và chấp thuận.
Điều kiện phát hành TP chuyển đổi hoặc kèm chứng quyền
- Các điều kiện trên;
- Phải thuộc đối tượng được phát hành;
- Đảm bảo tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài;
- Các đợt phát hành TP chuyển đổi phải cách nhau ít nhất (06) tháng.
Thông báo, đăng ký phát hành TP và báo cáo
- Tối thiểu 03 ngày làm việc trước ngày phát hành, gửi thông báo (theo mẫu) cho BTC và
gửi cho cấp có thẩm quyền phê duyệt, chấp thuận phương án phát hành;

- Báo cáo kết quả phát hành: chậm nhất 15 ngày sau khi hoàn tất đợt phát hành báo cáo cho
cơ quan thẩm quyền, BTC;
- Báo cáo tình hình thanh toán lãi, vốn gốc đến khi đáo hạn: chậm nhất 30 ngày sau khi kết
thúc quý II và năm;
- Báo cáo sau khi đến hạn thanh toán vốn gốc + lãi: chậm nhất 15 ngày sau khi đến hạn
thanh toán vốn gốc + lãi;
7
Chương II Thị trường trái phiếu công ty
2.1 Thực trạng thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Cùng với việc thiếu đa dạng về sản phẩm, sự lệch pha giữa các thị trường với nhau
cũng rất lớn. Đơn cử, thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn rất nhỏ so với quy mô của thị
trường cổ phiếu và trái phiếu chính phủ. Tính đến ngày 30/9/2014, quy mô vốn hóa của các
cổ phiếu niêm yết trên HOSE và HNX) đạt 1,2 triệu tỷ đồng, tổng giá trị phát hành trái
phiếu chính phủ đạt 790 nghìn tỷ đồng, trong khi tổng giá trị phát hành trái phiếu doanh
nghiệp chỉ đạt 11,8 nghìn tỷ đồng, bằng 1% vốn hóa thị trường cổ phiếu và bằng 1,5% tổng
giá trị phát hành trái phiếu chính phủ.
Trong khi đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã phát triển rất mạnh tại các thị
trường tài chính tiên tiến trên thế giới như Mỹ, châu Âu, Singapore, Hồng Kông… cả về
quy mô và tính thanh khoản, thậm chí là cao hơn cả thị trường cổ phiếu. Trong khu vực
Đông Nam Á, thị trường trái phiếu nội tệ của các nước như Malaysia, Thái Lan, Philippines,
Indonesia cũng rất phát triển. Tính đến tháng 9/2014, tổng giá trị phát hành trái phiếu doanh
nghiệp của các quốc gia trên lần lượt đạt 136 tỷ USD, 69,5 tỷ USD, 16,5 tỷ USD, 18 tỷ
USD, cao hơn nhiều so với con số 0,56 tỷ USD của Việt Nam.
Bên cạnh đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam hiện giao dịch khá ảm
đạm, các doanh nghiệp niêm yết muốn phát hành trái phiếu doanh nghiệp thường phải kèm
theo điều kiện chuyển đổi sang cổ phiếu (trái phiếu chuyển đổi) mới có thể hấp dẫn nhà đầu
tư. Tuy nhiên, loại trái phiếu này còn tồn tại nhiều hạn chế, như lãi suất tương đối thấp và
các điều kiện chuyển đổi không phải lúc nào cũng thuận lợi mà còn phụ thuộc vào diễn biến
của thị trường cổ phiếu.
Thực tế, nhu cầu đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp vẫn có, nhưng cái khó là tìm

nguồn cung trái phiếu doanh nghiệp đạt được các tiêu chí thông tin, định mức rủi ro của thị
trường. Thống kê cho thấy, chỉ tính riêng các quỹ đầu tư đăng ký thành lập tại Việt Nam
(vẫn tồn tại một lượng lớn các quỹ thành lập ở nước ngoài nhưng hoạt động quỹ ở Việt
Nam), hiện có 24 quỹ đầu tư chuyên nghiệp, với quy mô vốn 13 nghìn tỷ đồng. Ngoài các
quỹ này, còn có các tổ chức tài chính đặc biệt khác như công ty bảo hiểm hoặc ngân hàng -
với nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn từ hệ thống ngân hàng tính đến hết quý III/2014
khoảng 1 triệu tỷ đồng (*), nhưng các tổ chức này vẫn khó khăn trong khâu tìm kiếm các
8
trái phiếu doanh nghiệp đạt đủ các tiêu chuẩn an toàn, thanh khoản, thay thế cho các sản
phẩm trái phiếu truyền thống như trái phiếu chính phủ.
2.1.1 Quy mô đã phát hành
Theo thống kê của Vụ Tài chính Ngân hàng (Bộ Tài chính) tại buổi họp tổng kết năm,
trong năm 2014, trái phiếu chính phủ được phát hành lên đến 248.024 tỷ đồng, tăng 37% so
với năm 2013 và tương đương 6,24% GDP. Trong khi đó, trái phiếu doanh nghiệp (tính
riêng khối lượng phát hành riêng lẻ) chỉ đạt 22.922 tỷ đồng, giảm 33,4% so với năm 2013
và chỉ tương đương chưa tới 1% GDP.
Dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp so với GDP là 2,5%, trong khi dư nợ của trái
phiếu chính phủ so với GDP là 12,84%. Như vậy, thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn rất
khiêm tốn, nếu không muốn nói là bị “lãng quên” so với thị trường trái phiếu chính phủ.
So với năm 2013, thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam trong năm qua có một
số đặc điểm khác biệt như sau:
Thứ nhất, thành phần phát hành đa dạng hơn, trong đó có nhiều gương mặt mới niêm
yết (KBC, VNE, BLF, MSN, NVT, HVG, NBB, NLG, KSS, DIC, FLC ). Ngoài ra, nhiều
doanh nghiệp niêm yết quy mô nhỏ khác cũng đã lên kế hoạch phát hành trái phiếu, nhưng
chưa thực hiện thành công trong năm 2014. Trong khi đó, năm 2013, trong danh sách nhà
phát hành có nhiều tập đoàn lớn, như BIDV, Vingroup, IPA, VIPD… với khối lượng phát
hành rất lớn. Có một số doanh nghiệp quy mô lớn phát hành trái phiếu trong cả 2 năm qua,
như CII, HAG, MSN, Vinacomin, VPBank.
Thứ hai, về khối lượng phát hành, trái phiếu của nhiều doanh nghiệp niêm yết có quy
mô nhỏ thường ở mức thấp, ở mức từ 50 đến 350 tỷ đồng. Trong khi đó, trong năm 2013,

