Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Văn hóa ứng xử trong thơ chữ hán của Nguyễn Du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (948.68 KB, 115 trang )


BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH






CAO THỊ LIÊN HƯƠNG






VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG THƠ
CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU




Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34



LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. LÊ THU YẾN







Thành phố Hồ Chí Minh – 2010


THƯ
VIỆN

MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................................... 4
A. MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 5
1. Lí do chọn đề tài....................................................................................................... 5
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 6
3. Mục đích nghiên cứu............................................................................................... 12
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu................................................................................ 12
5. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 12
6. Kết cấu của luận văn ............................................................................................... 13
B. NỘI DUNG................................................................................................................ 15
Chương 1 : VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU - NHỮNG VẤN ĐỀ
CHUNG ................................................................................................................... 15
1.1. Các khái niệm................................................................................................ 15
1.1.1. Khái niệm văn hóa .................................................................................. 15

1.1.2. Khái niệm ứng xử................................................................................... 21
1.1.3. Khái niệm văn hóa ứng xử..................................................................... 23
1.2. Văn hóa ứng xử tiếp hợp nhiều yếu tố văn hóa ngoại lai.............................. 29
1.2.1. Tiếp hợp Nho giáo .................................................................................. 29
1.2.2. Tiếp hợp Phật giáo .................................................................................. 33
1.2.3. Tiếp hợp Đạo giáo................................................................................... 36
Chương 2: NGUYỄN DU VÀ THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU............................ 41
2.1. Nguyễn Du..................................................................................................... 41
2.1.1. Thời đại Nguyễn Du................................................................................ 41
2.1.2. Gia thế và cuộc đời Nguyễn Du.............................................................. 44
2.2. Thơ chữ Hán Nguyễn Du .............................................................................. 49

Chương 3: NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN
DU............................................................................................................................ 81
3.1. Ứng xử đối với bản thân ............................................................................... 81
3.2. Ứng xử với môi trường tự nhiên ................................................................... 88
3.2.1. Thiên nhiên tươi đẹp để hưởng thụ ngâm vịnh..................................... 866
3.2.2. Thiên nhiên kỳ quái khiến con người phải khiếp sợ............................... 95
3.3. Ứng xử với môi trường xã hội....................................................................... 75
3.3.1. Vua chúa ................................................................................................. 76
3.3.2. Quan lại................................................................................................... 80
3.3.3. Những người nghèo khổ ......................................................................... 85
3.3.4. Người hiền, ng
ười tài .............................................................................. 89
3.3.5. Phụ nữ ..................................................................................................... 95
3.4. Ứng xử trong gia đình ................................................................................. 100
C. KẾT LUẬN.............................................................................................................. 108
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 111







LỜI CẢM ƠN

Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
Đặc biệt là PGS.TS. LÊ THU YẾN đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu và thực hiện luận văn.
BGH Trường Đại học Sư Phạm các quý Thầy Cô lãnh đạo Phòng Đào Tạo và các đồng nghiệp đã
tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt khóa học.
Gia đình, người thân, bạn hữu đã
động viên ủng hộ, giúp đỡ mọi mặt và dành nhiều tình cảm nhất
giúp tôi vượt qua mọi khó khăn để hoàn thiện luận văn này.

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2010




Cao Thị Liên Hương





A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển, là linh
hồn sức sống của mỗi quốc gia dân tộc. Trong quá trình dựng nước và giữ nước văn hóa Việt Nam là một

thực thể, đồng thời hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam. Văn hóa dân tộc Việt Nam bao
gồm những giá trị bề
n vững những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc được vun đắp nên đó là: “lòng
nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý... sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống...” [27,
tr 56].
Đó là bản sắc văn hóa dân tộc, mà bản sắc dân tộc là phần cốt lõi, tinh túy trong tâm hồn, tính cách
dân tộc, thì cái bản sắc đó được biểu hiện ra trong toàn bộ các hoạt động xã hội, từ các hoạt động sản xuất
tinh th
ần đến các hoạt động vật chất. Đúng như báo cáo chính trị Đại hội VII của Đảng đã nêu rõ: “Bản
sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đượm không chỉ trong công tác văn hóa
– văn nghệ, mà cả trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học,
công nghệ, giáo dục và đào tạo... sao cho trong mọi lĩnh vự
c chúng ta có cách tư duy độc lập, có cách làm
vừa hiện đại, vừa mang sắc thái Việt Nam”[93, tr 286]. Có thể coi đây là một luận điểm quan trọng đòi
hỏi một sự đổi mới trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta. Bản chất của văn hóa tồn tại sâu
xa mang tính chất nhân bản và nhân văn. Văn hóa kết tinh phẩm giá, năng lực, sức sáng tạo của con
người. Vă
n hóa chăm lo chất lượng cuộc sống của con người, của xã hội ngày một nâng cao, sao cho con
người có ý thức trong các mối quan hệ của cá nhân và cộng đồng, giữa con người và tự nhiên, giữa hiện
tại, quá khứ và tương lai, biết giữ gìn phát huy giá trị của con người tạo ra nhiều thế hệ, chỉ có văn hóa
mới không quên con người, mới trân trọng cuộc sống phong phú của con người và đi sâu vào tâm hồn
riêng tư của con ng
ười, chia sẻ những dằn vặt, lo âu của con người về lẽ sống và cái chết, về những điều
thiêng liêng và cõi tâm linh.
Trong xu thế hiện nay, Việt Nam đang ở trong quá trình xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bản sắc văn hóa dân tộc, như nghị quyết V của Trung ương Đảng vừa nhấn mạnh, văn hóa Việt Nam
lại đang trên đà hội nhập với văn hóa th
ế giới. Một mặt mở ra khả năng to lớn để các dân tộc giao lưu văn
hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế, xã hội với nhau trên phạm vi toàn cầu tạo động lực cho quá trình đổi mới
và hiện đại hóa văn hóa của các dân tộc, mặt khác nó cũng đưa lại cho chúng ta những thách thức mới.

Mặt trái của cơ chế thị trường đã len lỏi vào mọi ngóc ngách của xã hội, thậm chí vào cả thành trì b
ền
vững nhất của giá trị cá nhân khiến cho xã hội này đương đầu với mọi thách thức như lối sống ích kỷ thực
dụng, sự băng hoại, các giá trị tinh thần truyền thống… Chính sự suy thoái về lối sống đạo đức xã hội, có
nguy cơ ngày càng tăng làm phai nhạt sự tinh tế trong ứng xử của người Việt Nam mà ngàn đời vẫn luôn
nhắc tới.

Chính vì thế, người ta quan tâm đến một biểu hiện của văn hóa, được thể hiện trực tiếp thái độ của
con người, đó là ứng xử, ứng xử có văn hóa ở mức cao nhất là văn hóa ứng xử của con người. Văn hóa
ứng xử của con người Việt Nam cơ bản được thể hiện ở nếp ứng xử khoan dung thiên về hành động với tư
cách tr
ực giác tổng hợp. Những hành động của ứng xử không ra ngoài nguyên tắc trọng tình, trọng đức,
trọng văn và cả trọng nữ. Bên cạnh đó, ai cũng biết đã là con người mang tính nhân loại phổ biến thì ai
cũng quan tâm đến mối quan hệ, thái độ ứng xử với những vấn đề lớn giữa người với người, với bản thân,
với gia đình, với xã hội, vớ
i tự nhiên. Vì vậy, việc nghiên cứu văn hóa ứng xử có một ý nghĩa rất to lớn,
giúp ta nhìn nhận, đánh giá nền tảng tinh thần như một thứ ghen nội sinh vững vàng để con người hiện
nay sẵn sàng đón nhận những giá trị mới giao lưu văn hóa mang lại.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du được nghiên cứu sâu sắc trên nhiều bình diện, lịch sử nghiên cứu vì
thơ chữ Hán của Nguy
ễn Du vô cùng phong phú. Tuy nhiên, như nhiều thơ chữ Hán khác, thơ chữ Hán
của Nguyễn Du là đối tượng luôn ẩn chứa nhiều điều mới mẻ, vì vậy khó có những công trình nghiên cứu
thật trọn vẹn. Do đó, nghiên cứu văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du để nhận thức và xử lý
đúng đắn và hiệu quả, góp phần làm rõ thêm những đóng góp văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập
hiện nay là một nhiệm vụ có ý nghĩa vừa cơ bản, vừa cấp bách cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Xuất phát từ lí do trên chúng tôi chọn vấn đề Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du để
làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học ngành Văn học Việt Nam.

