Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

•Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.89 KB, 11 trang )

NỘI DUNG
• Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật
Điều 130 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 Và Điều 16
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS) ghi nhận: “Khi xét xử, Thẩm
phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Nguyên tắc này
nói lên hai yêu cầu cơ bản khi xét xử một vụ án hình sự đối với Thẩm phán và
Hội thẩm, đó là: độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Độc lập là đứng một mình, không dựa vào ai,
không nhờ cậy ai, không bị ai kiềm chế”. Nội dung độc lập trong nguyên tắc
này được hiểu dưới hai khía cạnh là độc lập với các yếu tố bên ngoài và độc lập
với các yếu tố bên trong.
Độc lập với các yếu tố bên ngoài đó là: khi nghiên cứu hồ sơ cũng như
khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị phụ thuộc vào kết luận
điều tra của cơ quan điều tra, không bị lệ thuộc vào cáo trạng truy tố của Viện
kiểm sát. Không phụ thuộc vào ý kiến của các cơ quan khác hay của Tòa án cấp
trên,..
Độc lập với các yếu tố bên trong đó là: khi xét xử, các thành viên của
Hội đồng xét xử độc lập với nhau trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét đánh
giá chứng cứ và đưa ra kết luận sự việc phạm tội, người phạm tội, mức hình
phạt mà không bị phụ thuộc vào quan điểm của các thành viên khác trong Hội
đồng xét xử. Chỉ có thành viên của Hội đồng xét xử mới được tham gia nghị
án. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán là người biểu quyết sau
cùng. Các vấn đề của vụ án phải được giải quyết bằng biểu quyết và quyết định
theo đa số. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng
văn bản và được lưu trong hồ sơ vụ án.
Yêu cầu chỉ tuân theo pháp luật đối với quá trình xét xử của Thẩm phán
và Hội thẩm được hiểu,mọi phán quyết và nhận định, đánh giá của Thẩm phán
và Hội thẩm trong quá trình xét xử phải hoàn toàn dựa trên cơ sở các quy định
của pháp luật, không bị ràng buộc, không bị chi phối bởi bất kỳ một cơ quan
nào.


• Nội dung của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật.
Như đã đề cập ở trên, Nội dung nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét
xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật thể hiện hai yêu cầu đối với Thẩm phán
và Hội thẩm trong quá trình xét xử, đó là xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật. Đây là hai yêu cầu bắt buộc đối với Thẩm phán và Hội thẩm trong quá
trình xét xử. Hai yêu cầu này vừa có tính độc lập tương đối lại vừa có mối
quan hệ qua lại với nhau. Sau đây, chúng em xin được tìm hiểu từng nội dung
cụ thể:
• Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập.
Thẩm phán và Hội thẩm là các thành viên của Hội đồng xét xử tại Tòa
án. Do Tòa án là cơ quan nhà nước duy nhất có quyền xét xử và quyết định một
người có tội hay không có tội, là trọng tài trong các vụ án, vì vậy quyết định
của tòa án phải là quyết định khách quan, chính xác. Độc lập trong khi xét xử
có nghĩa là Thẩm phán và Hội thẩm tự đưa ra quyết định dựa trên chứng cứ và
quy định của pháp luật để kết luận về vụ án mà không phụ thuộc bất cứ sự tác
động nào khác.Sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm trong quá trình xét xử
được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với nhau trong khi xét xử:
Việc độc lập xét xử giữa Thẩm phán và Hội thẩm được ghi nhận thành
những nguyên tắc của luật tố tụng, đó là: việc xét xử của TAND có Hội thẩm
nhân dân tham gia, của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia. Khi
xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Luật quy định như vậy có nghĩa
là, mỗi một thành viên trong HĐXX có quyền ngang nhau trong việc đánh giá
chứng cứ và đưa ra kết luận vụ án. Việc đánh giá chứng cứ, kết luận vụ án được
thực hiện một cách độc lập, Thẩm phán không có quyền chỉ đạo Hội thẩm trong
việc định tội danh, quyết định hình phạt, Hội thẩm cũng không được ỷ lại vào
quyết định của Thẩm phán mà phải tích cực, chủ động và có trách nhiệm trong
hoạt động chứng minh tội phạm. Trước khi mở phiên tòa, khi Hội thẩm nghiên
cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán không được đưa ra ý kiến, nhận định chủ quan của

