Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

Tìm ra các giải pháp cho vấn đề thâm hụt ngân sách và nợ công của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 58 trang )

DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH
 DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Bội chi NSNN 2001-2012
Bảng 2.2: Phân loại loại nợ nước ngoài của Chính phủ theo lãi suất tính đến hết 31/12/2010.
Bảng 2.3: Cán cân vãng lai của Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010
Bảng 3.: Xếp hạng cơ sở hạ tầng của Việt Nam trên 142 quốc gia.
 DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Khu vực công và các thành phần của nó
Hình 1.2: Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và nợ công
Hình 1.3: Lợi suất TPCP Hy Lạp (1 năm)
Hình 1.4: Nợ chính phủ tại một số quốc gia trong khối OECD 1995 – 2010 (% GDP)
Hình 1.5: Tổng chi tiêu, nguồn thu từ thuế và TPCP của Nhật Bản 1975-2010 (nghìn tỉ Yên)
Hình 1.6: Lãi suất trái phiếu chính phủ Nhật Bản và Hy Lạp 1998-2011 (%)
Hình 2.1: Các nguồn thu trong NSNN Việt Nam 2003 – 2012 (%GDP)
Hình 2.2: Cơ cấu thu NSNN 2003-2012 phân theo từng khu vực (% tổng thu)
Hình 2.3: Đóng góp vào GDP theo từng khu vực 2001-2010 (%)
Hình 2.4: Tỷ trọng thu từ dầu thô (%)
Hình 2.5: Cơ cấu chi cân đối NSNN 2003 – 2012 (% GDP)
Hình 2.6: Quy mô thu – chi NSNN và thâm hụt NSNN (%)
Hình 2.7: Tỷ lệ nợ công trên GDP (%) của Việt Nam từ 2004 – 2014
Hình 2.8: Nợ công của Việt Nam từ năm 2001 - 2010
Hình 2.9: Tỷ lệ Nợ công nước ngoài/Nợ công và Nợ công nước ngoài/Dự trữ ngoại hối
Hình 2.10: Cơ cấu nợ công của Việt Nam theo chủ thể đi vay năm 2010
Hình 2.11: Phân loại nợ công nước ngoài của Việt Nam theo chủ thể đi vay 2003 – 2010.
Hình 2.12: Vùng lãi suất trúng thầu của trái phiếu Chính phủ 5 năm.
Hình 2.13: Nợ nước ngoài của Chính phủ có lãi suất cố định giai đoạn 2006 – 2010
Hình 2.14: Dư nợ nước ngoài của Chính phủ phân theo loại tiền giai đoạn 2002 - 2010
Hình 2.15: Biến động Chỉ số CPI của Việt Nam, Mỹ và Chỉ số giá USD 2005 - 2011
Hình 2.16: Diễn biến tỷ giá VND/JPY
Hình 2.17: Nợ công, Cân bằng ngân sách và Nợ công tài trợ ngân sách của Việt Nam
Hình 2.18: Nợ công và cán cân vãng lai của Việt Nam


Hình 2.: Tài khoản vãng lai các thị trường mới nổi năm 2007
Hình 2.20: Đóng góp của vốn, lao động và năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) vào tăng
trưởng GDP thực
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Nguyên nghĩa tiếng Anh Nguyên nghĩa tiếng Việt
ADB Asian Development Bank Ngân hàng Phát triển Châu Á
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
GFS Government Finance Statistics Cẩm nang Thống kê tài chính chính phủ
IMF International Monetary Fund Qũy tiền tệ quốc tế
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NSNN Ngân sách Nhà nước
ODA Official Development Assistance Viện trợ phát triển chính thức
SDR Special Drawing Rights Quyền rút vốn đặc biệt
SNA The System of National Accounts Hệ thống tài khoản quốc gia
TPCP Trái phiếu Chính phủ
UNCTAD
United Nations Conference on Trade
and Development
Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương
mại và Phát triển
UNITAR
The United Nations Institute for
Training and Research
Viện đào tạo và nghiên cứu Liên hiệp
quốc
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Thế giới vừa trải qua cuộc khủng hoảng tài chính 2007 - 2008 và đang trên đà hồi
phục yếu ớt thì lại phải đối mặt với nguy cơ xảy ra khủng hoảng nợ công. Hiện nay, nợ công

không chỉ là vấn đề của các nước chậm phát triển, đang phát triển mà còn là của các nước
phát triển. Mở đầu cho hồi chuông cảnh báo khủng hoảng nợ công là Hy Lạp. Tính đến cuối
năm 2010, nợ công của Hy Lạp đã trên 100% GDP và mất khả năng chi trả. Ngày 21/02/2012,
Eurozone đã thông qua gói cứu trợ thứ hai trị giá 130 tỷ EUR cho Hy Lạp. Tuy nhiên, ngày
21/2, Giám đốc quỹ đầu tư và là tác giả của The Gartman Letter (một bản tin dành riêng cho
nhà đầu tư tại Mỹ), ông Dennis Gartman nhận định gói cứu trợ mới chỉ có thể giúp “Hy Lạp
có thể tránh được vỡ nợ trong vài tuần, hay tối đa là vài tháng”. Ở bên kia châu lục, Tổng
thống Barack Obama ký thông qua dự luật nâng mức trần nợ công sáng 03/08/2011(theo giờ
Việt Nam) và nâng trần nợ công thêm 2.4 ngàn tỷ USD để không rơi vào cảnh vỡ nợ.
Khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách "thắt lưng buộc
bụng" để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng để được nhận sự hỗ trợ cần thiết
từ các tổ chức tín dụng quốc tế, thế nhưng, "thắt lưng buộc bụng" lại dẫn tới những cuộc biểu
tình phản đối của dân chúng - những người bị tác động mạnh nhất từ chính sách cắt giảm
phúc lợi, cắt giảm chi tiêu của Chính phủ, gây căng thẳng, bất ổn chính trị, xã hội.
Mặt khác, trong thời điểm nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi khủng hoảng, bắt đầu
có dấu hiệu phục hồi do kết quả của các gói kích thích kinh tế năm trước đây, thì việc cắt
giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm
tốc độ tăng trưởng, và có thể đẩy nền kinh tế vào "khủng hoảng kép". Tuy nhiên, việc tung ra
các gói kích thích kinh tế chính là một trong những nguyên nhân làm tăng nợ công của các
Chính phủ. Vấn đề đặt ra cho các Chính phủ là phải chèo lái để giải quyết được thâm hụt ngân
sách nhưng không đẩy nền kinh tế trở lại tình trạng suy thoái, trong khi các biện pháp để giải
quyết hai vấn đề này lại mâu thuẫn với nhau.
Bên cạnh đó, khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo
cáo của các tổ chức chuyên đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia khác làm cho niềm tin
của người dân và giới đầu tư bị lung lay. Khi đó, nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công
của các thế lực đầu cơ quốc tế và khủng hoảng tài chính quốc gia chỉ là điều sớm hay muộn.
Vậy, để giữ an toàn, một quốc gia không nên đi vay nợ. Liệu điều này có đúng hay không?
Một công ty chỉ sử dụng vốn tự có của mình mà không vay nợ thì cơ cấu vốn của công
ty đó không tối ưu. Nếu coi Chính phủ là một công ty cung cấp hàng hóa công cho dân chúng,
5