2. Lịch sử vấn đề:
Trong nhiều năm gần đây, các vấn đề

văn hóa, văn hóa ứng xử mối quan hệ giữa văn hóa và văn
học thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, văn học nước nhà. Văn hóa là cội nguồn của
văn học và “văn học nghệ thuật có nhiệm vụ và có tác dụng to lớn trong việc sáng tạo nên những giá trị
văn hóa cao quý ấy” (Phạm Văn Đồng). Giá trị văn hóa, tính văn hóa luôn là một thước đo giá trị
của tác
phẩm văn học.
Xung quanh đề tài luận văn Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du trong phạm vi tư
liệu sưu tầm được, chúng tôi điểm qua một số công trình, bài báo khoa học sau:
Về văn hóa, Đào Duy Anh đã đặt viên gạch đầu tiên cho lĩnh vực nghiên cứu văn hóa Việt Nam khi
cuốn “Việt Nam văn hóa sử cương” xuất bản năm 1938, Nxb Bốn Ph
ương tái bản năm 1951. Từ đó đến
nay có rất nhiều công trình của các nhà nghiên cứu về văn hóa vùng, văn hóa miền, văn hóa dân tộc –
quốc gia Việt Nam hay văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á… của các tác giả nổi tiếng như
Trần Quốc Vượng, Phan Ngọc, Trần Ngọc Thêm, Toan Ánh, Chu Xuân Diên… Có thể kể đến Văn hóa
Việt Nam và cách tiếp cận mới (Phan Ngọc), Một thế kỷ nghiên cứu v
ăn hóa Việt Nam (Nguyễn Chí Bền),
Xã hội học văn hóa (Đoàn Văn Chúc), Văn hóa và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa (Nguyễn Văn

Dân), Văn hóa Việt Nam đỉnh cao Đại Việt (Nguyễn Đăng Duy), Tìm hiểu làng Việt (Diệp Đình Hoa),
Con người, môi trường, văn hóa (Nguyễn Xuân Kính), Văn hóa gia đình Việt Nam (Vũ Gia Khánh), Văn
hóa thẩm mỹ và nhân cách (Lương Quỳnh Khuê)… Điểm lại những thành tựu đã đạt được, ghi nhận công
lao của các nhà khoa học tiêu biểu của hướng tiếp cận văn hóa Việt Nam trong tính tổng thể c
ộng đồng
văn hóa dân tộc – quốc gia.
Hướng nghiên cứu đại cương về văn hóa Việt Nam, hoặc “tiếp cận văn hóa học về văn hóa Việt
Nam” theo quan niệm của Trần Ngọc Thêm và nhiều tác giả khác là nhằm làm sáng tỏ những đặc trưng cơ
bản cùng những quy luật hình thành và phát triển của nền văn hóa Việt Nam. Có thể chỉ ra một số chủ đề
chính của hướng nghiên c
ứu này:
- Quá trình hình thành và phát triển cộng đồng văn hóa dân tộc – quốc gia Việt Nam.

- Cá thể cộng đồng văn hóa cơ bản cấu thành nền văn hóa dân tộc – quốc gia Việt Nam: văn
hóa gia đình, văn hóa làng, văn hóa đô thị, văn hóa vùng.
- Văn hóa cá nhân: mẫu người Việt Nam trong lịch sử, tính cách con người, lý giải vấn đề con
người làng xã trong tính cách người Việt.
- Vấn đề bản sắ
c văn hóa con người Việt Nam, chiến lược xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
- Hệ tư tưởng với tư cách là yếu tố cốt lõi trong nền tảng tinh thần của xã hội.
- Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh khu vực và quốc tế.
Như vậy, hướng nghiên cứu nền văn hóa dân tộc – quốc gia, với tư cách một khoa học mớ
i phát
hiện trong những năm cuối thế kỷ XX, nhưng những vấn đề của nó đã được các nhà khoa học đề cập từ
lâu. Vì vậy, những công trình nghiên cứu thuộc các khoa học chuyên ngành như ngôn ngữ học, văn học,
xã hội học, lịch sử nghệ thuật, triết học… vấn đề văn hóa Việt Nam sẽ là đối tượng khảo sát cần thiết của
chúng ta.
Về vă
n hóa ứng xử, trong nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa, các tác giả đều có đề cập các
vấn đề liên quan đến văn hóa ứng xử. Tuy nhiên sự đề cập chỉ dừng lại ở nêu hiện tượng, nhìn nhận khái
quát.
Đầu tiên phải kể đến công trình Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt Châu Thổ Bắc Bộ qua
một số ca dao - tục ngữ của Trầ
n Thúy Anh (2000) [2]. Công trình này tác giả nghiên cứu truyền thống
ứng xử của người Việt trong cái nôi văn hóa châu thổ Bắc Bộ được cô động và đúc kết qua ca dao – tục
ngữ. Tác giả đã lấy ca dao và tục ngữ làm điểm tựa để từ đó, hình dung một cách sinh động và sâu sắc bộ
mặt lịch sử, chiều sâu văn hóa và sắc thái riêng biệt, kể cả những tiếp nhận văn hóa của th
ế ứng xử xã hội
cổ truyền của người Việt Châu thổ Bắc Bộ.

Gần với công trình trên là Văn hóa ứng xử trong giáo dục gia đình của Nguyễn Văn Lê (2001)
[53], mọi ứng xử phải tuân theo những quy tắc văn hóa trong ứng xử “cha mẹ, ông bà trong ứng xử với

con cháu và con cháu trong ứng xử với ông bà, cha mẹ, anh chị trong gia đình. Con cháu đối với những
người trên lấy sự tôn kính làm trọng. Bề trên đối với con cháu lấy sự yêu thương, lòng bao dung để răn
dạy. Đó là đạ
o lý của dân tộc”[53, tr 6 ].
Văn hóa ứng xử các dân tộc Việt Nam của Lê Như Hoa (2002) [30]. Tác giả đã tiếp cận văn hóa
ứng xử của người Việt và phần nói về văn hóa ứng xử của các dân tộc ít người. Đặc biệt là góc độ văn hóa
học tác giả phân tích một cách logic về văn hóa ứng xử của người Việt “coi trọng tính tập thể, tính cộng
đồng, xã hội ”.
V
ăn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường thiên nhiên, Nguyễn Viết Chức (2002) [13],
cùng với quá trình ngàn năm xây dựng, cải tạo và giữ gìn cảnh quan thiên nhiên Hà Nội, văn hóa ứng xử
của người Hà Nội đã kết tinh những tinh hoa văn hóa đặc sắc của cả nước và giao lưu với nước ngoài.
Hàng ngàn năm “người Hà Nội từ thế hệ nọ đến thế hệ kia đã lư
u giữ được một cốt cách, một phương thức
ứng xử hòa đồng với thiên nhiên biến đổi tự nhiên theo quá trình hoàn thiện cuộc sống của mình. Những
thắng cảnh Hồ Tây, sức quyến rũ của hồ Hoàn Kiếm, những đường phố bạt ngàn cây xanh, những dòng
Kim Ngưu, Tô Lịch chạy dài vòng quanh thành phố là kết tinh những giá trị ứng xử với thiên nhiên của
cha ông ta tạo nên một truyền thống ứ
ng xử văn hóa thông minh và thẩm mỹ của người Hà Nội” [13, tr 5
– 6 ].
Văn hóa ứng xử của người Giẻ Triêng, Nguyễn Hùng Khu (2006) [46], tác giả thông qua một
phong tục cụ thể - phong tục hôn nhân và cách tìm hiểu về văn hóa ứng xử của người Giẻ Triêng ở một
vùng văn hóa – văn hóa Tây Nguyên. Tìm hiểu tộc người Giẻ Triêng, Nguyễn Đình Khu góp phần vào
việc gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc của tộc ng
ười Giẻ Triêng nói riêng, văn hóa Tây Nguyên
nói chung.
Văn hóa ứng xử còn phải kể đến, Văn hóa ứng xử truyền thống của người Việt của Lê Văn Quán
(2007) [73], “người Việt Nam chú trọng sự tôn kính, trọng hiếu quý hòa, thờ phụng tổ tiên, thịnh hành
nguyên tắc chủ nghĩa danh phận uy quyền” [73, tr 7]. Vấn đề này được tác giả quan tâm và tập trung bàn
về văn hóa ứng xử gia đình, bạn bè, tình yêu…

Ngoài ra chúng tôi cũng quan tâm đế
n luận văn thạc sĩ Ngữ văn Văn hóa ứng xử người Việt trong
truyện thơ Nôm của Triệu Thùy Dương (2007) – Trường Đại học Sư Phạm Tp. HCM [21]. Triệu Thùy
Dương chỉ ra truyền thống văn hóa ứng xử của người Việt trên con đường văn hóa hiện đại chính là truyền
thống ứng xử xã hội, truyền thống văn hóa ứng xử được kế
t tinh từ đời sống văn hóa cổ truyền từ rất lâu
đời được thể hiện trong văn học trung đại, đặc biệt là trong các truyện thơ Nôm, “là một cách khẳng định

văn hóa ứng xử đồng thời cũng là một vấn đề cốt lõi, ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều thế hệ sâu này” [ 21,
tr 4].
Nét đẹp phong tục các dân tộc thiểu số: trong văn hóa ứng xử, Vi Hoàng (2008) [32], tác giả đề
cập văn hóa ứng xử người với người, ứng xử con người với loài vật và ứng xử con người với thiên nhiên.
Hỏi đáp về văn hóa ứng x
ử của người Việt của Phạm Minh Thảo (2008) [80], tìm hiểu nghiên cứu
qua thực tiễn cuộc sống và muốn truyền lại cho thế hệ mai sau các kinh nghiệm ứng xử quý báu về vấn đề
“Người Việt phải ứng xử như thế nào để tồn tại và phát triển?” [80, tr 5]. Điều đó được đặt trong các thời
kỳ lịch sử đầy biến động và sóng gió như ngày nay.
T
ất cả các công trình nêu trên đi vào nghiên cứu đặc trưng giao tiếp ứng xử với môi trường tự
nhiên và xã hội của người Việt Nam trong quan hệ gia đình và xã hội.
Riêng về lĩnh vực thơ chữ Hán, người viết chú ý điểm qua những công trình nghiên cứu:
Về văn bản công trình nghiên cứu đáng chú ý, đó là cuốn Nguyễn Du toàn tập do Mai Quốc Liên
chủ biên (Nxb Văn học 1996) có 250 bài thơ [62].
Nguyễn Lộc trong cuốn
Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX [59] có
những nhận định xác đáng về tâm sự của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán “Buồn thương như một tiếng đàn
réo rắt, não ruột vang lên trong hầu hết các thi phẩm của ông” [59, tr 304].
Người đặt nền móng cho việc nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du là Đào Duy Anh. Trong bài viết
Thi tập của Nguyễn Du trong công trình Khả
o luận về Kim Vân Kiều, lần đầu tiên vị trí của thơ chữ Hán

