Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.68 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
Trang
Chương I..........................................................................................................................3
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN.......................................................................3
VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN........................................................................3
I. Quan niệm về quản trị công ty cổ phần.....................................3
III. Các yếu tố chủ yếu của quản trị công ty .................................6
1. Về quyền của các cổ đông.......................................................................6
2. Về Hội đồng quản trị ............................................................................6
3. Về quản trị điều hành, thù lao và hiệu quả hoạt động.............................7
4. Về công khai hóa thông tin và sự minh bạch ........................................8
1. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về Hội đồng quản trị .........................10
Theo thông lệ quốc tế, HĐQT là một cơ quan có quyền lực cao nhất của
doanh nghiệp - nơi vạch ra những chiến lược và giám sát hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.............................................................10
4. Đảm bảo minh bạch và công khai thông tin trong CTCP .....15
Chương III.....................................................................................................................17
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN..............................................................................17
1. Những yêu cầu về việc tiếp tục hoàn thiện các quy định về
quản trị công ty cổ phần...............................................................17
- Việc hoàn thiện các quy định về quản trị công ty cần được đặt trong giải
pháp tổng thể hoàn thiện pháp luật kinh tế. ..............................................18
2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về
quản trị công ty cổ phần.............................................................................18
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LDN : Luật Doanh nghiệp
CTCP : Công ty cổ phần
ĐHĐCĐ : Đại hội đồng cổ đông
HĐQT : Hội đồng quản trị
OECD : Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế


PMRC : Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ
CIEM : Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương
GTZ : Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức
WTO : Tổ chức Thương mại thế giới
UNDP : Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
2
2
Chương I.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN
I. Quan niệm về quản trị công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh ra đời, tồn tại và phát triển trong
những điều kiện lịch sử và xã hội nhất định. Sự hình thành và phát triển của CTCP gắn liền với
sự hình thành của thị trường vốn, thị trường tiền tệ. CTCP là một trong những loại hình tổ chức
kinh doanh phổ biến hiện nay, được xem là phương thức phát triển cao nhất cho đến nay của
loài người để huy động vốn cho kinh doanh và qua đó làm cho nền kinh tế của mỗi quốc gia
phát triển [4, tr.18]. Từ góc độ pháp lý, ta có thể khái quát một số đặc trưng cơ bản của một
công ty cổ phần như sau:
Một là, công ty cổ phần là một tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập.
Hai là, công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm đối với mọi khoản nợ bằng tài sản riêng
của công ty.
Ba là, vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần.
Bốn là, quản lý ủy quyền theo cơ cấu hội đồng và tách biệt với chủ sở hữu.
Trước một vấn đề như vậy, nhiệm vụ của pháp luật công ty là đưa ra những hình thức tổ
chức hoạt động có thể tạo điều kiện bảo vệ các nhóm quyền lợi sau đây một cách hài hòa và ổn
định:
- Nhóm quyền lợi của những người trực tiếp kinh doanh
- Quyền lợi của những nhà đầu tư vốn, những người muốn trực tiếp tham gia vào thành
quả kinh doanh, mà bản thân không trực tiếp kinh doanh.

- Quyền lợi của những người cho vay (ngân hàng, tổ chức tín dụng, các quỹ đầu tư,
người sở hữu các loại trái phiếu), người cung ứng hàng hoá, người lao động.
Chính vì thế, vấn đề làm sao tạo ra sự tự do không quá lớn, sự giám sát không quá yếu
để khuyến khích người quản trị (khái niệm người quản trị được dùng dưới đây để chỉ những
người có quyền quản lý và kiểm soát công ty, thường là thành viên ban giám đốc, HĐQT hoặc
những cổ đông đa số, chiếm cổ phần chi phối trong công ty) hành động một cách năng động,
sáng tạo, linh hoạt vì lợi ích của chủ sở hữu công ty là một bài toán khó từ hàng trăm năm nay –
một bài toán của nhiều thế kỷ [21, tr.364].
Corporate governance, tạm dịch là quản trị công ty, tiếp cận công ty từ phương diện
phân quyền và chế ước giữa các tác nhân ảnh hưởng tới sự điều hành của một doanh nghiệp.
Quản trị công ty trước hết không phải là khái niệm được hiểu giống nhau. Có nhiều
định nghĩa khác nhau về quản trị công ty.