9
ngoại trừ một vài doanh nghiệp phát hành từ 7,5 tỷ đồng đến 20 tỷ đồng, các doanh nghiệp
còn lại đều phát hành trái phiếu với quy mô hàng ngàn tỷ đồng.
Thứ ba, xu hướng phát hành trái phiếu chuyển đổi của các doanh nghiệp niêm yết tăng
lên trong năm 2014. Một số thương vụ lớn có thể kể đến như KBC (1.200 tỷ đồng), CII
(1.128 tỷ đồng), NVT (230 tỷ đồng), KSS (100 tỷ đồng), BLF (50 tỷ đồng) Có một số
doanh nghiệp đã lên kế hoạch phát hành trái phiếu chuyển đổi nhưng chưa thực hiện được
trong năm 2014, như HUT (100 tỷ đồng), TMS (100 tỷ đồng). Hầu hết các thương vụ phát
hành trái phiếu chuyển đổi này đều được thực hiện bằng hình thức phát hành riêng lẻ, với
giá chuyển đổi hấp dẫn có lợi cho người nắm giữ trái phiếu.
2.1.2 Sự cần thiết phải niêm yết trái phiếu doanh nghiệp
Với thực trạng và tồn tại nêu trên, đồng thời áp dụng các kinh nghiệm thực tiễn trên
thế giới, việc đưa trái phiếu doanh nghiệp lên sàn niêm yết là giải pháp tương đối hoàn hảo
cho thị trường, điều này là cấp thiết và cần làm ngay đối với TTCK Việt Nam.
Niêm yết trái phiếu doanh nghiệp sẽ giải quyết được các khuyết tật thị trường về mất
cân xứng thông tin, ngoài các yêu cầu công bố thông tin bắt buộc đối với phát hành trái
phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, việc niêm yết trái phiếu doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện quản lý
và giám sát giữa các thành viên thị trường với nhau thông qua các sở GDCK, hay thậm chí
cả các cơ quan quản lý nhà nước như Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
Thêm nữa, khi chủ trương đưa trái phiếu doanh nghiệp niêm yết được thông qua, việc
hoàn thiện khung pháp lý, cụ thể như thành lập, tổ chức và hoạt động các chủ thể định mức
tín nhiệm độc lập sẽ sớm được ban hành, tạo điều kiện tiên quyết cho thị trường hoạt động
xuyên suốt và hiệu quả.
Cũng giống như cổ phiếu, việc niêm yết trái phiếu doanh nghiệp sẽ giải được bài toán
khó về thanh khoản. Giao dịch tập trung sẽ giúp các nhà đầu tư tìm đến nhau dễ dàng hơn,
với các quy chuẩn trái phiếu được niêm yết cũng làm tăng nhu cầu gặp nhau giữa họ. Thị
trường thứ cấp cũng từ đó mà phát triển mạnh hơn, tăng niềm tin cho nhà đầu tư, thu hút
thêm vốn từ nền kinh tế.
Ngoài rủi ro thanh khoản, rủi ro thanh toán cũng được hạn chế rất lớn khi trái phiếu
doanh nghiệp được niêm yết. Nhiều thành viên thị trường muốn đầu tư vào trái phiếu doanh