riêng mình để tránh ảnh hưởng đến sự đánh giá chứng cứ của Hội thẩm tại
phiên tòa.
Để đảm bảo cho Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, Điều 222
BLTTHS quy định “Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án. Các
thành viên của HĐXX phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách
biểu quyết theo đa số từng vấn đề một. Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người
có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được
đưa vào hồ sơ vụ án…”. Những quy định trên đã loại trừ việc Thẩm phán lạm
quyền, tác động đến kết quả xét xử của Hội thẩm.
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với các chủ thể khác của Tòa án:
Mối quan hệ giữa Thẩm phán, Hội thẩm và nội bộ ngành Tòa án được
thể hiện ở mối quan hệ giữa Thẩm phán với Chánh án và các đồng nghiệp khác
trong Tòa án, giữa Thẩm phán và Tòa án cấp trên, giữa Thẩm phán và Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao, giữa Hội thẩm và Chánh án tòa nơi Hội thẩm tham
gia xét xử. Những quan hệ này không đơn thuận là quan hệ về tổ chức hành
chính, càng không đơn thuần là quan hệ tố tụng. Trong quan hệ hành chính có
quan hệ tố tụng và trong quan hệ tố tụng có quan hệ hành chính nhất định,
không có sự tách bạch rõ ràng. Có thể nói, Thẩm phán và Hội thẩm là người
chịu sự quản lý của Chánh án và Tòa án cấp trên. Thông qua công tác tổ chức
xét xử như họp bàn án trước khi xét xử, phân công Thẩm phán, Hội thẩm xét
xử vụ án, Chánh án có tác động đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội
thẩm. Việc Tòa án cấp trên hủy bán án của Tòa cấp dưới cũng ảnh hưởng đến
tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm. Chính vì vậy, khi xét xử, để đưa ra
được phán quyết một cách chính xác và khách quan, Thẩm phán và Hội thẩm
cần phải đảm bảo độc lập với ý kiến, sự tác động của Chánh án và Tòa án cấp
trên, phải có chính kiến và quan điểm riêng của mình trong việc xem xét các
vấn đề cụ thể trong quá trình xét xử.
Song độc lập trong xét xử với Chán án và Tòa án cấp trên không có
nghĩa là không lắng nghe, không học hỏi, đưa ra những quyết định dựa trên ý
nghĩ chủ quan của mình. Việc tranh thủ ý kiến của tập thể Thẩm phán, của Tòa

án cấp trên để áp dụng pháp luật thống nhất, hạn chế những sai sót có thể xảy ra
do ý chí chủ quan của Thẩm phán và Hội thẩm.
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập với các cơ quan tiến hành tố
tụng khác:
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không được dựa vào kết luận của
Cơ quan điều tra, quyết định của Viện kiểm sát, mà phải tự mình nghiên cứu
toàn bộ hồ sơ vụ án, kết hợp với những chứng cứ mới thu được tại phiên tòa xét
xử để có kết luận riêng của mình đối với từng vấn đề. Đồng thời, các cơ quan
quản lý không được can thiệp vào việc xét xử của tòa án, vì công tác xét xử đã
được nhà nước giao duy nhất cho tòa án. Những kết quả điều tra của Cơ quan
điều tra hay bản cáo trạng của Viện kiểm sát chỉ làm căn cứ bổ sung cho việc
xem xét của Tòa án một cách chính xác hơn, khách quan hơn chứ không phải
Tòa án chỉ dựa hoàn toàn vào những căn cứ đó để đưa ra phán quyết, nếu như
vậy thì vai trò trọng tài của Tòa án đặt ra là hoàn toàn không có giá trị.
Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với yêu cầu của những
người tham gia tố tụng, với dư luận và với cơ quan báo chí.
Phán quyết của tòa án bao giờ cũng làm xuất hiện những nhóm mâu
thuẫn về lợi ích, đó là mâu thuẫn về lợi ích của bị cáo với người bị hại, giữa
nguyên đơn dân sự và bị đơn dân sự, giữa nhà nước và người phạm tội. Ai cũng
muốn kết quả xét xử mang lại kết quả tối ưu nhất cho họ, hoặc ít ra là tước bỏ
tối thiểu quyền và lợi ích của họ. Sau phán quyết của Tòa án dư luận sẽ có rất
nhiều ý kiến bình luận, trong đó có cả cơ quan báo chí về việc Tòa án xử đúng
hay xử sai, nặng hay nhẹ, công bằng hay không. Việc này ảnh hưởng khá lớn
đến tâm lí của Thẩm phán và Hội thẩm khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Xét xử
theo luật hay theo ý kiến của dư luận, báo chí yêu cầu, hay xử vì lợi ích của
người bị hại? Xử đúng chưa chắc đã được dư luận, báo chí đồng tình, lại không
đảm bảo theo yêu cầu của những người tham gia tố tụng. Thẩm phán và Hội
thẩm xét xử độc lập với người tham gia tố tụng, với dư luận và cơ quan báo chí
là việc xét xử chỉ căn cứ vào chứng cứ vụ án và những quy định của pháp luật,
không phụ thuộc vào ý kiến của những người nói trên.