thì công ty này có doanh thu hàng năm từ thuế và có thể xây dựng cấu trúc vốn bằng vốn tự
có và vay nợ. Một giám đốc tài chính giỏi sẽ không bao giờ chấp nhận chỉ sử dụng vốn tự có
mà không đi vay nếu chi phí sử dụng nợ vay rẻ hơn chi phí sử dụng vốn tự có. Thông thường
chi phí vay nợ của Chính phủ rẻ hơn các công ty tư nhân vì lãi suất trái phiếu Chính phủ là
thấp nhất. Trong khi đó, chi phí cho vốn tự có của Chính phủ lại cao hơn của khu vực tư nhân
vì Chính phủ chỉ có thể "huy động" vốn thông qua tăng thuế, điều này có giới hạn nhất định
và có những ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Tất nhiên chi phí vay nợ không phải lúc nào
cũng thấp nếu nợ vượt quá một giới hạn cho phép và cấu trúc vốn tối ưu của công ty cũng chỉ
có một.
Do đó, vay nợ không phải là không tốt mà quan trọng là một quốc gia cần có một
chiến lược đi vay hợp lý và không để lại gánh nặng nợ nần cho thế hệ tương lai. Thế giới đang
gióng lên hồi chuông cảnh báo khủng hoảng nợ công. Qua báo cáo nghiên cứu này, nhóm tác
giả muốn đưa ra cái nhìn tổng quát về thâm hụt ngân sách và nợ công ở Việt Nam và tìm ra
giải pháp cho Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính của nghiên cứu này là: Tìm ra các giải pháp cho vấn đề thâm hụt ngân
sách và nợ công của Việt Nam. Để đạt được mục tiêu này, nghiên cứu phải giải quyết được
các vấn đề sau:
• Hệ thống cơ sở lý thuyết về thâm hụt ngân sách và nợ công.
• Phân tích thực trạng thâm hụt ngân sách và nợ công của Việt Nam.
• Nhận diện các nguyên nhân dẫn đến tình trạng thâm hụt ngân sách và nợ công của Việt
Nam trong thời gian qua.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của bài viết là thực trạng nợ công và những nguyên nhân dẫn
đến tình trạng nợ công Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Báo cáo nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả đối với phần nghiên cứu
về quy mô và cơ cấu nợ công của Việt Nam; phương pháp nghiên cứu giải thích để nghiên
cứu nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ công tại Việt Nam; phương pháp thống kê được dùng
để xử lý số liệu. Bên cạnh, báo cáo nghiên cứu được trình bày theo phương pháp diễn dịch.

Và, số liệu được thu thập từ các bài nghiên cứu, tạp chí, công bố của các cơ quan Chính phủ,
WB, ADB, IMF trên các website.
6
5. Cấu trúc của nghiên cứu:
Chương 1: Lý thuyết về thâm hụt ngân sách và nợ công
Chương 2: Thực trạng thâm hụt ngân sách và nợ công tại việt nam
Chương 3: Đề xuất giải pháp
7
CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT VỀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH VÀ NỢ CÔNG
1.1. THÂM HỤT NGÂN SÁCH
1.1.1. Ngân sách nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm
Theo Luật ngân sách 2002, “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của
Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một
năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.”
Theo Lý thuyết tài chính tiền tệ, “Ngân sách nhà nước là hệ thống quan hệ kinh tế
trong quá trình phân phối các nguồn tài chính của xã hội để tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ của
nhà nước nhằm thực hiện các chức năng nhà nước”
Như vậy, nói tóm lại, ngân sách nhà nước có thể được hiểu là quỹ tiền tệ quốc gia
dùng để chi tiêu cho các hoạt động chung trong năm của quốc gia.
1.1.1.2. Cơ cấu ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước, xét theo phân cấp chiều dọc, bao gồm ngân sách trung ương và
ngân sách địa phương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các
cấp. Mỗi cấp chính quyền theo lãnh thổ là một cấp ngân sách.
Ngân sách nhà nước, xét theo chiều ngang, bao gồm các khoản thu, chi ngân sách. Thu
ngân sách chủ yếu từ các nguồn: thuế, phí, lệ phí, các khoản đóng góp của các tổ chức, cá
nhân, các khoản viện trợ và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật,… Chi ngân sách
bao gồm: chi phát triển kinh tế- xã hội, quốc phòng- an ninh, bảo đảm hoạt động bộ máy nhà
nước, trả nợ nước ngoài, chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật
1.1.1.3. Vai trò của ngân sách nhà nước

Ngân sách nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế của một quốc gia.
Cụ thể, chúng ta có thể xem xét ở ba khía cạnh: đối với nhu cầu chi tiêu của nhà nước, đối với
nền kinh tế và đối với đời sống xã hội.
Thứ nhất, ngân sách nhà nước là công cụ huy động nguồn tài chính đảm bảo cho các
nhu cầu chi tiêu của chính phủ. Thông qua các nguồn thu chủ yếu như thuế, phí, lệ phí, ngân
sách nhà nước thực hiện vai trò cơ bản trong mô hình kinh tế để tài trợ cho các nhu cầu chi
tiêu công như: đầu tư cơ sở hạ tầng, giáo dục, quốc phòng, chi tiêu cho duy trì bộ máy nhà
nước,…
Thứ hai, vai trò quản lí điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Do những khiếm khuyết vốn có
8
của nền kinh tế thị trường, đòi hỏi phải có mộtcông cụ đủ khả năng điều chỉnh các thành phần
trong nền kinh tế theo một mục tiêu được xác định trước trên cơ sở xem xét tổng thể tình hình
kinh tế quốc gia.Ngân sách nhà nước không chỉ định hướng hình thành và phát triển cơ cấu
kinh tế mà còn tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh, đồng thời không bỏ qua nhiệm vụ
chống độc quyền. Trong những giai đoạn khó khăn, cung cầu mất cân đối gây ảnh hưởng đến
giá cả thị trường, ngân sách nhà nước bằng các công cụ thuế, phí, quỹ dự phòng giúp bình ổn
giá cả, chống lại những biến động gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Ngân sách cũng là một
công cụ quan trọng trong nhiệm vụ chiến lược: kiềm chế lạm quát thông qua chính sách thuế
và chi tiêu của chính phủ.
Thứ ba, vai trò giải quyết các vấn đề xã hội. Bằng sự kết hợp các loại thuế trực thu,
gián thu, các chương trình trợ cấp, hỗ trợ, ngân sách nhà nước điều tiết bớt một phần thu nhập
từ tầng lớp thu nhập cao sang các tầng lớp khó khăn.
1.1.2. Thâm hụt ngân sách
1.1.2.1. Khái niệm
Theo Investopedia, thâm hụt ngân sách là trạng thái sức khỏe tài chính chi ngân sách
vượt quá thu ngân sách.
Trong những năm đầu thế kỷ 20, rất ít các nước công nghiệp thâm hụt ngân sách lớn.
Điều này đã thay đổi trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ nhất, khoảng thời gian mà các
chính phủ vay mượn rất nhiều và cạn kiệt nguồn dự trữ tài chính. Các nước công nghiệp giảm
những khoản thâm hụt cho đến những năm 1960 và 1970 mặc dù nhiều năm tăng trưởng kinh

tế ổn định.
Thâm hụt ngân sách được tính toán như một tỷ lệ phần trăm của GDP có thể giảm
trong thời gian thịnh vượng kinh tế, như tăng thuế, tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn và tăng trưởng
kinh tế làm giảm nhu cầu đối với các chương trình của chính phủ như bảo hiểm thất nghiệp.
Theo Cẩm nang Thống kê tài chính chính phủ (GFS) do Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
phát hành, thâm hụt ngân sách được xác định bởi chênh lệch giữa thu và chi ngân sách
Khi chênh lệch giữa khoản thu (T) và các khoản chi ngân sách (G) nhỏ hơn không (0),
ta nói ngân sách chính phủ thâm hụt
B= T – G (B<0)
Các nước có thể chống thâm hụt ngân sách bằng cách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
giảm chi tiêu chính phủ và tăng thuế. Bằng cách giảm quy định lựa chọn hợp lý và đơn giản
hóa chế độ thuế, một đất nước có thể cải thiện niềm tin kinh doanh, qua đó thúc đẩy các điều
9
kiện kinh tế được cải thiện khi tăng dòng vốn quỹ từ thuế. Giảm chi tiêu chính phủ, bao gồm
các chương trình xã hội, quốc phòng, và các chương trình cải cách được hưởng, như lương
hưu nhà nước, có thể dẫn đến ít vay.
1.1.2.2. Phân loại
Có ba tình trạng thâm hụt ngân sách: thâm hụt ngân sách thực tế, thâm hụt ngân sách
cơ cấu và thâm hụt ngân sách chu kỳ.
 Thâm hụt ngân sách thực tế: là thâm hụt khi số chi thực tế vượt số thu thực tế trong
một thời kỳ nhất định
 Thâm hụt ngân sách cơ cấu: là thâm hụt khi nền kinh tế đang hoạt động ở mức sản
lượng tiềm năng
 Thâm hụt ngân sách chu kỳ: là thâm hụt ngân sách bị động do tình trạng của chu kỳ
kinh doanh. Ví dụ, trong chu kỳ suy thoái kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp tăng khiến cho thu
ngân sách từ thuế giảm trong khi chi cho trợ cấp thất nghiệp tăng.
Mối quan hệ giữa ba trạng thái thâm hụt trên:
Thâm hụt ngân sách chu kỳ= Thâm hụt ngân sách thực tế- Thâm hụt ngân sách cơ cấu
Vì phản ánh được kết quả hoạt động chủ quan của của chính sách tài khoá như : định
ra thuế suất,phúc lợi,bảo hiểm nên thâm hụt cơ cấu thường được sử dụng để xem xét kết

