Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

THÀNH PHẦN KINH TẾ, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ VAI TRÒ CỦA NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.77 KB, 7 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Nền kinh tế mà nước ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Do đó, phát triển kinh tế nhiều thành phần là một trong những nội dung quan trọng
nhất của đường lối đổi mới của Đảng. Vậy quan điểm của Đảng về vấn đề phát triển
kinh tế nhiều thành phần như thế nào? Quan điểm đó đã tác động ra sao tới nền kinh
tế nước ta? Để làm rõ vấn đề này, chúng tôi xin nghiên cứu về đề tài “Quan điểm của
Đảng về kinh tế nhiều thành phần”.
NỘI DUNG
1. KHÁI NIỆM THÀNH PHẦN KINH TẾ, TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN
VÀ VAI TRÒ CỦA NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN
1.1. Khái niệm thành phần kinh tế
Thành phần kinh tế là một kiểu quan hệ kinh tế được hình thành trên một hình
thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Trên cơ sở các chế độ sở hữu, ở nước ta đã
xuất hiện các thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân,
kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế
này đan xen, tác động lẫn nhau và đều chịu sự quản lí chặt chẽ của nhà nước.
1.2. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta
Trong thời kì quá độ lên CNXH, nước ta vẫn còn tồn tại một số thành phần
kinh tế của xã hội trước, chưa thể cải biến ngay được; đồng thời, trong quá trình xây
dựng quan hệ sản xuất mới lại xuất hiện một số thành phần kinh tế mới như kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể... Các thành phần kinh tế cũ và mới tồn tại khách quan và
có quan hệ với nhau, tạo thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ.
Không chỉ vậy, nguyên nhân cơ bản là do quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Thời kì quá
độ ở nước ta, do trình độ của lực lượng sản xuất còn rất thấp, tồn tại ở nhiều thang
bậc khác nhau, lại phân bố không đều giữa các ngành, các vùng... nên tất yếu còn tồn
tại nhiều hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế.
1
1.3. Vai trò của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên
CNXH ở Việt Nam


Thứ nhất, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, tức là tồn tại nhiều hình thức tổ
chức, phương thức quản lý phù hợp với trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất.
Vì vậy nó có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, nâng
cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai, nền kinh tế nhiều thành phần làm phong phú và đa dạng các chủ thể
kinh tế, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá, tạo tiền đề đẩy mạnh cạnh tranh,
khắc phục tình trạng độc quyền. Điều đó góp phần vào việc nâng cao hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập quốc tế, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững, cải thiện, nâng cao đời sống của nhân dân…
Thứ ba, nó tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ,
trong đó có hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Đó là cầu nối cần thiết để đưa nước ta
từ sản xuất nhỏ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Thứ tư, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế đáp ứng được nhiều lợi ích kinh tế
của các giai cấp tầng lớp xã hội, có tác dụng khai thác, sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực, các tiềm năng của đất nước như sức lao động, vốn, tài nguyên thiên
nhiên, kinh nghiệm quản lý…, đồng thời cho phép khai thác kinh nghiệm tổ chức
quản lý và khoa học, công nghệ mới trên thế giới.
2. NỘI DUNG QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ KINH TẾ NHIỀU THÀNH
PHẦN
2.1. Trước thời kì Đổi mới
Thời kì này, thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể (mà chủ yếu là
kinh tế quốc doanh) đã trải rộng và bao trùm lên toàn bộ nền kinh tế, ngược lại, các
thành phần kinh tế khác bị xem nhẹ và dần thu hẹp lại. Sự bình đẳng thật sự giữa các
thành phần không có, sự cạnh tranh giữa các thành phần không được thừa nhận, giá
cả bị chi phối bởi cơ chế 2 giá làm cho tính năng động của các chủ thể mất dần. Nền
kinh tế lâm vào khủng hoảng và suy thoái nghiêm trọng, sản xuất ngưng trệ, lưu
thông rối loạn ách tắc. Thực tế đó là kết quả của sự vi phạm các quy luật kinh tế
khách quan, các xu thế tất yếu cần tuân theo.
2
2.2. Sau thời kì Đổi mới