nghiệp, nhưng rủi ro thanh toán là rào cản rất lớn, ví như trong hoạt động đầu tư của các tổ
chức như ngân hàng thương mại, rủi ro thanh toán được đưa lên hàng đầu. Trong khi các
10
trái phiếu doanh nghiệp khi niêm yết đòi hỏi thông tin minh bạch hơn và cơ chế thanh toán
tập trung thống nhất, tạo niềm tin và có cơ sở cho việc thanh toán khi đến hạn.
Vì vậy, niêm yết trái phiếu doanh nghiệp sẽ tạo thêm niềm tin cho nhà đầu tư, thu hút
lượng vốn lớn nhàn rỗi trong nền kinh tế và cả dòng vốn từ bên ngoài, tăng hiệu quả sử
dụng nguồn vốn cho nền kinh tế. Niêm yết trái phiếu còn giúp mở rộng hoạt động sản xuất -
kinh doanh cho doanh nghiệp, tăng lợi nhuận, tạo thêm việc làm và góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
2.2 Phát hành trái phiếu quốc tế của các công ty
Các doanh nghiệp hiện nay của nhiều lĩnh vực quan trọng đang rất cần nguồn vốn
lớn, với thời gian dài. Trong khi đó nguồn vốn ngân hàng là nguồn vốn thương mại, có tính
ngắn hạn nên khó có thể huy động khối lượng đầu tư dài hạn. Về phía chính phủ cùng bộ tài
chính cũng có chủ trương không hạn chế phát hành trái phiếu ra quốc tế của các công ty
miễn là đảm bảo đủ các quy định về tài chính hiện hành.
Giai đoạn từ sau khi gia nhập WTO cũng là thời điểm thích hợp cho các doanh nghiệp phát
hành trái phiếu quốc tế
+ Kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh, triển vọng kinh tế được đánh giá cao đặc biệt sau
khi gia nhập WTO là những lý do khiến các nhà đầu tư quốc tế xem thị trường Việt Nam
như một điểm đến đầy hấp dẫn.
+ Sau sự đón nhận nồng nhiệt cho lần phát hành trái phiếu đầu tiên của Trái phiếu Chỉnh
Phủ. Các nhà đầu tư quốc tế đang mong đợi trái phiếu của các công ty Việt Nam. Đặc biệt là
các loại trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu.
+ Chính phủ Việt Nam có chủ trương đã phát hành trái phiếu lần đầu vào năm 2005 thu hút
ngoại tệ cũng như tạo đà cho các công ty trong nước tự mình tiến vào thị trường vốn quốc
tế. Vì vậy trong quá trình tiếp thị chào hàng trái phiếu chính phủ để tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận và học hỏi kinh nghiệm, nhà nước cho phép những đơn vị
đang có kế hoạch phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế - tham gia như
Ngân hàng BIDV, Ngân hàng Công Thương, Tập đoàn TKV…

Kế hoạch chuẩn bị từ phía doanh nghiệp
+ Cùng với sự thành công phát hành trái phiếu quốc tế của chính phủ và các yếu tố thuận lợi
đã khiến nhiều doanh nghiệp VN nghĩ đến khả năng huy động vốn trên thị trường quốc tế vì
đây là thời điểm khá thích hợp. Tính đến hiện tại một số doanh nghiệp lớn có tên tuổi của
11
Việt Nam đã phát hành thành công trái phiếu ra quốc tế như Vincom, Hoàng Anh Gia Lai,
Ngân hàng Công thương với số tiền thu được đáng kể và sau khi phát hành được niêm yết
trên các sàn chứng khoán tên tuổi như sàn Singapore, Luân Đôn.
12
Chương III Đánh giá và giải pháp
3.1. Nhận định đánh giá về thị trường trái phiếu Việt Nam
3.1.1. Thành tựu
Thị trường trái phiếu Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nhất định.
Hệ thống văn bản pháp lý cho hoạt động của thị trường ngày càng được hoàn thiện, hạ tầng
kỹ thuật, hệ thống giao dịch, lưu ký, giám sát cũng liên tục được thiết lập, cải tiến với mục
tiêu xây dựng một thị trường trái phiếu chuyên biệt và thể hiện được vai trò của mình trên
thị trường vốn.
Quy mô thị trường đã tăng mạnh từ 2,8% GDP (năm 2001) đến 20,14% GDP năm
2010 và lên tới 21,6% GDP vào cuối năm 2012, trong đó trái phiếu chính phủ (TPCP) và
trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh chiếm khoảng 15,7% GDP, trái phiếu doanh nghiệp
(TPDN) chiếm khoảng 5,56% GDP và một phần nhỏ còn lại là trái phiếu chính quyền địa
phương (TPCQĐP).
Với mục tiêu xây dựng và phát triển thị trường trái phiếu một cách bền vững, đảm
bảo an toàn hệ thống và từng bước tiếp cận các thông lệ, chuẩn mực quốc tế để trở thành
một kênh huy động vốn an toàn, hiệu quả cho nền kinh tế, ngày 01/2/2013, Bộ Tài chính đã
ban hành Quyết định 261/QĐ-BTC phê duyệt Lộ trình phát triển thị trường trái phiếu Việt
Nam đến năm 2020.
Theo đó: (i) Tăng tỷ trọng dư nợ trái phiếu/GDP từ 18% (năm 2011) lên khoảng 38%
GDP (năm 2020) trong đó dư nợ TPCP đạt khoảng 22% GDP và trái phiếu được Chính phủ
bảo lãnh đạt khoảng 8% GDP, dư nợ TPCQĐP đạt khoảng 1% GDP; và dư nợ TPDN đạt