quả.
1.1.2.3. Nguyên nhân thâm hụt
Thâm hụt ngân sách được cấu thành bởi thu và chi ngân sách. Do đó khi phân tích
nguyên nhân thâm hụt chúng ta có thể đi sâu vào phân tích hai thành tố này. Về cơ bản, có thể
chia nguyên nhân thành hai nhóm: chủ quan và khách quan.
Nguyên nhân khách quan xuất phát từ chu kỳ kinh doanh và các nhân tố không mong
muốn như thiên tai, bệnh dịch, chiến tranh,…nằm ngoài dự toán ngân sách. Trong các điều
kiện trên, xã hội không tránh khỏi những rối ren, thất nghiệp tăng, thu từ các nguồn lực giảm
sụt nghiêm trọng dẫn đến bội chi ngân sách là không tránh khỏi.
Nguyên nhân chủ quan đến từ việc thay đổi cơ cấu thu- chi và điều hành ngân sách
nhà nước của các nhà quản lý làm cho nguồn thu ngân sách giảm như: thất thu thuế, đầu tư
công không hiệu quả, các khoản chi công tăng như: chi tiêu không hợp lý,vay nợ nước ngoài
không cân đối nguồn thu trong tương lai, các gói kích cầu của chính phủ…
1.1.2.4. Các chính sách xử lý thâm hụt
Tùy thuộc vào nguyên nhân thâm hụt và tình trạng nền kinh tế chính phủ có thể đưa ra
10
các cách để xử lý thâm hụt.
• Phát hành tiền.
Trong giai đoạn suy thoái, khi sản lượng thực tế thấp hơn sản lượng tiềm năng, chính
phủ có thể phát hành một lượng tiền cơ sở để tài trợ thâm hụt góp phần ổn định hóa kinh tế
mà không làm ảnh hưởng đến lạm phát
Vay nợ trong nước dưới các hình thức phát hành công trái, trái phiếu nhằm huy động
nguồn vốn từ nhiều thành phần trong nền kinh tế, vay từ các chính phủ nước ngoài, các tổ
chức tài chính quốc tế như Ngân hàng thế giới (World Bank), Ngân hàng Phát triển Châu Á
(ADB), Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), nhận các khoản viện trợ như đối với các nước chưa và
đang phát triển.
• Tăng thuế và đảm bảo các khoản thu
Theo nhà kinh tế học Laffer, tồn tại một mức thuế suất tối ưu tại đó thu ngân sách là
lớn nhất. Với đường cong Laffer, ta có thể hiểu khi còn trong giới hạn có thể chịu đựng
được,tăng thuế suất sẽ làm tăng nguồn thu ngân sách nhà nước,đồng thời còn kích thích các

đối tượng mở rộng các hoạt động kinh tế,tăng khả năng sinh lời,một phần nộp ngân sách nhà
nước,còn lại là thặng dư cho mình.Trong trường hợp này,tăng thuế thu nhập không chỉ giảm
bớt áp lực thâm hụt ngân sách mà còn kích thích tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh đó, chính phủ phải đảm bảo hệ thống thu ngân sách phải hoạt động hiệu quả
tránh thất thoát nguồn thu của nhà nước.
• Cắt giảm chi tiêu
Đây là hành động trước tiên mà mỗi chính phủ cần xem xét khi nhà nước đang rơi vào
trường hợp thâm hụt ngân sách. Các nhà lãnh đạo cần tìm mọi cách tiết kiệm triệt để các
khoản đầu tư công, cắt giảm các khoản chi công thường xuyên chưa thực sự cần thiết hoặc
không hiệu quả.
1.1.2.5. Tác động của thâm hụt ngân sách tới các biến số vĩ mô
• Lạm phát
Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát được truyền dẫn thông qua kênh
tiền tệ và kênh cầu kéo.
Khi thâm hụt ngân sách, nếu chính phủ tăng cung tiền để tài trợ sẽ làm mức giá trung
bình tăng lên, gây ra lạm phát. Khi giá cả tăng lên khiến cho mức thâm hụt tăng lên đòi hỏi
phải tiếp tục tăng cung tiền và lạm phát lại càng tăng cao.
Tuy nhiên nếu nền kinh tế đang tăng trưởng và cầu tiền giao dịch tăng theo. Sự gia
11
tăng cung tiền lúc này sẽ được hấp thụ bởi sự gia tăng của cầu tiền và không gây ra sự gia
tăng giá cả hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế. Do vậy trong ngắn hạn, Chính phủ nhiều
nước sẽ tận dụng việc tài trợ thâm hụt ngân sách thông qua tăng cung tiền.
Mặc dù vậy, cũng có nhiều nghiên cứu cho rằng không có bằng chứng đáng kể về mối
quan hệ này như trường hợp của Rosa (2011) dựa trên dữ liệu ngân sách của Bồ Đào Nha giai
đoạn 1974-1995, King & Plosser (1985).
• Lãi suất
Theo Phạm Thế Anh (2014), thâm hụt ngân sách làm giảm tiết kiệm chính phủ, giảm
tiết kiệm quốc gia khiến cung giảm và tăng lãi suất vốn vay trên thị trường.
Trên thế giới, cũng đã có những tranh cãi xung quanh mối quan hệ này. Theo đó có hai
trường phái của Keynes, tân cổ điển và trường phái Ricardo có ý kiến ngược chiều nhau. Theo

Keynes và tân cổ điển, thâm hụt ngân sách và lạm phát có mối quan hệ cùng chiều. Trong khi
đó, một số nghiên cứu sau này như của Evan ( 1985) lại đồng tình với quan điểm của trường
phái Ricardo cho rằng thâm hụt ngân sách không tác động đến lãi suất.
• Thâm hụt thương mại
Theo mô hình Keynes thì trong một nền kinh tế mở, tổng sản phẩm quốc nội (Y) được
xác định bởi công thức:
Y= Tiêu dùng tư nhân+ Chi tiêu chính phủ+ Đầu tư + (Xuất khẩu - Nhập khẩu)
Hay: Y= C + G + I + (X - M)
Tương đương: X - M= Y – C – G – I
Gọi S là tiết kiệm của nền kinh tế, được xác định bằng thu nhập trừ tiêu dùng tư nhân
và chi tiêu chỉnh phủ
S= Y – C – G
Nên: X – M = S – I (1)
Tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm tư nhân (St) và tiết kiệm chính phủ (Sg),
ta xem T: phần thuế phải nộp cho chính phủ
Khi đó: St = Y – T - C, Sg = T – G
Phương trình (1) có thể được viết lại như sau:
X – M = S ¬ t – I + (T – G)
Theo phương trình trên, khi tiết kiệm tư nhân và đầu tư tư nhân ổn định, thâm hụt
12
ngân sách tăng sẽ kéo theo thâm hụt thương mại.
Trong thực tế, có thể thấy thâm hụt ngân sách làm tổng chi tiêu trong nước lớn hơn
sản lượng trong nước, buộc nền kinh tế phải gia tăng nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
gây ra tình trạng thâm hụt thương mại.
• Tăng trưởng
Trường phái tân cổ điển cho rằng thâm hụt ngân sách hiện tại sẽ làm gia tăng gánh
nặng thuế trong tương lai, do đó người tiêu dùng có xu hướng gia tăng tiêu dùng ở hiện tại
khiến tiết kiệm quốc gia giảm và lãi suất tăng. Khi đó, do hiệu ứng lấn át đầu tư, đầu tư giảm
gây nên hiện tượng “thoái lui đầu tư”. Qua đó có thể kết luận, tăng thâm hụt ngân sách ảnh
hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.