- Theo Tổ chức hợp tác và phát triển (OECD), "quản trị công ty là một hệ thống các cơ
chế, các hành vi quản lý. Cơ chế này xác định việc phân chia các quyền và nghĩa vụ giữa cổ
đông, hội đồng quản trị, các chức danh quản lý và những người có lợi ích liên quan, quy định
trình tự ban hành các quyết định kinh doanh. Bằng cách này, công ty tạo ra một cơ chế xác lập
mục tiêu hoạt động, tạo ra phương tiện thực thi và giám sát việc thực hiện các mục tiêu đó".
[47]
- Quản trị doanh nghiệp còn được hiểu theo hai nghĩa, "quản trị doanh nghiệp theo
nghĩa hẹp được hiểu là cơ chế quản lý – giám sát của chủ sở hữu với người quản lý công ty
theo những mục tiêu và định hướng của chủ sở hữu. Theo nghĩa rộng hơn, quản trị doanh
nghiệp gắn chặt với quyền lợi của chủ sở hữu cũng như các chủ nợ, người cung cấp, người lao
động, thậm chí khách hàng của công ty. Về mặt tổ chức, quản trị công ty là tập hợp các mối
quan hệ giữa chủ sở hữu, HĐQT và các bên liên quan nhằm: xác định mục tiêu, hình thành các
công cụ để đạt đạt được mục tiêu và giám sát việc thực hiện mục tiêu của công ty" [49,
13/12/2004,11:15]
3
3
- Theo Ngân hàng thế giới (WB), "quản trị công ty là một hệ thống các yếu tố pháp luật,
thể chế và thông lệ quản lý của các công ty. Nó cho phép công ty có thể thu hút được các nguồn

tài chính và nhân lực, hoạt động có hiệu quả, và nhờ đó tạo ra các giá trị kinh tế lâu dài cho các
cổ đông, trong khi vẫn tôn trọng quyền lợi của những người có lợi ích liên quan và của xã hội.
Đặc điểm cơ bản nhất của một hệ thống quản trị công ty là: (i) tính minh bạch của các thông tin
tài chính, kinh doanh và quá trình giám sát nội bộ đối với hoạt động quản lý, (ii) bảo đảm thực
thi các quyền của tất cả các cổ đông, (iii) các thành viên trong hội đồng quản trị có thể hoàn
toàn độc lập trong việc thông qua các quyết định, phê chuẩn kế hoạch kinh doanh, tuyển dụng
người quản lý, trong việc giám sát tính trung thực và hiệu quả của hoạt động quản lý và trong
việc miễn nhiệm người quản lý khi cần thiết".
II. Quản trị công ty cổ phần xét theo phương diện kết hợp hài hòa lợi ích của các
bên
Mỗi công ty là tổng hoà các mối quan hệ phức tạp, vì vậy, luôn tiềm ẩn những xung đột
về lợi ích có thể nảy sinh sau các quyết định cụ thể của công ty. Trong nội bộ doanh nghiệp,
người quản lý, người lao động và cổ đông đều mong muốn công ty kinh doanh có hiệu quả và
phát triển bền vững. Tuy nhiên, do sự khác biệt về lợi ích giữa các cổ đông, sự tách biệt giữa
người quản lý và quyền sở hữu đã tạo nên những xung đột về lợi ích.
Một là: xung đột về lợi ích giữa cổ đông thiểu số với nhóm cổ đông sở hữu đa số cổ
phần nắm quyền kiểm soát công ty
Hai là: xung đột giữa cổ đông với những người quản lý doanh nghiệp
Tuy nhiên, sự xung đột quyền lợi của các nhóm người này không gay gắt đến mức
chúng chỉ có thể được giải quyết bằng pháp luật, mà cơ chế của thị trường luôn tác động góp
phần vào sự giải quyết các xung đột đó. Bởi vì, tất cả những người tham gia đều cần sự thành
công của doanh nghiệp và những người tham gia này cần một cách thức nào đó để dung hòa các
mối quan tâm về lợi ích, kết hợp hiệu quả các nguồn lực và mở rộng khả năng phát triển.