Từ Đại hội VI (1986), Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có
đổi mới kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế với nhiều hình thức phong phú, đa
dạng. Sau nhiều kì Đại hội, đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã
xác định nước ta có 5 thành phần kinh tế: Kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
2.2.1. Kinh tế Nhà nước
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về tư
liệu sản xuất. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ dự trữ
quốc giam các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể
đưa vào sản xuất kinh doanh.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, thể hiện:
- Các doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt ở những ngành, những
lĩnh vực kinh tế và địa bàn quan trọng của đất nước, các doanh nghiệp nhà
nước đi đầu trong ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nâng cao năng
suất lao động, chất lượng, hiệu quả kinh tế và chấp hành pháp luật.
- Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước
thực hiện chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ và lôi cuốn các thành phần kinh tế khác
cùng phát triển theo định hướng XHCN.
2.2.2. Kinh tế tập thể
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do người
lao động tự góp vốn, cùng kinh doanh tự quản lý theo nguyên tắc tập trung, bình
đẳng cùng có lợi. Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là
hợp tác dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những
người lao động, các hộ sản xuất, không giới hạn quy mô và địa bàn (trừ môt số lĩnh
vực có quy định riêng); phân phối theo lao động, theo góp vốn và theo mức độ tham
gia dịch vụ, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Thành viên trong
kinh tế tập thể có thể bao gồm cả thể nhân và pháp nhân.
Kinh tế tập thể có vai trò ngày càng quan trọng, cùng với kinh tế nhà nước
3

“ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.
2.2.3. Kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất. Thành phần kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ và kinh
tế tư bản tư nhân.
- Kinh tế cá thể là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và
khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình.
- Kinh tế tiểu chủ là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất
nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao
động và vốn của bản thân gia đình.
Trong chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tại Đại
hội IX của Đảng, kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài. Loại hình kinh
tế này xuất hiện và phát huy tác dụng ở cả thành thị và nông thôn, cả trong nông
nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Sự phát triển kinh tế cá thể,
tiểu chủ trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa thị trường có vai trò quan trọng trước
mắt cũng như lâu dài trong việc thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển.
- Kinh tế tư bản tư nhân là hình thức kinh tế mà sản xuất, kinh doanh dựa trên
cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức
lao động làm thuê.
Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần định hướng XHCN, góp phần quan trọng trong thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế.
2.2.4. Kinh tế tư bản nhà nước
Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu hỗn
hợp về vốn giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước hoặc tư bản nước
ngoài, thông qua hình thức hợp tác như hợp đồng hợp tác kinh doanh, liên doanh...
Kinh tế tư bản nhà nước có những đóng góp không nhỏ cho công cuộc xây
dựng và phát triển kinh tế đất nước; vì đây là thành phần kinh tế có tiềm năng to lớn
về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lí... Hơn nữa, phát triển kinh tế tư bản nhà

4
nước còn là giải phát để nâng cao sức cạnh tranh và kinh doanh có hiệu quả của các
doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay.
2.2.5. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở
hữu vốn của nước ngoài.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có vị trí ngày càng quan trọng trong nền
kinh tế nước ta, vì đây là thành phần kinh tế có quy mô vốn lớn, có trình độ quản lí
hiện đại và trình độ công nghệ cao, đa dạng về đối tác, cho phép thu hút nhiều vốn
đầu tư nước ngoài vào nước ta.
3. KẾT QUẢ CỦA VIỆC THỰC HIỆN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN
DO NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN MANG LẠI
3.1. Thành tựu
Phát triển kinh tế nhiều thành phần có tác động về nhiều mặt: giải phóng sức
sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; tạo ra cạnh tranh – động
lực của tăng trưởng; thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế, thực hiện đại đoàn kết
dân tộc, huy động sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế – xã hội; là con đường
xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất...
3.2. Thách thức – giải pháp
Các thành phần kinh tế mâu thuẫn với nhau vì mỗi thành phần kinh tế có một
đặc điểm riêng về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn đó làm cho cạnh tranh
trở thành tất yếu. Do đó, nhà nước cần giải phóng tư tưởng cho các chủ thể thành
phần kinh tế, tạo "sân chơi" bình đẳng, lành mạnh để các thành phần kinh tế phát huy
hết sức mạnh của mình đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
Việc phát triển kinh tế nhiều thành phần cùng với phát triển kinh tế thị trường,
nếu không có định hướng, dễ làm cho nền kinh tế phát triển một cách tự do quá mức
dẫn đến khủng hoảng về kinh tế cũng như an ninh quốc gia. Do đó, Nhà nước cần
hoàn thiện hệ thống pháp luật để định hướng, điều chỉnh, quản lý kinh tế vĩ mô đối

với các thành phần kinh tế bằng pháp luật; xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách,
5

×