Bên cạnh đó cũng có những trường phái đưa ra quan điểm khác. Trường phái Keynes
cho rằng tăng thâm hụt ngân sách có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Khi chính phủ
tăng chi ngân sách thì tổng cầu nền kinh tế tăng khiến các nhà đầu tư tư nhân lạc quan về triển
vọng kinh tế trong tương lai và gia tăng đầu tư. Trong khía cạnh khác, khi chính phủ chấp
nhận mức thâm hụt thông qua việc giảm thu từ thuế sẽ khiến thu nhập khả dụng của hộ gia
đình tăng lên và người dân tăng chi tiêu, tổng cầu hàng hóa dịch vụ tăng. Tuy nhiên, tác động
tích cực này chỉ có ý nghĩa trong điều kiện tổng cầu sụt giảm và trong ngắn hạn.
Trường phái Ricardo lại cho rằng thâm hụt ngân sách không tác động đến tăng trưởng.
Khi thâm hụt ngân sách tăng, tiết kiệm quốc gia bao gồm tiết kiệm tư nhân và tiết kiệm nhà
nước không đổi. Do vậy thâm hụt sẽ không tác động đến tiết kiệm, đầu tư và tăng trưởng.
(Saleh, 2003)
1.2. NỢ CÔNG
1.2.1. Định nghĩa
Theo Luật Quản lý nợ công ban hành năm 2009, nợ công được quy định bao gồm:
a) Nợ chính phủ: là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được
ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ
Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ
không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính
sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
b) Nợ được Chính phủ bảo lãnh: là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín
dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
c) Nợ chính quyền địa phương: là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
13
thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký kết, phát hành hoặc uỷ
quyền phát hành.
Theo World Bank (2002), nợ của khu vực công được định nghĩa là tổng nợ công và nợ
được Chính phủ bảo lãnh, trong đó:
 Nợ công là tổng tất cả các nghĩa vụ nợ trong nước và nước ngoài của khu vực
công bao gồm Chính phủ và các cơ quan Chính phủ; tiểu bang, tỉnh hoặc đơn
vị hành chính tương đương bao gồm các cơ quan của chúng; và các đơn vị nhà

nước tự hoạt động như các doanh nghiệp nhà nước và các công ty con, liên
doanh với khu vực tư nhân nhưng vốn nhà nước vẫn chiếm phần lớn. Nghĩa vụ
nợ của các doanh nghiệp nhà nước bao gồm nợ được đảm bảo và không được
đảm bảo bởi Chính phủ.
 Nợ được Chính phủ bảo lãnh: là tổng của tất cả các nghĩa vụ nợ trong nước và
nước ngoài của khu vực tư nhân được đảm bảo thanh toán bởi một thực thể
công.
Trong một định nghĩa khác, IMF (2011) chia khu vực công theo bảng như sau:
Hình 1.1: Khu vực công và các thành phần của nó
14
KHU VỰC CÔNG
Khu vực Chính
phủ
Chính phủ Trung
ương
Chính quyền liên
bang
Chính quyền địa
phương
Tổ chức công
Tổ chức công phi
tài chính
Tổ chức công tài
chính
Ngân hàng Trung
ương
Các tổ chức nhận
tiền gửi (trừ
NHTW)
Các tổ chức công tài

chính khác
Khu vực tổ chức công phi tài chính gồm các doanh nghiệp nhà nước sản xuất hàng hóa
và cung cấp dịch vụ phi tài chính như hàng không, điện lực, viễn thông… và các tổ chức công
phi lợi nhuận như bệnh viện, trường học, đại học. Tổ chức công phi tài chính không bao gồm
các thực thể nhận viện trợ từ Chính phủ nhưng không được điều hành bởi Chính phủ. Khu
vực tổ chức công tài chính bao gồm các doanh nghiệp nhà nước cung cấp các dịch vụ tài
chính gồm trung gian tài chính, bảo hiểm, quỹ hưu trí.
SNA (2008) định nghĩa tám chỉ tiêu cho thấy một doanh nghiệp có bị kiểm soát bởi
Chính phủ hay không: (1) sở hữu đa số quyền biểu quyết; (2) kiểm soát hội đồng quản trị
hoặc cơ quan kiểm soát khác; (3) kiểm soát việc bổ nhiệm nhân sự; (4) kiểm soát các ủy ban
quan trọng trong tổ chức; (5) cổ phần hoặc quyền chọn ưu tiên cho Chính phủ; (6) các quy
định và kiểm soát; (7) kiểm soát bởi một khách hàng khu vực công hoặc một nhóm các khách
hàng khu vực công; và (8) kiểm soát được kèm theo khi đi vay từ Chính phủ.
Như vậy, định nghĩa về nợ công của World Bank và IMF rộng hơn hơn định nghĩa
theo Luật quản lý nợ công của Việt Nam. Theo Luật quản lý nợ công 2009, nợ công không
bao gồm các khoản nợ của các doanh nghiệp nhà nước trong khi đó theo định nghĩa của
World Bank và IMF đều bao gồm khoản này.
15
Về cơ bản, nợ công được chia thành hai loại gồm nợ trong nước và nợ nước ngoài.
Theo UNCTAD (2008), nợ trong nước và nợ nước ngoài được phân biệt theo ba cách khác
nhau. Thứ nhất là phân biệt theo đồng tiền vay nợ, theo đó nợ nước ngoài được hiểu như nợ
bằng đồng ngoại tệ. Thứ hai, phân biệt theo nơi cư trú của chủ nợ, nợ nước ngoài là nợ sở hữu
bởi các chủ thể không cư trú. Thứ ba, phân biệt theo địa điểm nơi món nợ được phát hành và
luật pháp quy định hợp đồng vay nợ. Theo cách thứ ba, nợ nước ngoài được hiểu là nợ được
phát hành tại nước ngoài và theo quy định của tòa án nước ngoài.
Tuy nhiên, phân biệt nợ trong nước và nợ nước ngoài căn cứ theo nơi cư trú của chủ
thể cho vay nợ được sử dụng rộng rãi và phổ biến nhất. Theo IMF (2011), nợ trong nước là
nghĩa vụ nợ của người cư trú đối với người cư trú khác trong cùng nền kinh tế, nợ nước ngoài
là nghĩa vụ nợ của người cư trú đối với người không cư trú.
1.2.2. Mục đích của nợ công