Lịch sử công ty trên thế giới được biết đến ba loại mô hình quản lý công ty là: Mô hình
Anh - Mỹ, mô hình châu Âu lục địa và mô hình Nhật Bản. Mỗi mô hình đều có đặc điểm chung
và đặc điểm riêng, nhưng đều có mục tiêu là tạo khả năng để chủ sở hữu (cổ đông) có thể quản
lý được những người điều hành công ty một cách tốt nhất.
Như đã phân tích ở trên, CTCP là một chủ thể pháp luật, có cơ cấu tổ chức độc lập đối
với các cổ đông; là chủ sở hữu tài sản của công ty, là nguyên đơn, bị đơn trong tố tụng. Các cổ
đông không có quyền trực tiếp đối với tài sản trong công ty. Cổ đông thực hiện quyền cổ đông

bằng cách biểu quyết trong cuộc họp ĐHĐCĐ. Việc điều hành kinh doanh giao cho HĐQT –
những người có khả năng kinh doanh và các giám đốc điều hành.
Xem xét từ các nước trên có thể thấy được một số đặc trưng sau về cơ cấu tổ chức của
một công ty ngày nay bao gồm chủ yếu là: Chủ sở hữu (cổ đông); HĐQT hoặc Hội đồng giám
sát; Giám đốc điều hành [26, tr.187-188].
Chức năng nhiệm vụ của các bộ phận này như sau:
* Chủ sở hữu công ty (cổ đông) là người cung cấp vốn đầu tư hoặc vốn cổ phần, có một
số quyền cơ bản sau:
- Bầu và bãi nhiệm HĐQT hoặc Hội đồng giám sát.
- Thông qua hoặc không thông qua một số vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc của công ty
như thay đổi Điều lệ; sáp nhập, tăng giảm vốn công ty.
- Quyết định mức lãi cổ tức và hưởng thụ lãi.
* Hội đồng quản trị là cơ quan thay mặt chủ sở hữu (cổ đông) thực hiện việc quản lý
công ty thông qua việc thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Bổ nhiệm, miễn nhiệm giám đốc điều hành;
- Giám sát hoạt động quản lý điều hành của giám đốc điều hành;
- Xem xét và thông qua các quyết định quan trọng khác không trực tiếp do chủ sở hữu
(cổ đông) quyết định.
4
4
* Giám đốc điều hành của công ty thường không phải là một người mà là một số người
do HĐQT lựa chọn và bổ nhiệm. Thực chất được gọi là bộ máy điều hành công ty hoặc các
quản trị gia của công ty. Giám đốc điều hành thực hiện chức năng điều hành các hoạt động
hàng ngày của công ty.
Tất cả các mô hình trên đây có thể dễ dàng nhận thấy rằng bằng cơ chế phân quyền đã
định rõ quyền hạn và nghĩa vụ giữa các thành viên, cơ quan trong công ty như các cổ đông,
HĐQT, Giám đốc điều hành. Các cơ quan này có sự độc lập tương đối trong hoạt động và chi
phối lẫn nhau. Đồng thời, đảm bảo cho cổ đông quản lý giám sát một cách tốt nhất với các nhà
quản trị điều hành công ty.
Mô hình quản lý, điều hành kiểu Anh, Mỹ có nền tảng là sự tách biệt giữa quản lý với

sở hữu vốn trong CTCP. Trong mô hình quản lý, điều hành kiểu Anh, Mỹ, dựa trên ba nguyên
tắc sau:
Thứ nhất, sử dụng các thành viên HĐQT độc lập (independent directors) để kiềm chế
quyền lực của ban giám đốc, đồng thời bảo vệ quyền lợi của các cổ đông.
Thứ hai, sử dụng và tín nhiệm giới kế toán để trình báo cáo tài chính có tính xác thực
nhằm giúp cổ đông có thông tin đầy đủ khi đầu tư vào công ty.
Thứ ba, sử dụng và tín nhiệm các nhà phân tích tài chính để xem xét và phân tích các
triển vọng kinh doanh và mức độ lành mạnh về tài chính của các công ty dự kiến phát hành
cũng như đang phát hành chứng khoán ra công chúng, nhằm cung cấp đầy đủ thông tin cho
công chúng muốn đầu tư. Khi một CTCP hoạt động kém hơn mức trong ngành hay của thị
trường, hoặc thiếu cơ chế quản trị thích đáng, các nhà đầu tư sẽ phản ứng bằng cách bán cổ
phần của họ, là một hình thức áp đặt kỷ luật của thị trường lên ban giám đốc công ty.