Nguyễn Du được khẳng định về hình thức cũng như về nội dung. Có thể nói đây là những ý kiến có giá trị
gợi mở cho nhiều nhà nghiên cứu, phê bình ở giai đoạn sau.
Năm 1960 nhà phê bình Hoài Thanh tìm hiểu tâm sự của Nguyễn Du trong bài viết Tâm tình của
Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán [26, tr 37]. Hoài Thanh khẳng định: “Cái đi
ều rõ ràng là Nguyễn
Du không bằng lòng với toàn bộ cuộc đời lúc bấy giờ” [26, tr 39]. Song thái độ không dứt khoát đã không
thể làm mờ được tấm lòng cảm thông, xót thương của Nguyễn Du đối với những kiếp người đau khổ. Dù
chưa nhìn rõ nguồn gốc của những điều bất công của cuộc đời nhưng “thái độ của Nguyễn Du rõ ràng tình
cảm của Nguyễn Du chân thành, sâu sắc” [ 26, tr 45].
Cùng với quan đi
ểm của Hoài Thanh, Xuân Diệu viết Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán
[26, tr 46] đã nghiêng hẳn về cái nhìn buồn thương, day dứt của Nguyễn Du trước cuộc đời. Xuân Diệu
cho rằng, giống như Khuất Nguyên xưa, Nguyễn Du “mang những vấn đề của ngàn năm, của triệu người,
nên cái đau khổ của ông là một đau khổ lớn có tính chất đại diện cho nhân loại” [26, tr 52]. Xuân Diệu
cũng đ
i sâu vào một số bài thơ tiêu biểu như Thái bình mại ca giả, Sở kiến hành, Phản chiêu hồn… tất cả
điều chứng tỏ một tấm lòng “yêu thương con người đến cháy gan cháy ruột”[26, tr 59].

Đây cũng là quan điểm đánh giá của Lê Trí Viễn trong Lịch sử văn học Việt Nam (tập III) [103],
ông đi sâu vào thế giới nhân vật đó là những người trung can nghĩa khí bị hãm hại, những kiếp người tài
hoa lỗi lạc lầm than, những kẻ hèn yếu đáng thương. Đặc biệt cảm thương những người phụ nữ như người
ca nữ đất Long Thành, Tiểu Thanh, Dươ
ng Phi…
Đến năm 1965, có bài viết của Nguyễn Huệ Chi, Tìm hiểu thơ chữ Hán Nguyễn Du, Tạp chí văn
học số 11 [9]. Bài viết này đã mở ra một hướng đi trên hành trình nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du đó
là tìm kiếm chân dung của chính tác giả. Ông viết “Nguyễn Du là con người tư tưởng” với bao mâu thuẫn
dằng xé trong tâm can. Nhưng vượt lên khối mâu thuẫn là nguồn cảm hứng nhân đạo lớn lao, sâu sắc.
Đi
ều đó thể hiện trong thế giới nhân vật trong thơ chữ Hán. Nguyễn Du không dừng lại ở đó mà khái quát
bản chất sâu xa của xã hội phong kiến.

Hướng đi này được Vũ Đình Liên tiếp tục khai thác trong bài viết Nguyễn Du một tâm hồn lạc loài
trong xã hội phong kiến, Tạp chí Văn học số 2.1971 [60]. Tác giả đã bày tỏ sự tâm đắc và phát hiện của
Nguyễn Huệ Chi v
ề “hình tượng tự họa” của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán và muốn góp phần làm sáng
tỏ hơn về hình tượng nghệ thuật.
Ở bài viết, Theo gót Nguyễn Du trên đường đi sứ, Bùi Hữu Sủng, Bách khoa thời đại số 16 năm
1965 [78], tác giả viết khởi đầu của chặng đường từ Thăng Long đến Lạng Sơn, Nguyễn Du mang nặng
tâm trạng bi phẫn, nhưng lúc trở về thanh thản đ
ôi chút có “bệnh khủng hoảng nước mắt vợi đi… Mâu
thuẫn dần dần được giải quyết phần lớn” [78]. Đó là tâm sự Nguyễn Du gởi trong Bắc hành tạp lục.
Cuối năm 1965, trong lễ kỉ niệm 200 năm, năm sinh Nguyễn Du, Thanh Lãng viết Nguyễn Du như
một huyền thoại (Bài viết này được đăng lại hai lần trên Tạp chí văn học số 4,5,6,7 năm 1971) [51].
T
ừ năm 1975 đến nay, sau khi đất nước thống nhất, các thi tập của Nguyễn Du vẫn tiếp tục thu hút
các nhà nghiên cứu, phê bình văn học.
Năm 1980, Phan Hữu Nghệ có bài viết Thực tiễn Trung Hoa và tư tưởng Nguyễn Du, Tạp chí văn
học số 6 [69], Nguyễn Du từ chỗ rãi đều tình thương cho thập loại chúng sinh giờ đây ông dồn tình cảm
đó cho những người cần lao. Bởi vì thực tiễn Trung Hoa cho nhà thơ
nhìn rõ “chân tướng” của tầng lớp
thống trị vẫn dùng để biện minh cho sự “ngồi mát ăn bát vàng” của chúng.
Vấn đề này tiếp tục được bàn trong bài viết, Từ Truyện Kiều đến thơ chữ Hán Nguyễn Du, Đỗ Đức
Dục, Tạp chí Văn học tháng 6.1987 [17]. Tác giả đặc biệt quan tâm đến những biến đổi về tư tưởng xã hội
và triết học được Nguyễn Du th
ể hiện qua ba tập thơ. Nó phản chiếu những biến động dữ dội của cuộc đời
và thời đại ông. Song, vượt lên sự ngao ngán bế tắc vẫn là cái nhìn thấu suốt của ông trước số phận và
quyền sống của con người.
Giá trị to lớn của thơ chữ Hán Nguyễn Du, một lần nữa được Mai Quốc Liên khẳng định qua lời
mở đầu trong cuốn Nguy
ễn Du toàn tập (Tập 1), Nxb Văn học Trung tâm nghiên cứu Quốc học năm 1996.


Ông viết “Những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa mới lạ
và độc đáo trong một nghìn năm thơ ca của ông cha đã dành; mà cũng mới lạ và độc đáo so với thơ chữ
Hán Trung Quốc” [62, tr 7]. Bên cạnh đó, Mai Quốc Liên cũng nêu lên những vấn đề thi pháp thơ cần tiếp
tục khám phá như thanh vận, đối ngẫu, cú pháp, tự
pháp.
Hướng nghiên cứu này đã được Lê Thu Yến viết trong cuốn Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán
Nguyễn Du, Nxb Thanh Niên TP. Hồ Chí Minh năm 1999 [106]. Công trình này tiến hành những khảo sát
cụ thể, những chất liệu minh họa và phân tích phạm trù: hình ảnh con người nghệ thuật, không gian và
thời gian nghệ thuật. Qua đó, tác giả Lê Thu Yến nhận thấy “có rất nhiều Nguyễn Du trong một Nguyễn
Du”.
Gần đây, phả
i kể đến một số bài viết về tác phẩm cụ thể của Nguyễn Du:
- Góp phần tìm hiểu thêm về nội dung bài Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du, Nguyễn Danh
Đạt, Tạp chí Hán Nôm số 1 (14) năm 1993.
- Bàn thêm về bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du, Tạ Ngọc Liễn, Tạp chí Hán Nôm
số 3 (24) năm 1995.
- Thử tìm một cách hiểu bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du
, Nguyễn Văn Hoàn,
Nghiên cứu Văn học số 9 năm 2006.
- Độc Tiểu Thanh Ký tư liệu và hướng nghiên cứu, Nguyễn Đăng Na, Nghiên cứu văn học số
6 năm 2006.
- Đạo ý – Một bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Dương Văn Kha, Tạp chí Hán Nôm số 3 (76)
năm 2006.
- …
Những phát hiện cụ thể những bài viết này góp phần không nhỏ vào việc tìm hiểu thơ chữ Hán c
ủa
Nguyễn Du.
Trên đây, là những phác thảo quá trình nghiên cứu về văn hóa, văn hóa ứng xử của người Việt và
thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Tất cả các công trình nghiên cứu về văn hóa đi sâu về bản sắc văn hóa Việt
Nam, phân vùng văn hóa, hay văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á… chưa có công trình

nghiên cứu nào để tiếp cận một tác phẩm văn học, một tác giả văn học. V
ề văn hóa ứng xử chủ yếu nghiên
cứu môi trường ứng xử với tự nhiên, ứng xử với xã hội, ứng xử trong gia đình của người Việt, nhưng chưa
có công trình nghiên cứu nào chuyên sâu về văn hóa ứng xử của người Việt qua văn học. Nhìn chung việc
nghiên cứu về thơ chữ Hán của Nguyễn Du, các tác giả chủ yếu đi sâu thể loại, ngôn ngữ, nhân vật, c
ũng
chưa có công trình nào đi sâu vào vấn đề Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du như một
công trình chuyên biệt thì chưa có. Vì vậy, đề tài Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du kết
hợp hai mảng lại với nhau văn hóa, văn hóa ứng xử của người Việt nói chung và thơ chữ Hán nói riêng.