khoảng 7% GDP; (ii) Kéo dài kỳ hạn vay qua phát hành TPCP trong nước giai đoạn 2011 -
2015 trung bình khoảng từ 4 - 6 năm và giai đoạn 2016 - 2020 lên khoảng từ 6 - 8 năm; (iii)
Tăng tỷ trọng TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh do khối các công ty bảo hiểm, quỹ
hưu trí, công ty quản lý quỹ nắm giữ từ mức 12% (năm 2011) lên mức 20% (năm 2020);
(iv) Tăng khối lượng giao dịch trái phiếu giao ngay bình quân phiên từ mức khoảng 0,2%
dư nợ trái phiếu niêm yết (năm 2011) lên mức khoảng 0,3 - 0,4% dư nợ trái phiếu niêm yết
(năm 2020).
Tuy nhiên, trong thời gian tới, để phát triển thị trường trái phiếu cũng như đạt được
các mục tiêu đã đề ra theo đúng lộ trình, còn có rất nhiều vấn đề đặt ra về cơ cấu thị trường,
13
về sản phẩm cũng như nhà đầu tư, thị trường thứ cấp có mức thanh khoản thấp, hệ thống
trung gian tài chính chưa chuyên nghiệp.
3.1.2. Hạn chế
Thị trường TPDN còn kém phát triển
Quy mô thị trường chính là yếu tố đầu tiên để đánh giá thị trường đó có phát triển hay
không. Tại Việt Nam, sau hơn 10 năm hoạt động, thị trường trái phiếu đã có mức tăng
trưởng tốt, bình quân hàng năm giai đoạn 2001 - 2011 đạt hơn 40%, có thời điểm còn đạt
mức tăng trưởng cao nhất so với các quốc gia khác trong khu vực.
Tuy nhiên, nếu tính theo tiêu chí tổng dư nợ trên GDP thì quy mô thị trường vẫn còn
thấp so với một số quốc gia có trình độ phát triển hơn như Thái Lan, Malaysia… Tổng dư
nợ thị trường trái phiếu tính tới tháng 3/2013 tại Thái Lan là 75% GDP, tại Malaysia là gần
110% trong khi con số này tại Việt Nam chỉ trên 20%.
Hiện nay, sản phẩm trên thị trường trái phiếu chủ yếu được chia thành 2 loại là TPCP
(bao gồm cả trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và TPCQĐP) và TPDN. Với vai trò là
kênh huy động vốn trung - dài hạn cho nền kinh tế, tỷ lệ giữa TPCP và TPDN thường không
chênh lệch quá nhiều tại các quốc gia có thị trường tài chính phát triển. Nhưng tại Việt Nam
thì tỷ lệ này có mức chênh lệch khá rõ ràng, phản ánh sự chi phối thị trường đến từ phân
khúc TPCP.
3.1.3. Nguyên nhân:
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc thị trường TPDN có quy mô nhỏ, chưa phát triển

so với TPCP hay rộng hơn là so với thị trường TPDN của các nước khác. Các nguyên nhân
này đến từ nhiều phía, có thể chia thành 4 nguyên nhân chính:
- Nguồn cung: sản phẩm TPDN trên thị trường chưa nhiều, chủ yếu do các doanh nghiệp
Nhà nước hay tổ chức tín dụng phát hành, tập trung vào 2 loại hình chính là trái phiếu thông
thường và trái phiếu chuyển đổi (với công ty cổ phần); Chưa phát hành thành công trái
phiếu có kỳ hạn dài. Trên thị trường vốn, nguồn vốn ngắn hạn chủ yếu được cung cấp bởi
hệ thống NHTM, trong khi thị trường chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu) sẽ cung cấp nguồn
vốn trung và dài hạn. Theo thống kê trên thị trường quốc tế, kỳ hạn thông thường của trái
phiếu là khoảng 3 - 10 năm, cá biệt có những đợt phát hành với kỳ hạn lên tới 10 - 30 năm.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay ở Việt Nam cho thấy thị trường trái phiếu chưa thực sự là
kênh huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế mà chủ yếu vẫn là các kỳ hạn ngắn. Mặc dù
14
TPCP và TPDN thường được phát hành với các kỳ hạn từ 2 - 15 năm, song tỷ lệ trúng thầu
cao nhất lại là các trái phiếu có kỳ hạn dưới 5 năm, chiếm khoảng 90% khối lượng phát
hành. Điều này cho thấy các nhà đầu tư trên thị trường hiện nay đa số tập trung vào phân
khúc trái phiếu kỳ hạn ngắn, có thể do lo ngại về bất ổn kinh tế vĩ mô khi vấn đề lạm phát
luôn được đặt lên hàng đầu những năm qua, hoặc do nhà đầu tư chưa coi thị trường trái
phiếu là kênh đầu tư chính. Trái phiếu kỳ hạn 10 năm gần đây đã được Kho bạc Nhà nước
và Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) đẩy mạnh phát hành nhưng tỷ lệ trúng thầu
không cao do không nhận được sự quan tâm từ phía nhà đầu tư
- Cầu đầu tư:
Cơ sở nhà đầu tư còn thiếu khi nhà đầu tư chủ yếu trên thị trường trái phiếu hiện nay
là các ngân hàng thương mại. Các đợt phát hành trái phiếu cũng thường là phát hành riêng
lẻ cho một số nhà đầu tư, ít khi đấu thầu rộng rãi. Cơ sở nhà đầu tư chưa đa dạng: Khác với
cổ phiếu, nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu đa phần là các nhà đầu tư tổ chức vì khối
lượng trái phiếu đấu thầu và giao dịch có giá trị lớn nên nhà đầu tư cá nhân, nhà đầu tư nhỏ
lẻ khó có thể đáp ứng được. Tại các quốc gia phát triển, cơ sở nhà đầu tư luôn được đa dạng
hóa, có sự cân đối giữa các nhóm nhà đầu tư nếu muốn duy trì lực cầu đều đặn trên thị
trường. Các nhà đầu tư chủ chốt trên thị trường trái phiếu thường là các công ty bảo hiểm,
các quỹ đầu tư, NHTM… Với thị trường trái phiếu Việt Nam, đã xuất hiện các nhóm nhà