Ở Việt Nam, quan hệ giữa cổ đông trong nhiều công ty hiện nay thường thu hẹp trong
phạm vi quan hệ gia đình, xã hội như họ hàng, dòng tộc, bạn bè, đồng hương. Theo báo cáo
tổng kết của Tổ công tác thi hành LDN, thì đại bộ phận CTCP ở nước ta có quy mô nhỏ, mang
tính gia đình; người chủ sở hữu thường đồng thời là người quản lý, giám đốc, quản đốc, cán bộ
kỹ thuật… của công ty. Người chủ sở hữu trong công ty (đặc biệt là các CTCP thuộc sở hữu tư
nhân) cùng một lúc thực hiện hàng loạt các chức năng và vai trò khác nhau trong tổ chức kinh
doanh của doanh nghiệp. Ngoài quan hệ góp vốn cùng kinh doanh, họ còn có quan hệ huyết
thống, họ hàng, bạn bè hết sức thân thiết… Vì vậy, trong quản lý nội bộ và tổ chức kinh doanh
rất khó phân biệt rõ ràng về mặt pháp lý quyền lợi và nghĩa vụ của người chủ, người quản lý và
người lao động; "tính phi chính thức" trong quá trình ra quyết định… đang chi phối quản lý,
điều hành của phần lớn các CTCP.
Mô hình quản lý, điều hành kiểu châu Âu lục địa được đặc trưng bởi sự tham gia đáng
kể của các định chế tài chính trung gian: các ngân hàng vừa là chủ nợ, vừa là cổ đông và thực
hiện quyền do các cổ đông khác ủy nhiệm, bởi vậy ảnh hưởng của họ trong quản trị các công ty
là rất đáng kể.
Mô hình quản lý, điều hành kiểu Nhật Bản có đặc điểm khá nổi bật là vai trò của các cổ
đông pháp nhân (ngân hàng, các quỹ, các công ty…) rất lớn, có thể xem là đóng vai trò trung
tâm. Trên thực tế, ở Nhật, các ngân hàng lớn thường được uỷ quyền thay mặt cổ đông giám sát,

quản lý các công ty, xem xét các kế hoạch của công ty, trong trường hợp công ty làm ăn kém
thì những ngân hàng này thường can thiệp và sẽ buộc công ty phải thay bộ máy điều hành quản
lý công ty hoặc buộc phải đưa ra các chiến lược kinh doanh mới.
Trong mô hình quản trị công ty của Hàn Quốc, Trung Quốc và Việt Nam, các mối quan
hệ gia đình, các cổ đông ẩn, ảnh hưởng của Nhà nước và các thiết chế khác cũng có thể tác
động đáng kể tới quản trị công ty [25, tr.6-7].
Trong bất kỳ mô hình nào, việc minh bạch hóa thông tin liên quan đến công ty và giám
sát những người quản trị cũng là những công cụ chính nhằm giúp cổ đông bảo vệ quyền lợi của
mình.
5
5
III. Các yếu tố chủ yếu của quản trị công ty
1. Về quyền của các cổ đông
Sự tách biệt quyền sở hữu với quyền quản lý kinh doanh đã làm nảy sinh những rủi ro
được nhận thức từ lâu về sự khác nhau về lợi ích giữa cổ đông với các nhóm người quản trị
nắm bắt quyền lực chi phối và khống chế công ty.
Để củng cố lòng tin của cổ đông và theo đó tăng nguồn vốn đầu tư tư nhân cho lĩnh vực
kinh doanh cần được đảm bảo khi nhà đầu tư hiểu rõ thông tin về công ty và hệ thống pháp
luật, các cơ chế quản lý nội bộ công ty có khả năng ngăn chặn được khả năng trục lợi của người
điều hành hoặc các cổ đông chi phối. Do đó, quy định về quản trị công ty cần phải bảo vệ và
tạo điều kiện cho việc thực hiện các quyền của cổ đông.