Theo Luật quản lý nợ công, mục đích vay gồm:
 Đối với Chính phủ: (1) Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi
của ngân sách trung ương theo quy định của Luật ngân sách nhà nước; (2) Bù
đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước từ vay ngắn hạn; (3) Cơ cấu lại
khoản nợ, danh mục nợ chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh; (4) Cho
doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng, chính quyền địa phương vay lại theo
quy định của pháp luật; (5) Các mục đích khác nhằm bảo đảm an ninh tài chính
quốc gia.
 Đối với chính quyền địa phương: chỉ vay để đầu tư xây dựng công trình kết
cấu hạ tầng có nhu cầu cấp bách thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh đảm bảo
theo quy định của Luật ngân sách nhà nước
1.2.3. Rủi ro của nợ công
Rủi ro chính của nợ công là rủi ro thị trường, bao gồm rủi ro lãi suất và rủi ro tỉ giá,
rủi ro tái đầu tư, Các loại rủi ro tác động lên danh mục nợ công phụ thuộc vào thành phần của
nợ công, bao gồm thời hạn vay, điều khoản lãi suất và đồng tiền đi vay nợ.
1.2.3.1. Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là rủi ro gia tăng chi phí nợ từ việc thay đổi lãi suất. Đối với nợ bằng
đồng nội tệ và ngoại tệ, thay đổi lãi suất đều ảnh hưởng lên chi phí dịch vụ của việc phát hành
nợ mới khi khoản nợ với lãi suất cố định được tái đầu tư, và ảnh hưởng lên khoản nợ với lãi
suất thả nổi đang hiện hữu và khoản nợ với lãi suất thả nổi mới. Do đó, khoản nợ ngắn hạn và
16
nợ với lãi suất thả nổi rủi ro hơn nợ dài hạn và lãi suất cố định.
1.2.3.2. Rủi ro tỷ giá
Rủi ro tỷ giá là rủi ro gia tăng chi phí nợ khi tỷ giá bị thay đổi. Khoản nợ bằng đồng
ngoại tệ dễ bị tác động bởi thay đổi tỷ giá.
1.2.3.3. Rủi ro tái huy động vốn
Rủi ro tái huy động vốn là rủi ro phát sinh khi tái huy động vốn ở mức chi phí cao bất
thường, hoặc trong một vài trường hợp nghiêm trọng là không thể tái huy động vốn. Rủi ro tái
huy động vốn khi lãi suất tăng làm chi phí huy động vốn tăng tương tự như rủi ro lãi suất. Tuy
nhiên, người ta thường xem xét riêng rủi ro tái huy động vốn bởi vì rủi ro không thể tái huy

động các khoản nợ đến hạn và/hoặc sự gia tăng chi phí vay nợ của Chính phủ có thể dẫn đến
hoặc làm trầm trọng khủng hoảng nợ công. Ngoài ra, trái phiếu với điều khoản mua lại có thể
làm tăng rủi ro tái huy đông vốn.
1.2.4. Các công cụ nợ
Theo IMF (2011), công cụ nợ là quyền tài chính yêu cầu thanh toán tiền lãi và/hoặc
vốn gốc bởi người đi vay cho người cho vay vào một ngày, hoặc nhiều ngày trong tương lai.
Các công cụ nợ bao gồm:
 Quyền rút vốn đặc biệt (SDR): là đơn vị tiền tệ quốc tế do Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)
phát hành, phân bổ cho các nước thành viên một lượng theo tỉ lệ phần đóng góp vốn
của mình vào IMF.
 Tiền tệ và các khoản tiền gửi.
 Chứng khoán nợ: là các công cụ tài chính như bằng chứng cho các khoản nợ. Các
chứng khoán nợ bao gồm: tín phiếu; chấp phiếu ngân hàng; thương phiếu; chứng chỉ
tiền gửi; trái phiếu và giấy nợ, bao gồm cả trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu;
cổ phần ưu tiên không tham dự chia lãi; chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản …
 Nợ vay: là một công cụ tài chính được tạo ra khi một chủ nợ cho người vay trực tiếp
vay tiền và nhận lại một giấy tờ không thể chuyển nhượng làm bằng chứng của tài sản.
Nợ vay bao gồm: thấu chi, vay thế chấp, vay để tài trợ cho thư tín dụng hoặc khoản trả
trước, hợp đồng mua lại, tài sản và nghĩa vụ tài chính khi cho thuê tài chính…
 Bảo hiểm, hưu trí và các khoản đảm bảo theo chuẩn
 Các khoản phải trả khác
1.2.5. Ảnh hưởng của nợ công
1.2.5.1. Lãi suất
Nợ công cao có thể dẫn đến tăng lãi suất, đặc biệt khi Chính phủ phải cạnh tranh với
khu vực tư nhân trong việc huy động vốn từ người cho vay (Bailey, 2003). Khu vực tư nhân
17
có thể trở nên thiếu vốn và để huy động, họ lại tăng lãi suất vay. Do đó, dẫn đến chi phí vốn
vay gia tăng, và có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng, giảm thu nhập trong tương lai.
Ngoài ra, Sargent và Wallace (1981) hàm ý khoản nợ công lớn có thể gây khó khăn
cho việc giảm lãi suất. Giavazzi và Pagano (1990) chỉ ra rằng có mối liên hệ giữa kỳ hạn nợ

công và lãi suất, kỳ hạn nợ ngắn (dài) có thể kết hợp với lãi suất cao (thấp) dẫn đến rủi ro vỡ
nợ cao (thấp).
1.2.5.2. Lạm phát
Theo Mishkin và Savastano (2000), nợ công gia tăng có thể gây ra quá trình làm tăng
lạm phát. Khi Chính phủ tăng vay nợ bằng phát hành trái phiếu, một mặt làm tăng lãi suất,
một mặt làm tăng tiêu dùng Chính phủ. Lãi suất tăng làm tăng chi phí đầu tư, tăng giá thành
sản xuất, từ đó tăng giá bán sản phẩm, dịch vụ. Tiêu dùng Chính phủ gia tăng dẫn đến cầu
hàng hóa, dịch vụ gia tăng. Từ đó, tăng áp lực lạm phát, tăng trưởng thực giảm xuống.
1.2.5.3. Áp lực trả nợ cho thế hệ tương lai
Theo Bergmann (2009), thâm hụt Chính phủ được tài trợ bởi việc đi vay có thể dẫn
đến nhiều hệ quả xấu:
 Vay nợ trong nước dẫn đến tình trạng khu vực tư nhân bị thiếu hụt đầu tư do một
lượng lớn vốn chuyển sang phục vụ cho chi tiêu Chính phủ. Ngoài ra, Chính phủ phải
trả lãi suất cao hơn, làm cho áp lực trả nợ trong tương lai gia tăng, và Chính phủ bị
giảm sự tự do trong việc sử dụng ngân sách.
 Hệ quả thứ hai đó là chuyển gánh nặng trả nợ cho thế hệ tương lai. Bất kể đó là khoản
vay trong nước hay nước ngoài, nợ vay được sử dụng ở thời điểm hiện tại nhưng
người có áp lực trả nợ là thế hệ tương lai, mà nếu vốn vay Chính phủ không được sử
dụng có hiệu quả thì các thế hệ này hầu như không nhận được lợi ích gì từ việc vay
nợ. Ngoài ra, thế hệ tương lai còn chịu nhiều ảnh hưởng như giảm tốc độ tăng trưởng
kinh tế, giảm thu nhập, giảm tài sản (Bailey, 2003).
1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA THÂM HỤT NGÂN SÁCH VÀ NỢ CÔNG
Theo cẩm nang thống kê tài chính chính phủ GFS, thâm hụt ngân sách bằng mức
chênh lệch giữa tổng số vay mới và số chi trả nợ gốc của NSNN trong năm. Do đó gia tăng
thâm hụt sẽ kéo theo gánh nặng nợ công (ngoại trừ trường hợp chính phủ in thêm tiền)
Khi chính phủ bù đắp thâm hụt ngân sách bằng các khoản vay trong nước, nước ngoài
hoặc in tiền, tổng dư nợ của chính phủ tại thời điểm năm t sẽ bằng dư nợ năm trước cộng
thêm thâm hụt ngân sách năm nay và trừ tổng tiền phát hành bù đắp thâm hụt (nếu có). Theo
đó, nếu trong năm chính phủ không phát hành tiền để bù đắp thâm hụt thì thâm hụt ngân sách
18