đầu tư tổ chức cơ bản, nhưng mức độ tham gia của các nhà đầu tư này chưa thực sự chuyên
nghiệp. NHTM hiện đang là nhóm nhà đầu tư lớn nhất trên thị trường trái phiếu Việt Nam
khi nắm giữ khoảng trên 80% lượng TPCP. Trong bối cảnh thị trường tín dụng đang gặp
nhiều khó khăn 2 năm gần đây, nguồn vốn từ NHTM được đầu tư mạnh vào thị trường trái
phiếu, giúp cho các đợt phát hành liên tục thành công. Tuy nhiên, nhu cầu đầu tư của các
ngân hàng lại phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh chính là cho vay, khiến nguồn vốn này
không có tính ổn định, có thể giảm xuống đột ngột bất cứ lúc nào và không đem lại sự phát
triển bền vững như mong muốn cho thị trường.
Công ty bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ được coi là một nhà đầu tư tiềm
năng trên thị trường trái phiếu. Các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thường có kỳ hạn dài, cộng
thêm nhu cầu cần phải giữ tỷ lệ an toàn vốn cao, nên các công ty bảo hiểm luôn có một tỷ lệ
nhất định TPCP trong cơ cấu vốn đầu tư của mình.
Nhưng vấn đề ở đây là quy mô thị trường bảo hiểm còn thấp, doanh thu phí bảo hiểm
chỉ đạt khoảng 1,4% GDP vào năm 2012 khiến cho nguồn vốn đầu tư vào thị trường trái
15
phiếu chưa cao. Tổng lượng TPCP và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh mà các công ty
bảo hiểm nắm giữ tính đến năm 2012 cũng chỉ khoảng 33.945 tỷ đồng (chiếm khoảng 5%
tổng dư nợ trái phiếu). Nhóm nhà đầu tư được quan tâm tiếp theo là các quỹ đầu tư. Các quỹ
này hiện nắm giữ khoảng 6 - 7% dư nợ trái phiếu, phân bổ tới những loại hình quỹ khác
nhau trong và ngoài nước. Rào cản lớn nhất ngăn các nhà đầu tư nước ngoài (đầu tư nước
ngoài) tham gia vào thị trường trái phiếu Việt Nam có lẽ là sự hạn chế về mặt sản phẩm, đặc
biệt là sản phẩm phái sinh liên quan đến tỷ giá. Trung gian tài chính: Việt Nam vẫn chưa có
một tổ chức định mức tín nhiệm (CRA) chuyên nghiệp nhằm tạo niềm tin cho nhà đầu tư
khi đánh giá về doanh nghiệp phát hành;
- Khuôn khổ pháp lý: Nghị định 90/2011/NĐ-CP về phát hành TPDN ra đời năm 2011
thay thế cho Nghị định 52/2006/NĐ-CP trước đó mặc dù đã tạo được hành lang pháp lý
thông thoáng hơn cho việc phát hành nhưng vẫn cần tiếp tục hoàn thiện cho phù hợp với
tình hình thực tế. Nhưng vấn đề ở đây là quy mô thị trường bảo hiểm còn thấp, doanh thu
phí bảo hiểm chỉ đạt khoảng 1,4% GDP vào năm 2012 khiến cho nguồn vốn đầu tư vào thị
trường trái phiếu chưa cao. Tổng lượng TPCP và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh mà

các công ty bảo hiểm nắm giữ tính đến năm 2012 cũng chỉ khoảng 33.945 tỷ đồng (chiếm
khoảng 5% tổng dư nợ trái phiếu).
Nhóm nhà đầu tư được quan tâm tiếp theo là các quỹ đầu tư. Các quỹ này hiện nắm
giữ khoảng 6 - 7% dư nợ trái phiếu, phân bổ tới những loại hình quỹ khác nhau trong và
ngoài nước. Rào cản lớn nhất ngăn các nhà đầu tư nước ngoài (đầu tư nước ngoài) tham gia
vào thị trường trái phiếu Việt Nam có lẽ là sự hạn chế về mặt sản phẩm, đặc biệt là sản
phẩm phái sinh liên quan đến tỷ giá.
3.2.Một số giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam
Để đạt được những mục tiêu như Quyết định 261/QĐ-BTC đã đề ra đòi hỏi cần phải
có một chiến lược nhất quán, đồng thời phát triển thị trường sơ cấp cũng như thứ cấp, hệ
thống khuôn khổ pháp lý và các dịch vụ trung gian tài chính nhằm đưa thị trường hướng tới
chuẩn mực quốc tế. Bên cạnh đó, cần chú trọng đến những vấn đề sau:
3.2.1. Hoàn thiện cấu trúc thị trường TPCP
TPCP đóng vai trò quan trọng trong phát triển thị trường vốn Việt Nam. Tỷ lệ của
TPCP (bao gồm cả TPCP bảo lãnh và TPCQĐP) trên tổng dư nợ trái phiếu của Việt Nam
lên tới 85%, tương đương với thị trường một số nước đang phát triển trong khu vực như
16
Philippines, Indonesia, Thái Lan. Cơ sở hạ tầng của thị trường trái phiếu đã được cải tiến và
hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư, thúc đẩy quá trình đăng ký, lưu ký, giao dịch
và niêm yết trái phiếu trên thị trường thứ cấp nhằm tăng tính thanh khoản của trái phiếu.
Từ ngày 18/3/2013, hệ thống giao dịch TPCP phiên bản 2 và hệ thống Đường cong
lợi suất TPCP đã được đưa vào vận hành và hoạt động ổn định về cơ bản, không ghi nhận
lỗi phát sinh, thành viên đã tham gia chào mua, chào bán trên cả hai hệ thống (giao dịch và
Đường cong lợi suất).
Đây là cơ sở quan trọng để hoàn thiện thị trường nợ và tạo tiêu chuẩn cho cả thị
trường cổ phiếu. Ngoài ra, nhằm đa dạng hóa các công cụ nợ, Bộ Tài chính đã thí điểm phát
hành TPCP có kỳ hạn 10 năm (tổ chức định kỳ 1 lần/tháng) từ năm 2012 và đã bắt đầu phát
hành TPCP kỳ hạn 15 năm trong năm 2013. Mặc dù vậy, thị trường TPCP vẫn còn tồn tại
một số vấn đề như: (i) Trái phiếu có kỳ hạn ngắn (dưới 5 năm) chiếm tỷ trọng chi phối; (ii)
Thanh khoản thấp trên thị trường trái phiếu thứ cấp; (iii) Cơ sở nhà đầu tư chưa đa dạng,