Những quyền lợi cơ bản của cổ đông bao gồm quyền: (i) chọn phương thức đăng ký
quyền sở hữu; (ii) chuyển nhượng cổ phần; (iii) mỗi cổ phần được một phiếu bầu; (iv) Được
cung cấp những thông tin quan trọng và cần thiết về công ty một cách thường xuyên và kịp
thời; (v) tham dự họp và bỏ phiếu biểu quyết tại ĐHĐCĐ; (vi) bầu chọn và bãi nhiệm các thành
viên trong HĐQT; (vii) Được chia lợi nhuận của công ty; (viii) các cổ đông cần được nhận
phần thu nhập của mình từ lợi nhuận còn lại của công ty; (ix) các cổ đông thiểu số cần phải
được bảo vệ.
Các cổ đông cần có quyền tham gia và được thông tin một cách đầy đủ và thích đáng về
các quyết định liên quan đến các thay đổi quan trọng của công ty như: (i) thay đổi, sửa chữa

điều lệ và các tài liệu quan trọng khác của công ty; (ii) cho phép phát hành thêm cổ phần; iii)
các giao dịch đặc biệt;
Các cổ đông cần được tạo điều kiện tham gia một cách hiệu quả và bỏ phiếu tại cuộc
họp ĐHĐCĐ và cần được thông báo về quy chế họp ĐHĐCĐ, bao gồm những thủ tục bỏ
phiếu:
- Các cổ đông cần được cung cấp các thông tin cần thiết và kịp thời về thời gian, địa
điểm và chương trình của cuộc họp ĐHĐCĐ, cũng như các thông tin đầy đủ và kịp thời về các
vấn đề sẽ được thảo luận và quyết định tại cuộc họp.
- Các cổ đông có cơ hội để chất vấn HĐQT và có quyền đưa ra các vấn đề vào chương
trình của cuộc họp, tùy thuộc vào những hạn chế nhất định.
- Cổ đông cần được tham gia một cách có hiệu quả vào các quyết định quan trọng về
quản trị công ty, như đề cử và bầu chọn thành viên HĐQT.
- Các cổ đông có quyền bỏ phiếu trực tiếp hoặc vắng mặt (qua ủy quyền) và có hiệu lực
như nhau.
Quy định về quản trị công ty cần được bảo đảm đối xử công bằng với tất cả các cổ
đông, kể cả cổ đông thiểu số và cổ đông người nước ngoài. Tất cả các cổ đông đều được tạo cơ
hội được hưởng những đền bù hợp lý nếu quyền của họ bị xâm hại. Cổ đông của cùng loại cổ
phần phải có quyền biểu quyết như nhau và tất cả cổ đông sở hữu cùng loại cổ phần phải được
đối xử công bằng như nhau. Các cổ đông thiểu số cần được bảo vệ khỏi sự lạm dụng của các cổ
đông nắm quyền kiểm soát một cách gián tiếp hay trực tiếp, đồng thời, cần có cơ chế đền bù
thiệt hại có hiệu quả. Thành viên HĐQT và các chức danh quản lý quan trọng phải thông báo
cho HĐQT về việc họ trực tiếp, gián tiếp hoặc đại diện cho một bên thứ ba, có lợi ích liên quan
đến các giao dịch hoặc các vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến công ty. [47]
2. Về Hội đồng quản trị
Để đổi lấy những lợi ích như trách nhiệm hữu hạn, thời gian hoạt động vô thời hạn và
khả năng chuyển nhượng cổ phiếu, nhà đầu tư trao quyền quản lý công ty cổ phần cho một
nhóm người được ủy thác nhiệm vụ ra những quyết định vì lợi ích cao nhất của công ty và mọi
nhà đầu tư vào công ty chứ không vì một bộ phận nhà đầu tư nào đó. Nhóm người được ủy thác
này, được các cổ đông bầu chọn, được gọi là HĐQT.
HĐQT hoạt động theo chế độ tập thể, tức là từng thành viên HĐQT không có thẩm

quyền của HĐQT. Các thành viên HĐQT cũng thực thi quyền của mình thông qua các cuộc
6
6
họp, các quyết định thường ghi nhận trong các biên bản họp HĐQT. Mỗi thành viên HĐQT có
một phiếu bầu, không kể số cổ phần nắm giữ, không thể ủy quyền để bỏ phiếu như cổ đông.
Phần lớn pháp luật điều chỉnh các CTCP liên quan đến HĐQT, với nhiều quy định cụ
thể được xây dựng nhằm củng cố lòng tin của nhà đầu tư rằng các thành viên HĐQT sẽ làm
những điều đúng đắn. HĐQT chịu trách nhiệm quản lý hoặc định hướng cho các hoạt động của
công ty.
