Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.18 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Khái niệm
2. Nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc
3. Cơ sở pháp lý
II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGUYÊN TẮC HAI CẤP
XÉT XỬ
1.Cấp xét xử sơ thẩm (Cấp thứ 1)
2. Cấp xét xử phúc thẩm (Cấp thứ 2)
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG
IV. KIẾN NGHỊ
1
BÀI LÀM
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT
XỬ
1. Khái niệm:
2. Nội dung của nguyên tắc
-
Thứ nhất, các bản án, quyết định giải quyết việc dân sự, quyết định đình chỉ hay tạm
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của tòa án sơ thẩm khi ban hành sẽ chưa có hiệu lực
pháp luật ngay mà được trù liệu một thời hạn nhất định cho các đương sự kháng cáo,
viện kiểm sát kháng nghị. Hết thời hạn đó mà các chủ thể không kháng cáo, kháng
nghị thì bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, còn nếu bản án, quyết định bị kháng
cáo, kháng nghị thì sẽ phải được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Thứ hai, bản án, quyết định của tòa án cấp phúc thẩm không thể bị kháng cáo, kháng
nghị mà có hiệu lực pháp luật ngay. Nhằm bảo đảm cho tính nhanh chóng của tố tụng
cũng như tránh tình trạng lạm dụng quyền yêu cầu xét lại của đương sự để kéo dài vụ
án, pháp luật quy định chỉ cho phép đương sự kháng cáo, viện kiểm sát kháng nghị
một lần mà thôi.
Thứ ba, nội dung (phạm vi) phúc thẩm là chỉ xét lại những nội dung do đương sự
kháng cáo và bị giới hạn bởi phạm vi mà bản án sơ thẩm đã giải quyết. Nói cách khác,


toà phúc thẩm chỉ xét xử trong phạm vi những nội dung mà tòa sơ thẩm đã xét xử và,
đương nhiên, chỉ những phần đương sự kháng cáo. Toà phúc thẩm không thể giải
quyết những yêu cầu mới vì nếu như vậy sẽ vừa xét xử sơ thẩm vừa xét xử phúc thẩm
ngay nên sẽ vi phạm nguyên tắc hai cấp xét xử. Tuy nhiên việc đề xuất các chứng cứ
mới trước tòa phúc thẩm để biện giải cho các yêu cầu của mình là quyền của đương
sự và nó hoàn toàn khác với các yêu cầu mới.
Thứ tư, những bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật phải được mọi chủ
thể tuyệt đối chấp hành. Những bản án quyết định có hiệu lực pháp luật không thể bị
thay đổi hay bãi bỏ. Giám đốc thẩm và tái thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ
2
là một thủ tục đặc biệt để xem xét lại những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật trong những trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định. Theo quy định của pháp
luật tố tụng dân sự nước ta, các đương sự không có quyền kháng cáo giám đốc thẩm
hay tái thẩm mà chỉ những người có thẩm quyền đứng đầu cơ quan tòa án hoặc viện
kiểm sát mới có quyền quyết định.
Trong khi đó pháp luật tố tụng dân sự ở các nước đều áp dụng phổ biến thủ tục giản
lược cho các loại tranh chấp có giá trị nhỏ. Những tranh chấp gồm cả tranh chấp về
dân sự hoặc thương mại được xác định là nhỏ khi thấp hơn một khoản tiền cụ thể.
Những tranh chấp này khi đương sự khởi kiện ở tòa án thì bắt buộc phải tuân theo thủ
tục đơn giản như mô hình một số bang của Hoa Kỳ, hoặc có quyền lựa chọn theo thủ
tục đơn giản hoặc theo thủ tục thường như mô hình của Nhật Bản. Bản án đối với
những vụ việc này sau khi tuyên thì có hiệu lực pháp luật ngay mà không thể bị kháng
cáo phúc thẩm. Đây không chỉ là thủ tục rất thuận tiện cho các đương sự trong các
tranh chấp nhỏ mà còn góp phần giảm thiểu gánh nặng quá tải án dân sự ở cấp phúc
thẩm. Thủ tục này là một ngoại lệ của nguyên tắc hai cấp xét xử và đang được ưa
chuộng tại nhiều nước.
3. Cơ sở pháp lý
Nguyên tắc thực hiện hai cấp xét xử được ghi nhận tại :
- Các Điều 17, 245, 247, 252 BLTTDS năm 2005
- Công văn số 196/ NCPL ngày 24/02/1965 của TANDTC hướng dẫn về một số thủ