3. Mục đích nghiên cứu:
Luận văn bước đầu thể nghiệm hướng tiếp cận giúp khám phá hiểu biết sâu hơn trên phương diện
văn hóa góp phần hiểu thêm quan niệm sống, nếp sống, lối hành động của con người trong xã hội
Luận văn mở ra một phạm vi rộng, các tác phẩm của Nguyễn Du đưa vào giảng dạy ở cả Trung học
cơ sở và Trung học ph
ổ thông. Cùng với kiệt tác Truyện Kiều, Nguyễn Du còn để lại ba tập thơ chữ Hán
là Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Các thi tập này không chỉ góp phần làm
nên diện mạo thơ ca trung đại mà còn là nguồn tư liệu giúp chúng ta tìm hiểu thế giới nội tâm của chính
tác giả. Vì vậy, việc tìm hiểu thơ chữ Hán của Nguyễn Du có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu
và giảng dạ
y tác gia này. Hơn nữa, việc tìm hiểu Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du sẽ
đem đến nhiều hiểu biết cho con người về nét ứng xử trong cộng đồng người.

4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu:
Tiếp thu những thành tựu có trước, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
Đối tượng khảo sát: Đối tượng mà đề tài khảo sát toàn bộ
các bài thơ trong ba tập thơ chữ Hán của
Nguyễn Du là Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục được lấy trong cuốn Nguyễn
Du toàn tập do Mai Quốc Liên chủ biên (Nxb Văn học 1996). Bên cạnh đó, chúng tôi cũng so sánh thơ

văn của một số tác giả mà nội dung có liên quan để thấy được nét ứng xử tiêu biểu trong đời sống của
người Việt.
Phạm vi khảo sát, nghiên cứu: Đề
tài chỉ chú trọng khảo sát về thơ chữ Hán của Nguyễn Du, từ đó
luận văn cố gắng chỉ ra và hệ thống những nét ứng xử tiêu biểu mà đã trở thành chuẩn mực trong đời sống
của người Việt.
Từ mục đích và phạm vi nghiên cứu của luận văn chúng tôi cố gắng tìm hiểu thơ chữ Hán của
Nguyễn Du từ góc nhìn truyền thống v
ăn hóa của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, trước giới hạn rộng lớn
của truyền thống văn hóa Việt, chúng tôi chỉ xin đi vào văn hóa ứng xử, là những nét cư xử trong cuộc
sống hằng ngày của ông cha ta đã đi vào thơ chữ Hán của Nguyễn Du.
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi có ý tiếp thu cách làm văn hóa so sánh để có thể chỉ
ra được đâu là nét văn hóa thuần Việt và đâu là ảnh hưở
ng văn hóa ngoại sinh đến văn hóa, đặc biệt là văn
hóa ứng xử của người Việt. Chúng tôi hi vọng rằng luận văn sẽ cung cấp phần nào một cách nhìn về thơ
chữ Hán của Nguyễn Du từ góc độ văn hóa ứng xử, cũng như những lý giải khá thú vị về văn hóa ứng xử
của người Việt qua thơ chữ Hán này.

5. Phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp lịch sử: Khảo sát thơ chữ Hán của Nguyễn Du theo thời gian để nhận diện những
nét Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du.
- Phương pháp so sánh: So sánh Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du với văn hóa
ứng xử của một số danh nhân văn hóa trước và sau đó đề làm nổi bật những ứng xử thể hiệ
n rõ bản sắc
văn hóa.
- Phương pháp thống kê: Thống kê những từ ngữ quan trọng được Nguyễn Du sử dụng trong
những sáng tác của ông nhằm góp phần làm rõ hơn tư tưởng, tình cảm cũng như những lựa chọn ứng xử
của ông.
- Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Xem xét thơ chữ Hán của Nguyễn Du với tư cách là một chủ

thể văn hóa toàn vẹn trong mố
i quan hệ với bối cảnh văn hóa – lịch sử của thời đại Nguyễn Du, xem xét
các bình diện Văn hóa ứng xử trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du trong mối quan hệ, hệ thống.

6. Kết cấu của luận văn:
Do những đặc điểm về đối tượng và phương pháp nghiên cứu… như đã trình bày ở trên luận văn
Văn hóa ứng xử trong thơ ch
ữ Hán của Nguyễn Du có kết cấu như sau:
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
2. Lịch sử vấn đề.
3. Mục đích nghiên cứu.
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu.
6. Kết cấu của luận văn.
B. NỘI DUNG
Chương 1: VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU - NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm văn hóa
1.1.2. Khái niệm ứng x

1.1.3. Khái niệm văn hóa ứng xử
1.2. Văn hóa ứng xử tiếp hợp nhiều yếu tố văn hóa ngoại lai
1.2.1. Tiếp hợp Nho giáo
1.2.2. Tiếp hợp Phật giáo
1.2.3. Tiếp hợp Đạo giáo
Chương 2: NGUYỄN DU VÀ THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU

2.1. Nguyễn Du
2.1.1. Thời đại Nguyễn Du

2.1.2. Gia thế và cuộc đời Nguyễn Du
2.2. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du
Chương 3: NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
3.1. Ứng xử đối với bản thân
3.2. Ứng xử với môi trường tự nhiên
3.2.1. Thiên nhiên tươi đẹp để hưởng thụ ngâm vịnh
3.2.2. Thiên nhiên kỳ quái khiến con người phải khiếp sợ
3.3. Ứ
ng xử với môi trường xã hội
3.3.1. Vua chúa
3.3.2. Quan lại
3.3.3. Những người nghèo khổ
3.3.4. Người hiền người tài
3.3.5. Phụ nữ
3.4. Ứng xử trong gia đình
C. KẾT LUẬN
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO


B. NỘI DUNG
Chương 1 : VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU - NHỮNG VẤN ĐỀ
CHUNG
1.1. Các khái niệm:
1.1.1. Khái niệm văn hóa:
Trong bối cảnh của một thế giới mở cửa và đầy biến động như hiện nay, văn hóa là một lĩnh vực
luôn được hầu hết, quốc gia, dân tộc trên thế giới dành cho sự quan tâm đặc biệt tầm quan trọng của văn
hóa được nêu lên hàng đầ
u. Kể từ khi văn hóa trở thành một đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học
về văn hóa, khởi nguồn từ định nghĩa của E.B Taylor trong cuốn “Văn hóa nguyên thủy” xuất bản ở
London, năm 1871 cho đến nay đã có rất nhiều định nghĩa về văn hóa. Vào năm 1952 hai nhà nhân học

người Mỹ là A. Kroeber và C.Kuckhohn đã viết một cuốn chuyên bàn về các định nghĩa văn hóa “Văn
hóa: Tổng luận phê phán các quan ni
ệm và định nghĩa” trong đó đã dẫn ra và phân tích 150 định nghĩa về
văn hóa [22, tr 8]. Trong lần xuất bản thứ hai của cuốn này số định nghĩa đã tăng lên 200. Hiện nay số
lượng định nghĩa có thể là 400 đến 500 [67, tr 19]. Việc xác định và đưa ra một khái niệm chung về văn
hóa không đơn giản bởi xuất phát từ cứ liệu riêng, mỗi một tác giả đưa ra một nhận định v
ề văn hóa phù
hợp với lĩnh vực nghiên cứu của mình. Cùng với thời gian, khái niệm văn hóa tự làm phong phú thêm bởi
sự đóng góp của những nội dung mới [98].
Nghiên cứu từ gốc: Văn hóa – culture
Ở Phương Tây, người ta căn cứ vào chiết tự, từ nguyên culture của Tiếng Anh và Tiếng Pháp,
tiếng Đức có từ kultur, tiếng Nga có từ kultura, người Bồ Đ
ào Nha và Tây Ban Nha có từ cutura… xuất
phát của nó từ tiếng Latinh culture để giải nguyên từ văn hóa là “gieo trồng”, “canh tác” - ở ngoài đồng
tức là nông nghiệp. Về sau chuyển thành “nuôi dưỡng, vun trồng, tinh thần, trí tuệ”. Ở đây là nói quá trình
giáo dục, bồi dưỡng về mặt tinh thần cho con người.
Ở Phương Đông, theo nhà nghiên cứu Từ Hồng Hưng ở Trung Quốc trong bài “Tổng luận về văn
hóa” thì từ văn hóa là do ng
ười Nhật Bản vào cuối thế kỉ XIX đã chuyển dịch từ chữ cutura của Phương
Tây mà dẫn vào Nhật, sau đó mới chuyển qua Trung Quốc. Ở Trung Quốc, từ văn hóa đã có ngay từ thời
Tây Hán. Nhà nghiên cứu cho biết văn hóa là “cai trị, giáo hóa, lễ nhạc, điểm chương, chế độ” cách giải
thích này vẫn được bảo lưu ở Trung Quốc cho đến ngày nay, đương nhiên nó v
ẫn hoàn toàn không giống
nghĩa từ cutura ở phương Tây hiện đại.
Căn cứ vào phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn mẫu văn hóa rất phong phú, đa dạng và được dùng
với nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng cách bao quát nhất quy về hai cách hiểu chính theo nghĩa rộng và
theo nghĩa hẹp.