chủ yếu là các NHTM.
Vì vậy, để tiếp tục phát triển thị trường TPCP theo Lộ trình phát triển thị trường trái
phiếu đến năm 2020, cần hoàn thiện cấu trúc thị trường TPCP, trước hết, cần tăng tỷ trọng
trái phiếu trung và dài hạn trong cơ cấu thị trường, kéo dài kỳ hạn vay qua phát hành TPCP
trong nước giai đoạn 2011 - 2015 trung bình khoảng từ 4 - 6 năm và giai đoạn 2016 - 2020
lên khoảng từ 6 - 8 năm. Để thực hiện được điều này, thị trường trái phiếu cần phải phát
triển ở mức cao hơn, đồng thời có sự ổn định về kinh tế vĩ mô, giúp các nhà đầu tư có niềm
tin vào trái phiếu có kỳ hạn dài. Ban đầu có thể phát hành thí điểm trái phiếu có kỳ hạn dài
lên tới 30 năm, hướng tới các nhà đầu tư là công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí để thị trường làm
quen với loại trái phiếu này.
Bên cạnh đó, cần tăng cường thanh khoản trên thị trường thứ cấp. Về mặt nền tảng,
có thể tiến hành cải tiến hệ thống giao dịch TPCP và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh tại
Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), phù hợp với bản chất của giao dịch trái phiếu.
Về mặt kỹ thuật, cần nghiên cứu ban hành những chuẩn mực về giao dịch như hợp đồng
Repo mẫu, tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các nhà đầu tư trên thị trường tiến hành giao dịch.
Việc phát triển thị trường mua bán lại với TPCP làm tài sản thế chấp cũng sẽ góp
phần thúc đẩy sự phát triển trên thị trường trái phiếu sơ cấp. Ngoài ra, cũng có thể tiến hành
nghiên cứu phương thức giao dịch trái phiếu trước khi đấu thầu (When - issued) giống như
17
tại một số thị trường phát triển như Nhật, Mỹ, Singapore cho phép nhà đầu tư xác định được
một mức giá hợp lý trước khi tham gia vào thị trường sơ cấp.
3.2.2. Phát triển thị trường TPDN
Thị trường TPDN là một thị trường bộ phận quan trọng của thị trường trái phiếu với
chức năng chính là một kênh huy động vốn "dự trữ" cho doanh nghiệp, tránh tình trạng quá
phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Trong thời gian gần đây, mặc dù thị trường
tín dụng đang được siết chặt lại, nhưng thị trường TPDN vẫn chưa có dấu hiệu khởi sắc.
Năm 2012, chỉ có 43 doanh nghiệp đăng ký phát hành trái phiếu với tổng giá trị đạt 33.737
tỷ đồng và phát hành thành công 24.328 tỷ đồng, chỉ bằng xấp xỉ 15% lượng vốn mà TPCP
và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh huy động được.
Các đợt phát hành thành công cũng tập trung vào những doanh nghiệp lớn như

Vingroup hay NHTM cổ phần Công thương. Vì vậy, cần phải có những giải pháp phù hợp
để trước mắt là tăng tỷ trọng dư nợ TPDN/GDP lên 7% GDP vào năm 2020 theo Lộ trình
phát triển và xa hơn nữa là xây dựng thị trường TPDN thực hiện hiệu quả vai trò của mình.
Từ quá trình phát triển thị trường TPDN của các quốc gia như Malaysia (dư nợ
TPDN chiếm 42% GDP) hay Hàn Quốc (dư nợ TPDN chiếm 75% GDP) có thể thấy một số
điểm quan trọng mà Việt Nam cần tập trung trước tiên như:
Trước hết, phải minh bạch hóa thông tin về doanh nghiệp, các đợt phát hành, cách
thức sử dụng vốn huy động thông qua một hệ thống thông tin trái phiếu (tương tự Hệ thống
công bố thông tin trái phiếu BIDS - Bond Information Dissemination System của Malaysia).
Để thực hiện yêu cầu này, đòi hỏi trên thị trường phải có những tổ chức định mức tín nhiệm
hay công ty giám sát độc lập.
Kinh nghiệm của các quốc gia ASEAN chỉ ra rằng sự có mặt của những tổ chức định
mức tín nhiệm tốt là một yếu tố quan trọng trong việc định giá. Tuy nhiên, những tổ chức
định mức tín nhiệm địa phương lại sử dụng phương pháp đánh giá có nhiều khác biệt so với
quốc tế, chưa xây dựng được những chi tiết như lịch trình hoạt động của doanh nghiệp,
trong khi các tổ chức định mức tín nhiệm quốc tế chỉ thực hiện đánh giá các doanh nghiệp
lớn phát hành ở phạm vi quốc tế.
Vì vậy, các cơ quan chức năng có thể nghiên cứu việc áp dụng một chuẩn mực chung
về phương pháp đánh giá cho các tổ chức định mức tín nhiệm, giúp các nhà đầu tư dễ dàng
có cơ sở đánh giá, so sánh việc đầu tư vào các quốc gia trong khu vực.
18
Ngoài ra, cũng có thể nghiên cứu xây dựng một tổ chức định mức tín nhiệm khu vực.
Việc giám sát các công ty kiểm toán bởi một tổ chức độc lập cũng đang được thực hiện tại
nhiều quốc gia. Tại Malaysia, một đạo Luật được thông qua năm 2009 đã thành lập Hội
đồng Giám sát Kiểm toán, bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 4/2010. Hội đồng này sẽ trực
tiếp giám sát các CTKT, hỗ trợ Ủy ban Chứng khoán trong việc quản lý chất lượng báo cáo
của các CTKT.
Bên cạnh đó, cần đa dạng hóa nguồn cung sản phẩm trên thị trường ngoài trái phiếu
trả lãi định kỳ và trái phiếu chuyển đổi. Các doanh nghiệp có thể nghiên cứu phát triển thêm
các loại chứng khoán có đảm bảo như chứng khoán hóa nợ vay bất động sản (MBS), chứng