tục tố tụng
- Nghị quyết Hội nghị Trung Ương lần thứ 8 khóa VII của Đảng(tháng 1/ 1995)
- Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 đã đề ra
- Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2003 Điều 11
- Và một số văn bản khác theo quy định của pháp luật
II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGUYÊN TẮC HAI CẤP
XÉT XỬ
1.Cấp xét xử sơ thẩm (Cấp thứ 1)
3
Cấp sơ thẩm tiến hành trình tự, thủ tục giải quyết vụ án lần thứ nhất. Tất cả các
vụ án nếu đưa ra xét xử thì đều phải tiến hành qua cấp sơ thẩm. Đây là cấp xét xử
không thể thiếu và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Lý
luận và thực tiễn đều cho thấy, nếu cấp sơ thẩm xét xử chính xác, nghiêm túc thì bản
án sẽ ít bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, từ đó vụ án sẽ không bị
kéo dài. Hoặc giả sử, nếu bản án bị kháng cáo hoặc kháng nghị để xét xử lại theo thủ
tục phúc thẩm thì cũng không mất nhiều công sức, thời gian và tiền của của Nhà nước
cũng như của những người tham gia tố tụng.
Tuy nhiên, các quy định về xét xử cấp sơ thẩm đã làm xuất hiện tình trạng một số
người tiến hành tố tụng cho rằng “cứ xét xử, sai đã có cấp phúc thẩm xét xử lại”, từ đó
thiếu cương quyết, dứt khoát, ỷ lại và lệ thuộc vào cấp phúc thẩm. Còn những người
tham gia tố tụng lại coi “cấp sơ thẩm muốn xét xử thế nào cũng được, nếu đạt được ý
nguyện thì thôi, nếu không đạt được ý nguyện thì kháng cáo, cấp phúc thẩm xét xử
mới có hiệu lực pháp luật thi hành ngay”. Mặt khác, pháp luật dùng khái niệm “sơ” đã
làm cho nhiều người hiểu đơn giản rằng, “sơ” là “sơ khai”, “sơ sài”, “sơ qua”, “sơ
sơ”, nên giảm lòng tin vào quyết định của cấp sơ thẩm, làm mất đi ý nghĩa quan trọng,
cần thiết và bắt buộc của cấp sơ thẩm. Vì vậy, theo chúng tôi, không nên gọi là “cấp
sơ thẩm” mà nên gọi là “cấp thứ nhất”.
Mặt khác, trong tất cả các văn bản pháp luật tố tụng của nước ta từ trước đến nay
không có văn bản nào quy định về thẩm quyền của hội đồng xét xử sơ thẩm, mà chỉ

quy định thẩm quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm, hội đồng giám đốc thẩm, hội
đồng tái thẩm. Vấn đề này xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:
Một là, đây là cấp xét xử thứ nhất nên đối tượng xét xử của nó không thể là bản án,
quyết định mà là các yêu cầu về dân sự rất phong phú của các đương sự. Theo Điều 25
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS), thì có tới 8 loại việc thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án, trong mỗi loại việc lại có rất nhiều các yêu cầu cụ thể
khác nhau. Vì phạm vi xét xử của cấp sơ thẩm quá rộng lớn nên không thể ấn định
trước về thẩm quyền của hội đồng xét xử sơ thẩm. Sở dĩ pháp luật tố tụng quy định
được thẩm quyền của hội đồng xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bởi xét xử
phúc thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của
4
Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị (Điều 242
của BLTTDS) còn hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm là các cấp xét lại bản án, quyết
định của cấp xét xử trước. Do đó, quyền hạn của các cấp này dễ dàng ấn định được
trước xung quanh các vấn đề: giữ nguyên; sửa; hủy bỏ bản án, quyết định của các Tòa
án trước.
Hai là, nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân sự thuộc về các đương sự, hội đồng xét
xử quyết định như thế nào phụ thuộc phần lớn vào việc chứng minh của các đương sự.
Hội đồng xét xử có thể chấp nhận toàn bộ yêu cầu hoặc chỉ một phần yêu cầu của các
đương sự. Chính vì vậy, việc pháp luật tố tụng không quy định thẩm quyền của hội
đồng xét xử sơ thẩm chính là để hội đồng xét xử sơ thẩm có thể linh hoạt, ứng biến
khi quyết định trong từng trường hợp cụ thể, tùy thuộc vào các tình tiết và diễn biến
của vụ án.
Tuy nhiên, ở một góc độ nào đó, việc pháp luật tố tụng không quy định thẩm quyền
của hội đồng xét xử sơ thẩm dường như đã tạo ra một khoảng trống, một sự không chặt
chẽ, một tâm lý không yên tâm. Như vậy, sẽ không phải là thừa nếu pháp luật tố tụng
có điều luật quy định thẩm quyền của hội đồng xét xử sơ thẩm. Tất nhiên, không thể
quy định cụ thể cho mọi trường hợp, nhưng nếu nhà làm luật quan tâm tới vấn đề này
thì đó là điều hợp lý. Theo chúng tôi, cần quy định thẩm quyền của hội đồng xét xử sơ
thẩm là: chấp nhận toàn bộ yêu cầu của đương sự; chấp nhận một phần yêu cầu của

đương sự; không chấp nhận yêu cầu của đương sự.
1.2. Cấp phúc thẩm (cấp thứ hai)
Cấp phúc thẩm tiến hành trình tự, thủ tục giải quyết vụ án lần thứ hai. Không phải tất
cả các vụ án đã xét xử sơ thẩm đều phải tiến hành qua cấp phúc thẩm, chỉ những vụ án
đã xét xử sơ thẩm mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo,
kháng nghị để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm thì mới phải tiến hành qua cấp phúc
thẩm. Pháp luật quy định có cấp phúc thẩm là xuất phát từ việc tôn trọng và bảo vệ
các quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng. Mặt khác, xuất phát từ
việc các phán quyết của Tòa án trước khi có hiệu lực pháp luật phải được xem xét một
cách thận trọng.
5

×