Theo nghĩa hẹp, văn hóa được giới hạn theo chiều sâu hoặc chiều rộng theo không gian và thời
gian. Giới hạn theo chiều sâu được hiểu là những giá trị tinh hoa (nếp sống văn hóa, công trình văn hóa…)

Giới hạn theo chiều rộng, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực (văn hóa giao tiếp,
văn hóa kinh doanh… Giới hạn theo không gian văn hóa được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của t
ừng
vùng (văn hóa Tây Nguyên, văn hóa Nam Bộ…) Giới hạn theo thời gian, văn hóa được dùng để chỉ những
giá trị trong từng giai đoạn (văn hóa Hòa Bình, văn hóa Đông Sơn…)
Hiểu theo nghĩa rộng, văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần đã được xã hội hóa trong lao
động sáng tạo của con người. Nhờ tiếp cận những giá trị ấy, con người trong cộng đồng trở thành con
người có nă
ng lực và hoạt động của văn hóa luôn hướng tới giá trị “Chân –Thiện - Mỹ”. Với tư cách là
một phạm trù rộng, văn hóa luôn bao hàm nội dung và sự phản ánh thực tại của đời sống con người. Văn
hóa là tất cả những giá trị do con người sáng tạo ra và được trao quyền từ thế hệ này cho đến các thế hệ
sau, là sự thể hiện trình độ phát triển của con người trong mỗi thờ
i đại lịch sử nhất định. Với sự phát triển
không ngừng của đời sống xã hội làm cho nội dung và khái niệm văn hóa ngày càng phong phú, đa dạng
hơn. Và vì vậy, các nhà khoa học có thể tiếp cận khái niệm văn hóa ở nhiều lĩnh vực khác nhau như ngôn
ngữ học, tâm lý học, triết học, dân tộc học, xã hội học… Cho đến nay có rất nhiều định nghĩa về văn hóa.
Vào nửa cu
ối thế kỉ XIX, Eduard Burnett Tylor, nhà văn hóa xã hội học người Anh là người đầu
tiên cấp cho văn hoá định nghĩa được chấp nhận một cách rộng rãi. “Văn hóa là một chỉnh thể phức tạp
bao gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và bất kỳ năng lực và thói quen
khác được con người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội” [24, tr 13].
Tiếp nhậ
n quan điểm của Ward Goodnough, R.A.Hudson cho rằng “Văn hóa là một xã hội theo tôi
quan niệm, bao gồm tất cả những cái gì mà một người phải biết và phải tin để có thể hành xử theo cách
sao cho được các thành viên khác trong cộng đồng chấp nhận… Văn hóa vốn là những cái mà con người
phải học mới có được, khác với vốn thừa kế sinh vật học của mình, suy cho đến cùng là những hiểu biết –
sản phẩm của s
ự học tập, theo cách hiểu chung nhất của thuật ngữ này” [7, tr 1].
V. Gudinaf lại coi văn hóa “không phải là hiện tượng vật chất mà là một tổng thể nhất định các tri
thức và mô hình giải thuyết cái mà con người nói ra và làm ra”[79, tr 16].

Từ điển Triết học định nghĩa “Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn xã hội – lịch sử và tiêu biểu cho trình độ
đạt được trong lịch sử, phát
triển phụ thuộc vào sự thay đổi theo các hình thái kinh tế xã hội” [38, tr 659 ]. Ông Federico Mayor
Zaragza - Tổng giám đốc UNESSCO nhận định “Văn hóa là tổng thể sống động, các hoạt động sáng tạo
trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống giá trị,
các truyền thống và các thị hiếu – những yếu tố xác định đặc tính riêng của m
ỗi dân tộc”[101, tr 10]. Hiện
nay UNESSCO đang nhìn nhận văn hóa với ý nghĩa rộng rãi hơn như một phức thể - tổng thể các đặc

trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, trí tuệ và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng, gia
đình, làng, xóm, vùng, miền, quốc gia. UNESSCO còn đưa ra cách hiểu hẹp hơn “Văn hóa là một tổng thể
những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng
ấy có đặc thù riêng. Văn hóa bao gồm các giá trị để
đánh giá một sự việc, một hiện tượng (đẹp hay xấu,
đạo đức hay vô luân, phải hay trái, đúng hay sai) theo cộng đồng ấy” [47, tr 863].
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu dựa trên tính lịch sử, tính giá trị, nguồn gốc, tâm lý… hình thành
nên văn hóa của mỗi dân tộc. Mỗi định nghĩa thể hiện cho một tiêu chí nghiên cứu của mỗi ngành khoa
học khác nhau. Trước sự đa dạng về định nghĩa văn hóa, nhằm tạo sự thố
ng nhất trong nghiên cứu,
UNESSCO đã đưa ra định nghĩa mang tính tổng quát. Trong định nghĩa của UNESSCO đặc biệt nhấn
mạnh đến tính riêng biệt của mỗi nền văn hóa nhưng vẫn đảm bảo đến nội hàm của định nghĩa về văn hóa
mà các tác giả đề cập.
Bên cạnh những định nghĩa về văn hóa đã nêu trên của các học giả nước ngoài, một số nhà nghiên
c
ứu Việt Nam cũng đưa ra một số khái niệm nhận thức cơ bản về văn hóa. Vào những năm 1942, Chủ
Tịch Hồ Chí Minh đã nêu định nghĩa về văn hóa “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích về cuộc sống, loại
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, nghệ
thuật, những công cụ sinh hoạt h
ằng ngày ăn, mặc, ở cũng như các phương thức sử dụng. Toàn bộ sáng

tạo và phát minh tức là văn hóa. Văn hóa là tổng thể của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện
của nó mà loại người đã phải sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống mà đòi hỏi của sự sinh tồn”
[98, tr 21].
Có thể thấy, định nghĩa về văn hóa của H
ồ Chí Minh đã bao quát một phạm vi rộng lớn, bao gồm
toàn bộ hoạt động sáng tạo tinh thần cũng như sinh hoạt vật chất của xã hội, mang dấu ấn sâu sắc của một
trật tự văn minh, bản sắc của dân tộc. Định nghĩa về văn hóa trên còn nguyên giá trị. Từ truyền thống văn
hóa Việt Nam và phương Đông kết hợp với việc trực tiếp kh
ảo sát chủ nghĩa thực dân, nghiên cứu phong
trào dân tộc, phong trào công nhân trên thế giới, tiếp thu tinh hoa văn hóa phương Tây, Hồ Chí Minh đã
đến với văn hóa Việt Nam trong tư tưởng của Người đó là chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng, tinh
thần “không có gì quý hơn độc lập tự do”, ý thức tự cường và lạc quan, thông minh và sáng tạo, ý chí
đoàn kết quyết chiến, quyết thắng kẻ thù; đó là lòng nhân ái, thủy chung, bao la, đạo làm người đấu tranh
v
ươn tới con người có nhân phẩm và trí tuệ. Chính Hồ Chí Minh từ năm 1924 đã báo cáo với quốc tế
Cộng Sản rằng, “phải bổ sung củng cố chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học phương Đông” [65, tr 465, tập 1].
Gần đây một số độc giả Việt Nam cũng đưa ra một số quan niệm về văn hóa. Có quan niệm cho rằng tất
cả những gì không phải thiên nhiên đề
u là văn hóa “Văn hóa không phải là kỹ thuật, cũng không phải là
bản thân sản xuất, không phải là hoạt động tinh thần ở tự bản thân nó, không phải là hoạt động xã hội,

chính trị… cũng không phải là phong tục… Văn hóa là các dấu ấn của một thể cộng đồng này từ tín
ngưỡng, phong tục cho đến cả sản phẩm công nghệ, bán ra thị trường” [67, tr 20].
Phạm Xuân Nam thì khẳng định: Yếu tố hàng đầu của văn hóa là sự hiểu biết, bao gồm tri thức
khoa học, kinh nghiệm và sự khôn ngoan tích lũy được trong quá trình học tập, lao động sản xuất và đấu
tranh để duy trì và phát triể
n cuộc sống của mỗi cộng đồng dân tộc và các thành viên trong cộng đồng ấy.
Nhưng chỉ riêng sự hiểu biết không thôi chưa làm nên văn hóa. Sự hiểu biết chỉ trở thành văn hóa khi nó
làm nền và định hướng cho thế ứng xử (thể hiện ở tâm hồn, đạo lý, lối sống, thị hiếu, hành vi…) của mỗi
cá nhân và cả cộng đồng hướng tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong quan hệ