Vay bù đắp thâm
hụt ngân sách
tăng
Nợ chính phủ
tăng
Lãi phải trả
tăng
Thâm hụt
ngân sách
tăng
sẽ làm gia tăng về nợ chính phủ đúng bằng mức thâm hụt.
Thâm hụt ngân sách càng kéo dài kéo theo nợ công càng gia tăng. Hậu quả, khoản lãi
phải trả cho khoản vay mượn sẽ càng lớn, khiến nền kinh tế tiếp tục rơi sâu vào trạng thái
thâm hụt ngân sách.
Hình 1.2: Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và nợ công
1.4. KINH NGHIỆM TỪ CÁC QUỐC GIA
1.4.1. Nợ công Mỹ La Tinh
1.4.1.1. Diễn biến khủng hoảng nợ công Mỹ La Tinh
Cuộc khủng hoảng nợ diễn ra ở các quốc gia Mỹ Latinh thập niên 70-80 của thế kỷ
trước được xem là thảm họa lớn nhất trong lịch sử khu vực này, kể từ sau cuộc đại khủng
hoảng những năm 1930. Đây cũng là cuộc khủng hoảng nợ công đầu tiên trong lịch sử kinh tế
hiện đại, thường được biết đến với cái tên Thế kỷ mất mát (Lost Decade), khi đó các quốc gia
trong khu vực này rơi vào cảnh nợ nước ngoài vượt khả năng kiếm tiền và không còn khả
năng trả nợ.
Vào những năm 1960-1970, các nước Châu Mỹ Latinh như Brazil, Argentina và
Mexico thực hiện việc vay mượn quy mô lớn từ các nhà cho vay tín dụng quốc tế để nâng cấp
công nghiệp trong nước, đặc biệt là đầu tư vào các chương trình cải thiện và xây dựng cơ sở
hạ tầng. Bên cạnh đó, với mục tiêu công nghiệp hóa, các quốc gia này phải nhập khẩu nhiều
nguyên vật liệu cũng như công nghệ sản xuất từ nước ngoài, làm tỷ lệ nhập siêu ngày càng
tăng, dẫn đến nhu cầu lớn về nguồn vốn của chính phủ khiến họ phải gia tăng vay mượn từ

các quốc gia phát triển và các tổ chức tài chính quốc tế. Các quốc gia này thời đó lại là những
nước này có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất nhanh, vì vậy các nhà cho vay tín dụng rất tin
tưởng vào khả năng trả nợ. Cũng cần chú ý là, giá dầu mỏ tăng mạnh năm 1973-1974, khiến
19
các nước xuất khẩu dầu mỏ có lượng tiền mặt dồi dào, đã đầu tư tiền của mình vào các ngân
hàng trên thế giới, theo đó các tổ chức tài chính dư dả cho vay với các nước phát triển mà đặc
biệt với các nước Mỹ Latinh với những điều khoản dễ dãi. Giữa năm 1975 và 1982, Châu Mỹ
Latinh nợ các ngân hàng thương mại tăng với tốc độ tích lũy 20,4%/năm. Vay mượn tràn lan
khiến Mỹ latinh bị nợ nhiều gấp 4 lần từ 75 tỉ đôla vào 1975 đến hơn 315 tỉ đôla vào năm
1983, chiếm tới 50% GDP toàn khu vực, kéo theo nợ gốc và lãi vay phải trả tăng từ 12 tỷ
USD lên 66 tỷ USD trong cùng giai đoạn (Kaminsky và Reinhert, 1998).
Khi nền kinh tế thế giới bước vào thời kì suy thoái thập kỉ 70 và 80, đã tác động tiêu
cực đến tăng trưởng và xuất khẩu của các nước này. Các nước đang phát triển còn nhận thấy
việc thiếu trầm trọng về tính lỏng. Vào năm 1979, khi đối diện với sức ép lạm phát lớn, Mỹ
theo đuổi chính sách thắt chặt, dẫn đến lãi sất tăng cao. Lãi suất gia tăng ở Mỹ và Châu Âu
khiến Mỹ và châu Âu trở nên hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư quốc tế, đồng thời cũng khiến
việc vay mượn của các nước Mỹ Latinh trở nên khó khăn và gia tăng chi phí trả lãi vay. Các
nước Mỹ Latinh cũng đã phải huy động các nguồn lực để trả nợ vay, hệ quả là sản lượng trong
nước và tiêu dùng suy giảm (Hirst, Paul Q và Thompson, 2001). Ngoài ra, các khoản nợ lớn
Chính phủ đứng ra vay hoặc bảo lãnh đã được sử dụng một cách thiếu thận trọng và có liên
quan đến tham nhũng (Wade và Veneroso, 1998).
Trong khi tổng số nợ tích lũy dâng lên ngập đầu qua các năm và các quốc gia châu Mỹ
Latinh không có khả năng duy trì tăng trưởng kinh tế cao, cuộc khủng hoảng bắt đầu khi các
thị trường vốn quốc tế nhận ra rằng châu Mỹ Latinh không có khả năng trả nợ. Điều này xảy
ra vào tháng 8 năm 1982, khi tỷ lệ nước ngoài trên tổng thu nhập quốc gia GNI lên đến đỉnh
điểm 160%, Bộ trưởng tài chính Mexico Jesus Silva-Herzog tuyên bố rằng nước này không
có khả năng trả được khoản nợ hơn 85 tỷ USD và yêu cầu đàm phán lại thời hạn trả nợ với
các chủ nợ. Bị tỉnh giấc bởi tuyên bố vỡ nợ của Mexico, hầu hết các ngân hàng thương mại và
tổ chức tài chính quốc tế giảm mạnh hoặc ngừng hẳn việc cho vay đến khu vực Mỹ Latinh.
Hàng tỉ USD được vay trước đó giờ đã đến hạn, và các dòng vốn bắt đầu thoái lui khỏi các

quốc gia trong khu vực, các nước không còn có thể vay thêm. Bởi vì hầu hết các khoản vay
nợ của Mỹ Latinh là vay ngắn hạn, việc không được bơm tiếp tín dụng đã khiến các quốc gia
này nhanh chóng rơi vào tình trạng mất khả năng chi trả. Hệ quả, hầu hết quốc gia trong khu
vực đều không tránh khỏi vòng xoáy nợ công: Argentina (các năm 1982, 1989), Bolivia
(1980, 1986, 1989), Brazil (1983, 1986-1987) và Ecuador (1982, 1984). Trong suốt những
năm đầu của khủng hoảng, tăng trưởng GDP các nước trong khu vực chỉ còn hơn 2%.
1.4.1.2. Các chính sách và biện pháp
Để có tiền trả nợ, chính phủ các nước Mỹ Latinh đã cầu viện những tổ chức quốc tế
20
như Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB). Để đạt được thỏa thuận, các
nước này phải chấp nhận thực thi các chính sách điều chỉnh cơ cấu khắc nghiệt của IMF như
chính sách thắt lưng buộc bụng (cắt giảm ngân sách để giảm thâm hụt, duy trì tăng trưởng tín
dụng thấp và chính sách tiền tệ thắt chặt để giảm chi tiêu trong nước và lạm phát…), phá giá
nội tệ tăng cường xuất khẩu hay cải cách cơ cấu như tự do hóa thương mại để cải thiện nền tài
chính. Trong khi đó, các cam kết với WB là các chương trình điều chỉnh cấu trúc tập trung
vào đổi mới cơ cấu sâu rộng hơn và trong dài hạn. Hậu quả tất yếu là kinh tế tăng trưởng trì
trệ, thu nhập bình quân đầu người giảm, nghèo đói và chênh lệch giàu nghèo ngày càng tăng.
Đến tận đầu thập niên 90, khủng hoảng ở Mỹ Latinh mới lắng dịu.
Cũng để đối phó với cuộc khủng hoảng, hầu hết các nước Mỹ La Tinh đã từ bỏ chiến
lược Công Nghiệp Hóa Nhập Khẩu và thay vào đó bằng chiến lược Công Nghiệp Hóa Hướng
Ra Xuất Khẩu. Các nguồn vốn rất khổng lồ chảy ra bên ngoài đặc biệt là chảy sang Mỹ, đã
được sử dụng để làm tỉ giá hối đoái giảm, từ đó làm tăng tỉ suất lợi nhuận thực tế.
1.4.2. Nợ công Hy Lạp
1.4.2.1. Sơ lược về khủng hoảng nợ công Hy Lạp
Trước năm 1999, để thỏa mãn các quy định về tài chính công trong Thỏa ước ổn định
và tăng trưởng (mức thâm hụt ngân sách không được vượt quá 3% GDP và nợ công không
được vượt quá 60% GDP), các chỉ tiêu này đều được các quốc gia ứng viên tuân thủ nghiêm
túc. Tuy nhiên, xu hướng này có dấu hiệu đảo chiều khi Liên minh Kinh tế tiền tệ châu Âu
(EMU) đi vào hoạt động. Từ năm 2003, phần lớn các nước khu vực đồng Euro có tỷ lệ nợ trên
60%/GDP. Điều này cho thấy các nước bắt đầu không tuân thủ nghiêm ngặt các quy định