Ngoài ra, tính độc lập trong khi xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm còn
được thể hiện ở việc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập với sự chỉ đạo của
các cấp ủy Đảng, độc lập với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
• Thẩm phán và Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật.
C.Mác đã nói : “Cấp trên của quan tòa là pháp luật” có nghĩa là, khi xét
xử, pháp luật-ý chí của Nhà nước chính là cấp trên của Hội đồng xét xử mà
không phải là một cơ quan, hay cá nhân nào. Dựa vào các quy định do Nhà
nước đặt ra để Thẩm phán và Hội thẩm đưa ra các phán quyết khi xét xử.
Điều 69 Hiến pháp Việt Nam 1946 quy định: “Trong khi xét xử, các viên
thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”.
Trong các Hiến pháp tiếp theo được ban hành vào các năm 1959, 1980, 1992 và
Luật tổ chức Toà án nhân dân ban hành vào các năm 1960, 1981, 1992 và 2002,
nguyên tắc này luôn được khẳng định. Từ đây có thể thấy được vai trò, tậm
quan trọng và ý nghĩa to lớn của nguyên tắc này trong quá trình xét xử.
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập không có nghĩa là xét xử tùy
tiện mà việc xét xử phải tuân theo pháp luật. Nó đòi hỏi “Thẩm phán và Hội
thẩm không một bước xa rời pháp luật, không có bất kỳ một sự lẩn tránh nào
đối với pháp luật, không tha thứ cho bất kỳ một hành vi vi phạm pháp luật
nào”. Đó là đòi hỏi tính chất bắt buộc. Việc xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm
chỉ dựa trên những quy định của pháp luật và pháp luật là căn cứ duy nhất để
quyết định các vấn đề giải quyết vụ án. Pháp luật là tối thượng trong quá trình
xét xử. Như lời của Luật sư Xirêron thời La mã cổ đại từng nói “Quan Tòa –
đó là một đạo luật biết nói, còn đạo luật là một vị quan tòa câm”.Từ đây có thể
suy ra quan tòa (Hội đồng xét xử) là đại diện cho quyền lực Nhà nước, có
nhiệm vụ làm cho những quy định của Nhà nước trong luật được hiện thực trên
thực tế, vì vậy cũng chỉ phải tuân thủ duy nhất một thứ, đó là pháp luật.
Nội dung Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật trong quá
trình xét xử được hiểu trên những khía cạnh sau:
Tuân thủ theo pháp luật hình sự: Luật hình sự nói chung bao gồm cả
luật thực định và khoa học về luật hình sự. Bộ luật hình sự có hai phần, phần

chung và phần các tội phạm. Phần chung quy định về phạm vi áp dụng, các
trường hợp phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, tổng hợp hình phạt, tuổi
chịu trách nhiệm hình sự ... Phần các tội phạm quy định cụ thể các hành vi như
thế nào thì bị coi là tội phạm và các khung hình phạt, mức hình phạt tương ứng
với các trường hợp phạm tội. Muốn áp dụng đúng các quy định của Bộ luật
hình sự buộc Thẩm phán và Hội thẩm phải có kiến thức về định tội danh, về
quyết định hình phạt.
Tuân thủ theo pháp luật tố tụng hình sự: Có thể chia hoạt động xét xử
của Thẩm phán và Hội thẩm thành hai giai đoạn, thứ nhất là từ khi có quyết
định đưa vụ án ra xét xử đến trước ngày mở phiên tòa và thứ hai là tại phiên
tòa.Trong cả hai giai đoạn này, Hội đồng xét xử đều phải tuân thủ những quy
định mà pháp luật tố tụng hình sự đưa ra.
Giai đoạn trước khi mở phiên tòa:Thẩm phán và Hội thẩm phải nghiên
cứu hồ sơ vụ án để xem xét lại các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, từ đó xây dựng
kế hoạch xét hỏi và những tình huống xảy ra tại phiên tòa để có kế hoạch ứng
phó thích hợp và những công việc khác cần thiết cho phiên tòa.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cần nắm chắc những quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự từ thủ tục bắt đầu phiên tòa đến khi kết thúc phiên tòa,
trong đó quan trọng là phần xét hỏi, về phạm vi và trình tự hỏi đã được quy
định tại Điều 207 BLTTHS. Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các tình tiết
về từng vụ việc và từng tội trong vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý. Khi xét hỏi,
chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến hội thẩm, sau đó là Kiểm sát viên và người
bào chữa...Về nội dung, pháp luật không quy định hỏi cụ thể như thế nào nhưng
mục đích của hoạt động xét hỏi nhằm làm sáng tỏ các vấn đề được quy định tại
Điều 63BLTTHS. Đối với bị cáo khi khai nhận thực hiện hành vi phạm tội có
thể có nhiều động cơ khác nhau nên đồng thời với việc hỏi bị cáo cần phải kết
hợp với việc hỏi những người khác, xem xét vật chứng để xác định phù hợp
hay không phù hợp với lời nhận tội của bị cáo. Chỉ có thể kết luận bị cáo phạm
tội khi lời nhận tội của họ phù hợp với chứng cứ khác trong vụ án. Không được
dùng lời nhận tội của bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội. Việc xét hỏi phải

mang tính toàn diện, khách quan, không được có định kiến trước là bị cáo có
tội.
Trong phần tranh luận, Hội đồng xét xử phải xác định mục đích của tranh luận,
chủ thể thực hiện việc tranh luận. Chủ thể tranh luận là Kiểm sát viên, bị cáo,
người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Mục đích tranh luận là làm sáng tỏ các vấn

×