khoán đảm bảo bằng tài sản (ABS)…
Ngoài ra, còn có thể phát hành Kỳ phiếu trung hạn (MTN - Medium Term Note). Tại
Trung Quốc, sau khi MTN được phát hành lần đầu tiên vào năm 2008, doanh số phát hành
của loại sản phẩm này đã tăng nhanh chóng, đạt 689 tỷ Nhân dân tệ vào năm 2009, tăng
trưởng hơn 300% so với năm trước. Tỷ trọng của MTN trong tổng dư nợ TPDN cũng tăng
từ 21% vào năm 2008 lên tới 44% vào năm 2009. Ngoài ra, nhu cầu về sản phẩm phái sinh,
nhất là phái sinh tỷ giá rất được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm để phòng ngừa rủi ro.
Ngoài ra, kinh nghiệm thực tế cho thấy, khi kinh tế càng khó khăn thì nhà đầu tư sẽ
tìm đến với các kênh đầu tư an toàn như TPCP thay vì TPDN. Do vậy, để có thể phát triển
thị trường TPDN, cần phải tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả bởi nếu doanh nghiệp không có tiềm lực kinh tế, hoạt
động kinh doanh thua lỗ và không tạo dựng được lòng tin đối với giới đầu tư thì việc huy
động vốn qua thị trường trái phiếu của doanh nghiệp vẫn sẽ gặp khó khăn, thị trường TPDN
theo đó cũng sẽ không thể phát triển được.
3.2.3 Đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư
Hệ thống nhà đầu tư đa dạng là một yếu tố quan trọng trên thị trường, hoàn toàn phù
hợp với mục tiêu phát triển cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Tại các quốc gia khác
trong khu vực, đối tượng tham gia trên thị trường trái phiếu bao gồm nhiều loại hình nhà
đầu tư như tổ chức an sinh xã hội, công ty bảo hiểm, tổ chức tài chính với NHTM là trụ
cột đầu tư chính. Chẳng hạn như tại Malaysia, các NHTM nắm giữ tới 43% dư nợ TPCP,
tiếp đến là nhà đầu tư nước ngoài và các tổ chức an sinh xã hội (lần lượt nắm giữ 31% và
20% dư nợ TPCP). Các công ty bảo hiểm và cơ quan Nhà nước chỉ nắm giữ một phần nhỏ
trái phiếu phát hành.
19
Để phát triển cơ sở nhà đầu tư, nhiệm vụ đầu tiên đối với Việt Nam là cần tăng
cường tính chuyên nghiệp đối với các nhà đầu tư hiện có, sau đó là mở rộng thị trường tới
các nhà đầu tư mới; giảm dần sự phụ thuộc của thị trường vào khối nhà đầu tư là các
NHTM, tăng tỷ trọng TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh do khối các công ty bảo
hiểm, quỹ hưu trí, Công ty Quản lý quỹ nắm giữ từ mức 12% (2011) lên mức 20% (2020).
Từ mục tiêu đó, có thể đưa ra một số giải pháp phù hợp như sau:

Sửa đổi Quyết định số 04/2011/QĐ-TTg cho phép Bảo hiểm xã hội được đầu tư vào
TPDN theo một tỷ lệ nhất định;
Tăng cường việc đầu tư vào thị trường trái phiếu của công ty bảo hiểm và Công ty
Quản lý quỹ;
Khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư khác như Bảo hiểm tiền gửi, quỹ hưu
trí, quỹ đầu tư trái phiếu, nhà đầu tư cá nhân;
Tăng hiệu quả sử dụng đồng vốn của các định chế tài chính khác (SCIC, DATC)
bằng cách đặt ra quy định hạn chế các tổ chức này gửi tiền mà phải đầu tư vào trái phiếu.
Ngoài ra, nhóm nhà đầu tư khá quan trọng mà trên thị trường trái phiếu Việt Nam còn thiếu,
đó chính là các nhà đầu tư tổ chức nước ngoài. Theo kinh nghiệm phát triển thị trường trái
phiếu của các quốc gia ASEAN, trong năm loại sản phẩm phái sinh chính (tỷ giá, lãi suất,
cổ phiếu, hàng hóa, tín dụng), sản phẩm phái sinh tỷ giá có mức tăng trưởng mạnh mẽ nhất.
Nguyên nhân là do các nhà đầu tư tổ chức thường lo ngại về rủi ro tỷ giá mỗi khi đầu tư ra
nước ngoài.
Vì vậy, nếu muốn thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, ngoài một số ưu đãi
về thuế để khuyến khích họ tham gia, cần tập trung phát triển thị trường về chiều sâu, đa
dạng hóa sản phẩm, cũng như dịch vụ trên thị trường nhằm giúp các nhà đầu tư tổ chức
giảm thiểu rủi ro khi đầu tư vào Việt Nam.
3.2.4. Hoàn thiện cơ chế chính sách cho sự phát triển của thị trường TPCP và TPDN
Tiềm năng phát triển thị trường trái phiếu của Việt Nam vẫn còn rất lớn, do vậy, để
khơi thông thị trường này, cần hoàn thiện cơ chế chính sách theo hướng:
Xây dựng và ban hành các cơ chế chính sách về việc thành lập, tổ chức và hoạt động
của công ty định mức tín nhiệm tại thị trường trong nước; quỹ hưu trí bổ sung tự nguyện.
Sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách về phát hành TPCP, trái phiếu được Chính
phủ bảo lãnh và TPCQĐP theo hướng thống nhất địa điểm đấu thầu TPCP tại HNX, thiết
20
lập cơ chế nhà tạo lập thị trường trên cả thị trường sơ cấp và thứ cấp TPCP và cơ chế thanh
toán trái phiếu qua Ngân hàng Nhà nước nhằm tạo sự thống nhất của thị trường.
Sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách về phát hành TPDN theo hướng rà soát lại điều
kiện phát hành trái phiếu trên cơ sở xem xét việc quy định bắt buộc có hệ số tín nhiệm đối

với các đợt phát hành trái phiếu tại thị trường trong nước sau khi cơ chế về xếp hạng tín
nhiệm được ban hành.
Xây dựng cơ chế phối hợp giữa việc phát hành tín phiếu NHNN và phát hành tín
phiếu kho bạc nhằm đảm bảo sự phát triển thống nhất của thị trường và tăng cường sự phối
hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
3.2.5. Phát triển thị trường thứ cấp
Tiếp tục hỗ trợ thị trường thứ cấp phát triển thông qua việc nghiên cứu:
- Các mô hình giao dịch thứ cấp khác trên thế giới, bao gồm hệ thống công nghệ thông tin,
cơ chế thanh toán, lưu ký, cơ chế báo cáo;
- Các giải pháp để xác định thời điểm phát sinh giao dịch thực tế, phân biệt giữa giao dịch
Repo và giao dịch Outright để đảm bảo thống kê giao dịch phản ánh chính xác cả về thời
điểm và bản chất giao dịch trên thị trường thứ cấp;
- Tiếp tục giảm thời gian thực hiện đăng ký, lưu ký, niêm yết trái phiếu từ T+4 xuống T+3.
- Xây dựng hệ thống thanh toán bù trừ theo mô hình đối tác trung tâm.
- Nghiên cứu, hoàn thiện các chính sách thuế và phí ưu đãi hơn đối với TTTP.
3.2.6. Thu hút nhà đầu tư nước ngoài:
Nghiên cứu chính sách thu hút nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường thông qua
cơ chế về thuế và công cụ phòng ngừa rủi ro.
Kết luận
Thị trường trái phiếu công ty sau nhiều năm được sự quan tâm định hướng của cơ quan hữu trách đã
có nhiều chuyển biến tăng về quy mô và chất lượng, có định hướng phát hành và niêm yết ra cả thị
trường quốc tế. Tuy nhiên về quy mô của thị trường vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực, thị
trường vẫn còn thiếu nguồn cung, thiếu và yếu về các sản phẩm trên thị trường trái phiếu phái sinh,
ngay cả về hành lang chính sách vẫn chưa hoàn chỉnh. Trong những hạn chế về hiện tại của thị
trường trái phiếu công ty, chúng ta vẫn thấy rõ những tiềm năng phát triển của thị trường. Để có thể
khơi gợi được những tiềm năng phát triển trái phiếu công ty ở một nền kinh tế mới nổi Việt Nam thì
cần sự tham giá tích cực của các thành viên.
21
Tài liệu tham khảo
- Hiệp hội thị trường trái phiếu Việt Nam VBMA, Bản tin thị trường trái phiếu,

/>- Phát hành trái phiếu doanh nghiệp được lợi gì? ( />trai-phieu-doanh-nghiep-duoc-loi-gi-3038781)
- Niêm yết trái phiếu doanh nghiệp: Cũ người mới ta
( />nguoi-moi-ta-111380.html)
- Rộ phát hành trái phiếu doanh nghiệp ( />hanh-trai-phieu-doanh-nghiep.html)
- Thị trường trái phiếu Việt Nam đang đi đúng hướng ( />hang/thi-truong-trai-phieu-viet-nam-dang-di-dung-huong-2014111315184956013.chn)
- Hồng Minh, Trái phiếu doanh nghiệp dài hạn liệu đã "chín"? ( />nghiep/trai-phieu-doanh-nghiep-dai-han-lieu-da-chin-2014122900083293717.chn)
-Linh Anh, Trái phiếu Doanh nghiệp: 3 xu hướng sẽ phát triển ở Việt Nam
( />nam-2014111715485416016.chn)
- Trái phiếu kỳ hạn trên 5 năm: Bán cái thị trường chán!
( />truong-chan.aspx)
-
22

×