trong EMU.
Hy Lạp được đặt vào tình trạng khủng hoảng nợ công kể từ cuối năm 2009, khi Chính
phủ mới của nước này thừa nhận rằng Chính phủ tiền nhiệm đã công bố những số liệu kinh tế
không trung thực, đặc biệt là về thâm hụt ngân sách. Thực tế thâm hụt ngân sách của nước
này năm 2009 là 13,6% chứ không phải là 6,7% GDP như đã từng được báo cáo, cao hơn
nhiều hạn mức thâm hụt ngân sách 3% GDP cho phép đối với các nước thành viên EU.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009 đã ảnh hưởng mạnh mẽ lên các
ngành công nghiệp chủ chốt của Hy Lạp. Doanh thu ngành du lịch và vận tải biển – 2 ngành
chủ chốt của nền kinh tế này, sụt giảm trên 15% vào năm 2009. Kinh tế Hy Lạp lâm vào khó
khăn, các nguồn thu thuế, phí …để tài trợ cho ngân sách bị thu hẹp, trong khi Chính phủ vẫn
phải tăng cường chi tiêu công để hỗ trợ nền kinh tế vượt qua khủng hoảng, đã đẩy nợ công
đến con số khổng lồ. Đến năm 2010, báo cáo của OECD cho thấy nợ công của Hy Lạp đã lên
21
tới con số 330 tỷ Euro, tương đương với 147.8% GDP. Các chuyên gia kinh tế dự đoán dù Hy
Lạp có thực hiện được kế hoạch thắt lưng buộc bụng kéo dài 3 năm, nợ của Hy Lạp đến năm
2012 vẫn tăng lên mức 172% GDP.
Ngoài ra, do kinh tế lún sâu hơn vào suy thoái, mặc dù đã cam kết những chính sách
khắc khổ nhằm giảm thâm hụt ngân sách nhưng thâm hụt ngân sách trong 8 tháng đầu năm
2011 của Hy Lạp đã lên tới 18,1 tỷ euro (24,67 tỷ USD), tăng mạnh so với 14,813 tỷ euro
cùng kỳ năm ngoái. Ở thời điểm này Hy Lạp và Ireland là 2 nước có mức thâm hụt lớn nhất,
trong khi thâm hụt ngân sách của Ireland chủ yếu là những khoản nợ chuyển từ khu vực tư
nhân sang khu vực công do chính phủ phải “ra tay” cứu hệ thống ngân hàng, thâm hụt ngân
sách Hy Lạp lại chủ yếu gây ra bởi trình độ quản lý công yếu kém.
Như vậy, Hy Lạp đang cùng lúc đối mặt với những vấn đề nan giải: nợ công quá cao
(147,8%), thâm hụt ngân sách lớn (13,6% GDP năm 2010) và thâm hụt cán cân thanh toán
vãng lai lớn (trung bình vào khoảng 9% GDP – so với mức trung bình của toàn khu vực
Eurozone là 1%). Cả hai mức thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân vãng lai của Hy Lạp
đều vượt quá trần quy định cho phép của Liên minh Tiền tệ và Kinh tế châu Âu (EMU), đặc
biệt vi phạm Hiệp ước Bình ổn và Tăng trưởng của Liên minh châu Âu (EU) với quy định
trần thâm hụt ngân sách 3% GDP.

Việc ngụy tạo các số liệu kinh tế nhằm che dấu thực trạng đất nước đã khiến uy tín của
Chính phủ Hy Lạp bị suy giảm nặng nề. Cả 3 hãng xếp hạng tín nhiệm lớn nhất thế giới hiện
đều đều hạ mức tín nhiệm của Hy Lạp xuống mức gần thấp nhất trong thang điểm đánh giá tín
nhiệm đồng thời cảnh báo nguy cơ vỡ nợ của quốc gia này là rất cao. Lợi suất trái phiếu chính
phủ Hy Lạp kỳ hạn 2 năm đã tăng lên trên 60%, trong khi đó kỳ hạn 1 năm đã vượt 110%.
Điều này đồng nghĩa với việc Hy Lạp gặp nhiều khó khăn trong việc huy động thêm vốn từ
thị trường vốn quốc tế và chỉ có thể mong đợi các khoản cứu trợ đặc biệt từ IMF, ECB hay
một số quốc gia khác.
Hình 1.3: Lợi suất TPCP Hy Lạp (1 năm)
Nguồn: Bloomberg
Tháng 5/2010, các nhà lãnh đạo Eurozone và Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF) công bố gói cứu trợ kỳ hạn 3 năm trị giá 110 tỷ EUR dành cho Hy Lạp.
Sau đó, vào tháng 10/2010 IMF cho Hy Lạp vay thêm 2,5 tỷ EUR (3,3 tỷ
USD), nâng tổng giá trị các khoản vay khẩn cấp mà
IMF dành
để ngăn chặn
22
khả năng vỡ nợ của nước này lên 10,58 tỷ EUR (tương đương 13,98 tỷ USD).
Trong khoảng thời gian từ tháng 5/2010 và 6/2011, Ngân hàng Trung ương Châu Âu
đã mua khoảng 45 tỷ EUR trái phiếu chính phủ Hy Lạp. Ngoài ra, các khoản hỗ trợ thanh
khoản mà ECB dành cho các ngân hàng Hy Lạp đã tăng từ mức 47 tỷ EUR vào tháng 1/2010
lên mức 98 tỷ EUR vào tháng 5/2011.
Để có được những khoản hỗ trợ này, chính phủ Hy Lạp đã phải cam kết thực hiện lộ
trình cắt giảm thâm hụt ngân sách được các nhà tài trợ đưa ra. Hiện tại Hy Lạp đang đợi chờ
gói các gói cứu trợ mới nhưng đi kèm với nó là Chính phủ phải đưa ra nhiều chính sách cắt
giảm chi tiêu hơn nữa. Tuy nhiên, các chính sách này sẽ khó có thể thực hiện được trong thời
gian tới khi hàng loạt các cuộc biểu tình của người dân Hy lạp vẫn liên tục nổ ra. Ngoài ra,
nếu Hy Lạp tiếp tục cắt giảm chi tiêu thì nền kinh tế nước này sẽ giảm tốc mạnh hơn nữa.
Theo Bộ trưởng tài chính Hy Lạp, GDP tăng trưởng -5% trong năm 2011, giảm mạnh hơn
mức -3,5% được dự báo trước đó. Như vậy, Hy Lạp đang phải đối mặt với một vòng luẩn