với mình, với người, với môi
trường xã hội và môi trường tự nhiên [77, tr 27].
Trần Văn Giàu định nghĩa văn hóa theo nghĩa rộng. Theo ông văn hóa không chỉ là bao gồm kiến
thức chuyên môn, kiến thức nghiệp vụ, ngoại ngữ, năng lực sử dụng thiết bị tin học… mà phải bao gồm cả
đạo đức, tâm lý, nếp sống, sức khỏe…[77, tr 28].
Phan Ngọc trong “Bản sắc văn hóa Việt Nam” đã nêu ra
định nghĩa về văn hóa “Văn hóa là mối
quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều
đã bị cá nhân này hay tộc người này mô hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều kiện rõ
nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ nhận thấy nhất, biểu hiện thành một ki
ểu
lựa chọn của cá nhân hay của tộc người khác”[68, tr 17 - 18]. Tác giả Phan Ngọc chú trọng tới kiểu lựa
chọn của mỗi nền văn hóa, Phan Ngọc xác định đối tượng của văn hóa là cái mô hình trong óc con người
với cái mô hình mà họ tạo ra trong hiện thực. Nghĩa là nghiên cứu văn hóa là nghiên cứu ở cấp độ quan hệ
chứ không phải ở cấp độ hiện tượng.
Nhìn chung, các nhà khoa học đều muố
n cố gắng nêu bật tính bản chất của văn hóa trong mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên và mối quan hệ giữa con người với con người xã hội.
Theo Hồ Bá Thâm, khi tiếp xúc khái niệm văn hóa cần phải có đầy đủ bốn đặc trưng cơ bản: tiếp
cận hoạt động, tiếp cận giá trị, tiếp cận phát triển, tiếp cận công nghệ. Từ đó, ông đư
a ra định nghĩa về văn
hóa “Văn hóa là tổng hòa các giá trị vật chất và tinh thần theo tính chân – thiện – mỹ, do hoạt động của
con người sáng tạo ra thông qua các phương thức tồn tại của đời sống xã hội và ngày càng phát triển.
Văn hóa là sự phát triển, tiến bộ là phát triển, tiến bộ là văn hóa” [82, tr 15].
Đào Duy Anh đã nghiên cứu văn hóa: “Các điều kiện địa lý có ảnh hưởng lớn đối v
ới các sinh hoạt
con người, song người là hạt giống hoạt động cho nên cũng trở lại cũng có thể dùng sức mình và xử trí và
biến những điều kiện ấy cho thích hợp với những điều kiện cần thiết của mình. Cách sinh hoạt vì thế mà
cũng biến chuyển mà khiến cho văn hóa cũng biến chuyển theo. Nghiên cứu xem như hoạt động để sinh
hoạt về các phương diệ

n của các dân tộc xưa nay biến chuyển thế nào, là nghiên cứu văn hóa lịch sử của
dân tộc ấy” [1, tr 3]. Đào Duy Anh đã nhận thấy văn hóa cách sinh hoạt của con người nảy sinh trong quá

trình lao động trong quá trình sinh hoạt nhất định. Ông còn nhấn mạnh đến sự khác nhau giữa văn hóa của
các dân tộc. “Người ta thường cho rằng văn hóa chỉ là những học thuật tư tưởng loài người, nhân thế mà
xem xét văn hóa có tính chất cao thượng đặc biệt. Thực ra không phải là vậy. Học thuật tư tưởng cố nhiên
là ở trong phạm vi của văn hóa nhưng phận sự về sinh hoạt kinh tế, về chính tr
ị, về xã hội cũng hết thảy
các phong tục tập quán thường lại không ở trong phạm vi văn hóa hay sao? Hay tiếng văn hóa chẳng qua
chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng: Văn hóa tức là sinh
hoạt” [1, tr 13].
Trần Quốc Vượng nhận định: “Môn nghiên cứu tộc người đã được phương Tây khai thác trong
công cuộc khám phá và chinh phục thổ dân vùng đất mới, mở rộng thị
trường và có thể cả trong việc kích
thích mâu thuẫn sắc tộc trong các quốc gia độc lập. Vào thời hiện đại các nước phương Tây đi từ “tộc
người học” đến “nhân học” ít chú ý đến văn hóa quốc gia – dân tộc, thậm chí vấn đề bản sắc dân tộc gắn
với độc lập quốc gia có vẽ như không thích hợp với chiến lược toàn cầu hóa. Trong khoa học phương Tây,
văn hóa là nội dung c
ơ bản của “xã hội học”. Từ lâu, thế giới khoa học Việt Nam đã nhận thấy “chúng ta
còn thiếu hẳn việc xây dựng một khung cảnh khái niệm và những công cụ lý luận, phân tích và tổng hợp
để áp dụng vào công cuộc nghiên cứu văn hóa Việt Nam dù là dưới nhãn quan đồng đại hay dưới nhãn
quang lịch đại” [99, tr 94].
Như vậy, việc áp dụng phương pháp nghiên cứu văn hóa phương Tây vào nền văn hóa Việt Nam
vẫn chưa có điểm phù hợp, đòi hỏi người nghiên cứu phải có những cơ sở nghiên cứu để áp dụng vào thực
tiễn nền văn hóa. Do đó, khi nghiên cứu đề tài, chúng tôi dựa vào những quan điểm nghiên cứu của tác giả
Trần Quốc Vượng và Trần Ngọc Thêm đó là những học giả xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu văn hóa
xuất phát từ đặc trư
ng của nền văn hóa Việt Nam để khảo sát đề tài.
Theo Trần Quốc Vượng “cái văn hóa là sự biến đổi cái tự nhiên của từng cộng đồng người nhất
định. Văn hóa là sự phản ứng, sự chế ngự, sự trả lời của một cộng đồng người trước những thách đố của

mọi cái gì tự nhiên (kể cả môi trường tự nhiên lẫn cái được g
ọi là bản năng tự nhiên của con người). Văn
hóa là lối sống của một cộng đồng người, là thế ứng xử tập thể (hay công thể) của một cộng đồng người,
của một xã hội, là tổng thể những đồng nhất thể của các thành viên về các phương diện nhận thức, quan
điểm, chuẩn mực, biểu tượng và các hệ thống giá trị… Vă
n hóa hiểu như vậy thì có mặt bao la (toàn bộ
các thành tựu của con người) vừa có mặt chặt chẽ (phản ứng tập thể của từng cộng đồng người, do đó có
nhiều loại hình khác nhau” [94, tr 159].
Dựa vào định nghĩa trên, chúng tôi nhận thấy Trần Quốc Vượng đã nhấn mạnh mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên. Đặc biệt là ông chú ý đến mặt xã hội của con người trong quá trình nghiên c
ứu
văn hóa. Vì vậy, các nhà nghiên cứu cần tiếp nhận văn hóa Việt Nam cả phương diện lịch đại lẫn đồng
đại. Bởi với sự kết hợp như thế, người nghiên cứu sẽ có một cái nhìn toàn diện.

Đi liền với việc kế thừa những quan điểm trên, chúng tôi còn căn cứ vào cơ sở nghiên cứu về văn
hóa của tác giả Trần Ngọc Thêm. Ông đã đưa ra một định nghĩa ngắn gọn và bao quát về văn hóa: “Văn
hóa là một hệ thống hữu cơ có giá trị vật chất và tinh thần cho con người sáng tạo và tích lũy trong quá
trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác gi
ữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của
mình”[87 , tr 25].
Từ định nghĩa của Trần Ngọc Thêm, ta có thể xác định đặc trưng và chức năng của văn hóa:
Văn hóa có tính hệ thống: là một thực thể bao trùm mọi hoạt động xã hội nên văn hóa có chức năng
tổ chức xã hội, là nền tảng xã hội, làm ổn định và giúp xã hội ứng phó với môi trường tự
nhiên và nội tại.
Văn hóa có tính giá trị: là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người nên văn hóa có chức
năng điều chỉnh xã hội định hướng vừa là động lực cho sự phát triển xã hội, giúp xã hội duy trì trạng thái
cân bằng, không ngừng tự hoàn thiện vừa thích ứng với những biến đổi của môi trường.
Văn hóa có tính nhân sinh: là sợi dây nối liền con người nên văn hóa có chứ
c năng giao tiếp liên
kết con người trong cuộc sống bình thường cũng như trong các biến động của xã hội, thiên nhiên.

Văn hóa có tính lịch sử: là một quá trình có bề dày tích lũy, được lưu truyền và tạo nên truyền
thống. Truyền thống tồn tại và phát triển thông qua giáo dục nên văn hóa có chức năng giáo dục, giáo dục
những giá trị truyền thống và cả những giá trị đang hình thành, tạo thành một hệ thống chu
ẩn mực, cho
con người hướng tới. Từ chức năng giáo dục văn hóa có chức năng tái sinh là đảm bảo tính kế tục của lịch
sử di truyền phẩm chất tốt đẹp của dân tộc cho các thế hệ mai sau.
Hình thức biểu hiện gồm có văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần hay văn hóa vật thể (tangible)
và văn hóa phi vật thể (intangible).
Quan điểm hệ thống cấ
u trúc văn hóa theo Trần Ngọc Thêm thì văn hóa là một hệ thống gồm
nhiều phân hệ trong hệ thống văn hóa (nền văn hóa) gồm 4 thành tố (tiểu hệ) cơ bản:
- Văn hóa nhận thức.
- Văn hóa tổ chức cộng đồng.
- Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên.
- Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội.
Trên đây là kế
t quả của những phương diện chính của khái niệm văn hóa. Qua đó chúng ta có thể
hiểu “văn hóa là toàn bộ những hoạt động vật chất, tinh thần và loại người sáng tạo ra trong lịch sử của
mình trong quan hệ với con người, với tự nhiên và với xã hội được đúc kết lại thành hệ giá trị và chuẩn
mực xã hội”.
Như vậy, văn hóa có một số nội dung cơ b
ản sau:
- Văn hóa là thuộc tính bản chất của con người và xã hội loại người, có mặt hầu như trong tất cả
các hoạt động, các lĩnh vực của con người và xã hội.