quẩn: càng thắt chặt ngân sách, kinh tế sẽ càng xấu đi. Nếu kinh tế xấu đi, doanh thu từ thuế
sẽ giảm sút trầm trọng. Khi doanh thu từ thuế giảm mạnh, Hy Lạp lại càng phải đi vay nợ…
Và cứ thế, bong bóng nợ công sẽ ngày càng phình to cho đến khi nó nổ. Vấn đề chỉ là thời
gian.
Tóm lại, Nợ công Hy Lạp đã không còn giải pháp nào để khắc phục. Việc vay thêm nợ
mới hay đợi những khoản cứu trợ mới cũng chỉ đủ trả những khoản lãi vay cho nên việc Hy
Lạp vỡ nợ chỉ là vấn đề sớm hay muộn.
1.4.2.2. Nguyên nhân
Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp xuất phát từ nguyên nhân chính là khả năng quản
trị tài chính công yếu kém cùng với những khoản chi tiêu của chính phủ quá lớn, vượt khả
năng kiểm soát. Nhưng có thể phân định rõ 5 nhóm nguyên nhân chủ yếu.
Thứ nhất, tiết kiệm trong nước thấp dẫn tới phải vay nợ nước ngoài cho chi tiêu
công. Thập niên 90 tỷ lệ tiết kiệm trong nước bình quân của Hy Lạp chỉ ở mức 11%, thấp hơn
nhiều so với mức 20% của các nước như Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha và đang có xu hướng
sụt giảm nhanh chóng. Do vậy, đầu tư trong nước phụ thuộc khá nhiều vào các dòng vốn đến
từ bên ngoài. Lợi tức trái phiếu liên tục giảm nhờ vào việc gia nhập liên minh châu Âu EU
(năm 1981) và làn sóng bán tháo trái phiếu từ dân chúng cho thấy Hy Lạp đã để vuột khỏi tay
một kênh huy động vốn sẵn có buộc chính phủ Hy Lạp tăng cường vay nợ tài trợ cho chi tiêu
công.
Thứ hai, chi tiêu công tăng cao dẫn đến thâm hụt ngân sách. Tăng trưởng GDP của
23
Hy Lạp vẫn được ca ngợi với tốc độ tăng trung bình hàng năm là 4,3% (2001 – 2007) so với
mức trung bình của khu vực Eurozone là 3,1%. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, mức chi tiêu
chính phủ tăng 87% trong khi mức thu của chính phủ chỉ tăng 31%, khiến cho ngân sách thâm
hụt vượt quá mức cho phép 3% GDP của EU.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), chi tiêu cho quản lý công Ngành
du lịch và vận tải biển, doanh thu đều sụt giảm trên 15% trong năm 2009. Kinh tế Hy Lạp
cũng lâm vào tình trạng khó khăn, nguồn thu để tài trợ cho ngân sách nhà nước bị co hẹp
mạnh. Trong khi đó Hy Lạp lại phải tăng cường chi tiêu công để kích thích kinh tế. Tính đến
tháng 01/2010, nợ công của Hy Lạp ước tính lên tới 216 tỷ Euro và mức nợ lũy kế đạt mức

130% GDP.
Thứ ba, nguồn thu giảm sút. Trốn thuế và hoạt động kinh tế ngầm ở Hy Lạp là nhân
tố làm giảm nguồn thu ngân sách. Theo đánh giá của WB, kinh tế không chính thức ở Hy Lạp
chiếm tới 25 - 30% GDP(so với mức 15,6% GDP của Việt Nam; 13,1% GDP của Trung Quốc
và Singapore; 11,3% GDP của Nhật Bản). Hệ thống thuế với nhiều mức thuế cao và bộ luật
phức tạp cùng với sự điều tiết dư thừa và thiếu hiệu quả của cơ quan quản lý là nguyên nhân
dẫn đến tình trạng trốn thuế và kinh tế ngầm phát triển ở Hy Lạp.
Theo Tổ chức Minh bạch quốc tế, Hy Lạp là một trong những nước có tỷ lệ tham
nhũng cao nhất trong EU. Năm 2008, hơn 13% người Hy Lạp đã chi tới 750 triệu EUR tiền
phong bì cho các lãnh đạo khu vực công và khu vực tư, trong đó có bác sĩ là những người đòi
nhiều tiền hơn cho các cuộc phẫu thuật; các nhà quy hoạch thành phố và các quan chức ở địa
phương cũng liên quan đến những vụ việc nhận hối lộ Thủ tướng Hy Lạp George
Papandreou thừa nhận “tham nhũng mang tính hệ thống” là vấn đề cơ bản nhất dẫn đến tình
trạng nợ công Hy Lạp. Thiệt hại mà tham nhũng gây ra cho Hy Lạp ước tính vào khoảng 8%
GDP. Tham nhũng không chỉ gây ra trốn thuế, nó còn làm tăng chi tiêu chính phủ, nhắm tới
duy trì mức lương cao cho công chức và thực hiện các dự án có vốn đầu tư lớn thay vì nhắm
vào các dự án tạo ra nhiều việc làm và nâng cao năng suất lao động. Mức lương cao không chỉ
tạo ra gánh nặng ngân sách mà còn làm cho tính cạnh tranh của nền kinh tế Hy Lạp yếu đi.
Lương cao, đồng euro tăng giá từ mức 1 euro đổi hơn 0,8 USD lên đến 1 euro đổi 1,6 USD
trong suốt giai đoạn từ 2000-2008 khiến sức cạnh tranh của hàng hóa Hy Lạp yếu và hệ quả
tất yếu là một cán cân thương mại thâm hụt triền miên.
Thứ tư, sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngoài và việc sử dụng
nguồn vốn không hiệu quả. Bên cạnh đó, việc gia nhập Eurozone năm 2001 là cơ hội lớn để
Hy Lạp có thể tiếp cận với thị trường vốn quốc tế với việc sử dụng một đồng tiền được những
nền kinh tế lớn như Đức và Pháp bảo đảm cùng với sự quản lý chính sách tiền tệ của Ngân
24
hàng TƯ châu Âu (ECB). Nhờ việc gia nhập Eurozone Hy Lạp nghiễm nhiên có được hình
ảnh ổn định cao và chắc chắn trong mắt các nhà đầu tư, dễ dàng thu hút vốn đầu tư nước
ngoài với mức lãi suất thấp. Gần một thập kỷ qua, Chính phủ Hy Lạp liên tục bán trái phiếu
để thu về hàng trăm tỷ USD. Số tiền này lẽ ra có thể giúp kinh tế Hy Lạp tiến rất xa nếu chính

phủ có kế hoạch chi tiêu hợp lý. Tuy nhiên, chính phủ Hy Lạp đã chi tiêu quá tay (phần lớn
cho cơ sở hạ tầng) mà hầu như không quan tâm đến các kế hoạch trả nợ.
Thứ năm, thiếu tính minh bạch và niềm tin của các nhà đầu tư. Sự thiếu minh
bạch trong số liệu thống kê của Hy Lạp đã làm mất niềm tin của các nhà đầu tư mà quốc gia
này đã tạo dựng được với tư cách là một thành viên của Eurozone và nhanh chóng xuất hiện
các làn sóng rút vốn ồ ạt khỏi các ngân hàng của Hy Lạp, đẩy quốc gia này vào tình trạng khó
khăn trong việc huy động vốn trên thị trường vốn quốc tế. Sự phụ thuộc vào nguồn tài chính
nước ngoài đã khiến cho Hy Lạp trở nên rất dễ bị tổn thương trước những thay đổi trong niềm
tin của giới đầu tư. Trong thời đại hội nhập, thì minh bạch luôn là một đòi hỏi lớn của các nhà
đầu tư. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp do chính phủ không minh bạch các số liệu, cố gắng
vẽ nên bức tranh sáng, màu hồng về tình trạng ngân sách về những chính sách sắp ban hành
để khắc phục những khó khăn về ngân sách hay vấn đề kinh tế vĩ mô do vậy, hiệu lực của
những chính sách đó sẽ bị hạn chế nhiều.
1.4.3. Nợ công Nhật Bản và Trung Quốc
1.4.3.1. Nợ công Nhật Bản
Nhật Bản từ lâu đã luôn tồn tại một mức nợ công cao. Tỷ lệ nợ công từ giữa thập niên
90 không ngừng gia tăng và vượt xa so với các quốc gia phát triển khác trong khối OECD.
Tính đến năm 2010, nợ công Nhật Bản đã xấp xỉ 200% GDP. Mức nợ công này nhiều hơn hai
lần con số 90% GDP mà các nhà kinh tế học đã cảnh báo về ngưỡng nợ nguy hiểm.
Hình 1.4: Nợ chính phủ tại một số quốc gia trong khối OECD 1995 – 2010 (% GDP)
25

×