- Đối với cộng đồng xã hội, văn hóa thường được thể hiện như một lối sống một kiểu ứng xử riêng
biệt và tương đối ổn định, được di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
- Yếu tố cốt lõi văn hóa là một cộng đồng người là hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, thể hiện như là
bản sắc củ
a cộng đồng nó có chức năng điều tiết hành vi của các thành viên, tạo nên sự thống nhất hoạt

động trong cộng đồng xã hội ấy.
Như vậy, văn hóa là một hệ thống được định hình và phát triển trong quá trình lịch sử, bao gồm
nhiều yếu tố hợp thành như hệ giá trị, tập quán, thói quen, lối ứng xử, các chuẩn mực xã hội, nó mang tính
ổn định, bền vững và có kh
ả năng di truyền qua nhiều thế hệ “là nền tảng của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội”.

1.1.2. Khái niệm ứng xử:
Khái niệm ứng xử theo “Từ điển Tiếng Việt” do GS. Hoàng Phê chủ biên thì nghĩa của từ “ứng”
mang lại hai nội dung chính sau. Thứ nhất là đáp lại, lên tiếng đáp lại kêu gọi. Thứ hai là mố
i quan hệ phù
hợp tương đối với nhau. Còn “xử” có nghĩa là hành động theo cách nào đó, thể hiện thái độ với người
khác trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định. Thuật ngữ ứng xử được sử dụng trong tiếng Nga
ΠΟΒеДеНИе, tiếng Anh behavior, tiếng Mỹ behavior, tiếng Pháp comportement hay conduit [2, tr 16].
Trong Bách khoa toàn thư Xô Viết có định nghĩa khá ngắn gọn về ứng xử: “Hệ thố
ng các quan hệ
tương tác, các phản ứng được thực hiện bởi các vật thể sống để thích nghi với môi trường. Ứng xử (hành
vi, tập tính) của động vật và con người được nghiên cứu bởi các ngành Tập tính học, Tâm lý học, Xã hội
học” [2, tr 17]. Như vậy ứng xử là một quan hệ tương tác, phản ứng giữa tự nhiên, con người và cộng
đồng.
Các nhà nghiên cứu tâm lý, từ góc độ tâm lý học lạ
i chủ yếu tìm hiểu, khai thác khái niệm ứng xử:
“Ứng xử ở khía cạnh những quan hệ giao tiếp, xuất phát từ vỏ ngôn ngữ, họ cho rằng ứng xử là sự phản
ứng của con người đối với tác động của người khác trong một tình huống cụ thể nhất định. Nó thể hiện
những chỗ con người không chủ động trong giao tiếp mà chủ động trong phản ứng có l
ựa chọn, có tính
toán, thể hiện qua thái độ hành vi, cử chỉ, cách nói năng tùy thuộc vào tri thức kinh nghiệm cá nhân của
mỗi con người nhằm đạt hiệu quả cao nhất” [5, tr 11- 12]. Trên cơ sở đó, ứng xử được hiểu là cách xử thế
nhằm ứng phó với một hoặc nhiều đối tượng nào đó trong giao tiếp.
Từ góc độ nhân văn hóa học lại không chú trọng hành vi ứng xử có tính cá biệt mà nghiên cứu môi

trường xã hội văn hóa ảnh hưởng thế nào đến ứng xử con người [2, tr 19].
Từ góc độ sinh học, nhà khoa học cho rằng ứng xử có nghĩa “toàn thể những phản ứng thích nghi
có thể quan sát khách quan là một cơ chế, cơ chế có một hệ thống thần kinh thực hiện để đáp trả lại

những khích thích… Điều đáng chú ý là những phản ứng ấy (những ứng xử, xử lý để đáp ứng) được diễn
ra theo cách tương đối ổn định” [21, tr 43].
Dưới góc độ xã hội học, ứng xử dùng để chỉ “các hoạt động như thế nào đó của một vai trò xã hội
nào đối diện với một vai trò khác (tức một cặp vai trò như: vợ/ chồng, cha/ mẹ
,…) Và đó là những hoạt
động hoặc gọi là phản ứng theo một cách tương đối. Ứng xử trong chỉ giới hạn những vai trò xã hội với
nhau còn ứng xử với mình, ứng xử với đồ vật, với tự nhiên” [21 ,tr 43].
Từ góc độ ngôn ngữ học, “ứng xử là một từ ghép hai từ ứng xử. Mà ứng xử lại bao gồm nhiều
nghĩa khác nhau như ứng phó,
ứng đáp, ứng biến và xử sự” [21, tr 44].
Trong cuốn sách “Tâm lý ứng xử”, Lê Thị Bừng định nghĩa: “Ứng xử là sự phản ứng của con
người đối với sự tác động của người khác đến mình trong một tình huống cụ thể nhất định. Nó thể hiện ở
chỗ con người không chủ động trong giao tiếp mà chủ động trong phản ứng có sự lựa chọn, có tính toán,
thể
hiện qua thái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng tùy thuộc vào tri thức, kinh nghiệm và nhân cách của
mỗi người nhằm đạt hiệu quả giao tiếp cao nhất.” [5, tr 17].
Trong cuốn “Xã hội văn hóa” của tác giả Đoàn Văn Chúc đề cập đến khái niệm Ứng xử “là một
trừu tượng chỉ sự dính líu nhau của mỗi người, mỗi nhóm người trong cuộc sống xã hội. Liên hệ xã hội
chỉ trở thành hữ
u hình nắm bắt được mỗi khi con người hay nhóm người hoạt động như thế nào đấy là
khách thể hóa, cụ thể hóa một liên hệ xã hội. Hoạt động và nói thế nào đấy là ứng xử. “Ứng”: đáp lại,
đối lại. “Xử”: đối đãi” [12, tr 61]. Từ đó cho thấy, sự ứng xử được biểu hiện ở con người và các nhóm
người trong mọi hoạt động sinh tồn, trong đ
ó là chủ yếu những người với người và tất nhiên gồm cả mối
quan hệ giữa chủ thể và đối tượng. Ứng xử với người gồm ba yếu tố tạo thành một tổng thể không tách
rời.

- Tính hữu thức thực tế, định hướng trong lao động như chủ thể cảm thấy, nhận thấy, hiểu
mình đang đứng trước tình huống và t
ổ chức hoạt động của mình.
- Những biểu hiện ra ngoài có khi quan sát được (những phản ứng sinh lý, cơ thể thực hành
vật chất).
- Mối liên hệ với môi trường sống, bao gồm hết thảy môi trường hữu thể và giới người xung
quanh gắn liền với tình huống.
Ứng xử theo cách này hay cách khác là chấp nhận một nếp ứng xử, là ứng xử theo nguyên tắc. Việc
thực hiện theo nguyên tắc về ứng xử thành nếp ứng xử. Sự lập đi lập lại việc thi hành những nguyên tắc
ứng xử sẽ tạo thành tập quán. Trong xã hội, con người có những cảm xúc, suy nghĩ và hành động tương
đối giống nhau theo một khuôn mẫu. Mà khuôn mẫu là cái hình thành ổn định – mô hình – dùng làm mực
thước tạo nên một cái gì đó. Cái đó là giá trị được xã hội đương thời thừa nhận. Cái khuôn mẫ
u khi nó
thường xuyên lập đi, lập lại bởi nhiều cá nhân trong xã hội.

Về phương diện cá nhân: Đời sống của con người bao giờ cũng được thực hiện bởi một hệ thống
toàn diện những ứng xử đến mức có thể nói rằng sống là ứng xử theo cách nào đấy, ứng xử với thiên
nhiên, ứng xử với đồng loại. Một con người muốn hòa nhập vào cộng đồng là phải nhập mình vào các mối
liên hệ xã hội chằng ch
ịt, mà liên hệ xã hội thì không có cách thực hiện nào khác là ứng xử.
Về phương diện xã hội: Mỗi con người ứng xử theo cách nào đó là bởi các thế hệ trước dạy cho thế
hệ sau. Dạy bằng chính sự tiếp nhận ứng xử của họ cũng như bằng sự giảng giải, truyền dạy ý nghĩa giá trị
xã hội của mỗi ứng xử mà họ lự
a chọn và đã chấp nhận.
Theo Đoàn Văn Chúc “Khuôn mẫu ứng xử là một trạng thái nhất trí về hoạt động và cảm nghĩ
được diễn ra ở một đa số người. Là ứng xử đã được tổng quát hóa tiêu chuẩn hóa và hợp thức hóa dùng
làm chuẩn mực hay chỉ nan để phân biệt, trong bất cứ xã hội nào, ứng xử chấp nhận được với ứng xử
không th
ể chấp nhận được” [12, tr 64].
Như vậy, ứng xử của con người (cá nhân hay cộng đồng) phản ứng các mối liên hệ cơ bản sau đây.

Thứ nhất, nói đến ứng xử là nói đến cách xử trí trong mối quan hệ giữa người với người hoặc giữa
cá nhân với cộng đồng trước những sự kiện hoặc sự việc cụ thể.
Thứ hai, ứng x
ử cũng là một phương diện cấu thành của văn hóa, là biểu hiện tổng hợp của văn
hóa.

1.1.3. Khái niệm văn hóa ứng xử:
Truyền thống văn hóa Việt Nam, ông cha ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề giao tiếp ứng xử. Các
câu danh ngôn được truyền dạy cho thế hệ sau “Lời nói chẳng mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng
nhau”, “Kỷ sở bất dục vật thi ư
nhân” (Điều gì mà mình không muốn thì đừng gán cho người khác), “Phải
học ăn học nói học gói học mở”… những vẻ đẹp trong ứng xử đã được cha ông ta đã gìn giữ và phát triển
tạo thành truyền thống văn hóa của dân tộc.
Ứng xử của con người trong xã hội không diễn ra tùy tiện, ngẫu phát của mỗi cá nhân, mà chúng
lập đi lập lại thường xuyên bởi nhiều người trong cả không gian lẫn th
ời gian và do nó đã tạo thành những
khuôn mẫu. Cái khuôn mẫu ấy được coi là ứng xử có văn hóa. Vì khuôn mẫu ứng xử là khách thể hóa
những kiến thức, những tư tưởng tình cảm đã đạt được và mong ước đạt được một nền văn hóa. Ứng xử
của con người có rất nhiều, song không phải bất kì ứng xử nào cũng trở thành khuôn mẫu có văn hóa. Để
xác lập một ứ
ng xử nào đấy có khuôn mẫu hay không thì phải có các yếu tố để đánh giá. Theo tác giả
Đoàn Văn Chúc có bốn yếu tố sau:
- Ứng xử được thường xuyên lập đi lập lại tức là tính thời gian của ứng xử.
- Ứng xử được thường xuyên lập lại tương đối theo cùng một cách bởi nhiều người, tức là
tính không gian của ứng xử.

- Ứng xử có tác dụng chỉ nam mẫu mực hay quy tắc cho các thành viên của một nhóm hay
một xã hội.
- Ứng xử ấy chứa đựng một ý nghĩa xã hội nào đấy, tức là nó biểu hiện kiến thức tư tưởng
hoặc tình cảm mà chủ thể đã đạt được, nói cách khác nó mang vác một giá trị (kinh tế, chính

trị, luân lý hay thẩm mỹ) [12, tr 66].
Bốn yếu tố trên có quan hệ thật thiết vớ
i nhau và không thể tách rời nhau tạo nên một khuôn mẫu
văn hóa.
Văn hóa ứng xử là “cầu nối, là sự đan xen yếu tố bên trong (nội tâm) và yếu tố bên ngoài (ngoại
tâm). Nó là điểm cuối cùng của những gì diễn biến trong tâm lý con người và là điểm bắt đầu của hành vi,
của ứng xử của hành động” [54, tr 74]. Văn hóa ứng xử thể hiện tính tích cực năng động, tính sáng tạo với
tư cách là một chủ thể. Từ đó thể hiện trình độ cao về văn hóa phản ánh trình độ về phát triển nhân cách
của người đó. Như vậy, văn hóa ứng xử tốt hay chưa tốt, sâu hay chưa sâu, tích cực hay thiếu tích cực thì
chất lượng cao của văn hóa ứng xử trước hết thể hiện ở tính tích cực trong ý thức, trong hành vi của các
mối quan hệ mà chất lượng này biể
u hiện qua giao tiếp.
Theo tác giả Đỗ Long chất lượng của văn hóa ứng xử chỉ đạt được khi:
- Văn hóa ứng xử góp phần tổ chức các dạng hoạt động của cộng đồng nhằm đạt hiệu quả cao,
đạt đến những mục tiêu tốt đẹp.
- Văn hóa ứng xử góp phần thực hiện tốt các tác động qua lại giữa các thành viên và giữa các
nhóm có các hình th
ức tiếp xúc giao lưu.
- Văn hóa ứng xử góp phần củng cố các hình thức quan hệ, tác động qua lại với các cộng
đồng, qua đó phát huy tính tích cực của các thành viên và các bên tham gia.
- Văn hóa ứng xử góp phần xây dựng phát triển và củng cố tính tự ý thức của mỗi cá nhân –
với tư cách chủ thể có văn hóa cao – trong việc thực hiện các giá trị chung và những giá trị
riêng của chính mình.
- Văn hóa ứng x
ử góp phần tạo dựng chân dung văn hóa của mỗi con người cụ thể. Con người
đó nổi bật lên từ ý nghĩa đẹp đến ứng xử đẹp, từ khuôn mặt đẹp, ngôn ngữ đẹp đến quần áo
đẹp [54, tr 77 - 78].
Bản chất của văn hóa ứng xử thể hiện thông qua các biểu tượng trên.Vậy văn hóa ứng xử là một
trong những dạng thức của đời số
ng văn hóa, có thể hiểu “văn hóa ứng xử là một hệ thống thái độ hành vi

được xác định để xử lý các mối quan hệ giữa người với người trên các căn cứ pháp luật và đạo lý nhằm
thúc đẩy nhanh sự phát triển của cộng đồng, của xã hội” [54, tr 73].

Cùng với quan niệm nêu trên nhà nghiên cứu khác cũng đã đặc biệt nhấn mạnh đến khía cạnh văn
hóa ứng xử của cộng đồng, của cá nhân trong quan niệm của họ về văn hóa. Có thể dẫn ra hàng loạt định
nghĩa về văn hóa có liên quan đến ứng xử.
Theo Trần Quốc Vượng “Văn hóa là thế ứng xử, năng động của một cộng đồng (ứng xử t
ập thể)
hay một cá nhân (ứng xử cá nhân), đứng trước thiên nhiên xã hội, to nhỏ và đứng trước chính mình. Văn
hóa là lối sống (mode di vie), là nếp sống (train de vie) tập thể và cá nhân “[98, tr 97].
Còn Bùi Thiết trên cơ sở quan niệm văn hóa là một phức hệ hay là đa phức hệ các hoạt động của xã
hội loài người đã được xem văn hóa ứng xử là một trong ba thành tố văn hóa (gần văn hóa vật chất, văn
hóa tinh thầ
n, văn hóa ứng xử). Theo đó văn hóa ứng xử là cách ứng xử mà con người sáng tạo và xác lập
để duy trì các mối liên hệ người với người và giữa con người với thế giới xung quanh [90, tr 21]. Bùi
Thiết cũng xác định “Văn hóa ứng xử như ta biết, tồn tại phổ biến và rộng khắp mọi lĩnh vực hoạt động
của con người”[91, tr 23].
Tác giả Trần Thúy Anh trong cuốn “Th
ế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu thổ Bắc Bộ
qua một số câu ca dao tục ngữ” cho rằng “Văn hóa ứng xử là toàn bộ những tín điều, truyền thống…
hướng dẫn hành xử mà các cá nhân trong một xã hội được xã hội đó trao truyền bằng nhiều hình thức học
tập” [2, tr 19].
Phạm Vũ Dũng cũng định nghĩa văn hóa ứ
ng xử: “Văn hóa ứng xử là hệ thống tinh tuyển những
nếp ứng xử, khuôn mẫu ứng xử, chuẩn mực ứng xử, trong mối quan hệ ứng xử giữa con người với những
đối tượng khác thể hiện qua ngôn ngữ, hành vi nếp sống tâm sinh lý… trong quá trình phát triển và hoàn
thiện đời sống, đã được tiêu chuẩn hóa xã hội hóa trở thành chuẩn mực của cá nhân, nhóm xã hội, toàn
bộ xã hội, phù h
ợp với đời sống xã hội, với đặc trưng bản sắc của văn hóa dân tộc, một quốc gia… được
cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng, toàn bộ xã hội thừa nhận và làm theo”[20, tr 27].

Văn hóa ứng xử vừa có nghĩa rộng vừa có nghĩa hẹp của nó bao gồm nhiều tầng thứ môn loại,
nhưng điển hình là hệ thống ứng xử giữa con người với thế
giới tự nhiên, hệ thống ứng xử giữa con người
với nhau hay trong xã hội người.
Hệ thống ứng xử giữa con người với thế giới xung quanh là một phức hệ như thái độ của con người
với mặt trời, mặt trăng, các hiện tượng sấm chớp giông bão, mưa gió thét gào, bờ sông sụp lỡ… Hiện
tượng đó thật đáng sợ, từ xưa
đều gây cho con người lòng tôn kính và sợ hãi tất cả được coi là hành vi của
thần linh, đều được tôn thờ. Việc xây dựng những ngôi đền để thờ thần linh và quanh năm tổ chức nghi lễ
dâng cúng tế xét cho đến cùng đó là văn hóa ứng xử, là thái độ của con người với các hiện tượng bí ẩn.
Như vậy, chúng ta thấy rằng văn hóa ứng xử giữa người với thiên nhiên thật là phong phú, đa dạng.
Hệ
thống ứng xử trong xã hội loài người lại càng tinh tế, từ cấp bậc trong từng đơn vị gia đình, thứ
bậc trong họ tộc, thứ bậc trong các lứa tuổi, cho đến các thứ bậc ngoài xã hội nói chung, đều được ổn định

×