Nhưng các lợi ích của cổ đông, thành viên HĐQT và người quản lý đôi khi có thể xung
đột. Chẳng hạn, một số cổ đông có thể muốn nhận cổ tức, trong khi các cổ đông khác và những
người điều hành lại muốn tái đầu tư lợi nhuận và thúc đẩy sự tăng trưởng của doanh nghiệp.
HĐQT phải giải quyết những lợi ích xung đột này thông qua những quyết định vì lợi ích cao
nhất cho công ty và mọi cổ đông của công ty.
Do đó, quy định về quản trị công ty phải đảm bảo HĐQT có vai trò lãnh đạo chiến lược
trong công ty và giám sát có hiệu quả đối với công tác quản lý công ty cũng như trách nhiệm
của HĐQT trước công ty và các cổ đông.
Đối với các thành viên HĐQT phải có trách nhiệm, bổn phận chính sau:
- Trung thành: Bổn phận chính của các thành viên HĐQT là trung thành với lợi ích của
các cổ đông. HĐQT phải thông báo cho các cổ đông những thông tin có thể ảnh hưởng đến lợi
ích của họ một cách đầy đủ, không được thu lợi cá nhân qua các giao dịch của công ty, phải
thông báo rõ, công khai và không được tham gia bỏ phiếu đối với các vấn đề làm ăn, giao dịch
mà cá nhân thành viên đó có lợi ích liên quan.
- Mẫn cán và thận trọng: Đây là bổn phận chung của các thành viên HĐQT. Các thành
viên HĐQT cần phải mẫn cán và thận trọng cho lợi ích tối cao của công ty và cổ đông .
"HĐQT là công cụ gây sức ép cân bằng quyền chủ sở hữu của cổ đông với sự tuỳ nghi,
hay tự do của các nhà quản lý trong điều hành doanh nghiệp. Do đó, HĐQT cần thực hiện giám
sát có tầm chiến lược đối với hoạt động kinh doanh, đồng thời, trực tiếp giám sát, đánh giá và
khen thưởng đối với hoạt động quản lý. HĐQT còn phải đảm bảo tính thống nhất của hệ thống
kế toán và báo cáo tài chính và theo dõi quá trình công khai hoá và trao đổi thông tin.

Vai trò và nhiệm vụ của các thành viên HĐQT phụ thuộc vào luật quốc gia cũng như vào Điều
lệ công ty. Tầm quan trọng của quyền sở hữu khác nhau giữa các nước. Ở Mỹ, nhiệm vụ của
HĐQT là hành động vì lợi ích của cổ đông, trong khi ở Hà Lan mục tiêu lại là đạt được sự cân
bằng hợp lý trong ảnh hưởng của tất cả các cổ đông; ở Đức, các thành viên HĐQT có nhiệm vụ
không chỉ đối với cổ đông của công ty, luật pháp bắt buộc các doanh nghiệp lớn phải có đại
diện người lao động trong HĐQT" [21, tr.88].
3. Về quản trị điều hành, thù lao và hiệu quả hoạt động
Khung khổ quản trị công ty phải đảm bảo rằng các quyền của những người có liên quan
được pháp luật bảo hộ và các quyền này phải được tôn trọng. Khung khổ quản trị doanh nghiệp
phải đưa ra được các biện pháp hữu hiệu xử lý vi phạm các quyền nói trên. Đồng thời, nó cũng
cần khích lệ những người có liên quan thực hiện vai trò của họ trong công ty nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của công ty và của thị trường. Để hạn chế hành động tư lợi của người điều
hành hoặc cổ đông chi phối, các thông tin về thu nhập và các giao dịch liên quan tới lợi ích cá
nhân của họ đều cần được công khai.
Theo khoản 17 Điều 4 LDN năm 2005, thì người có liên quan là tổ chức, cá nhân có
quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với doanh nghiệp trong các trường hợp sau đây:
a) Công ty mẹ, người quản lý công ty mẹ và người có thẩm quyền bổ nhiệm người quản
lý đó đối với công ty con;
b) Công ty con đối với công ty mẹ;
c) Người hoặc nhóm người có khả năng chi phối việc ra quyết định, hoạt động của
doanh nghiệp đó thông qua các cơ quan quản lý doanh nghiệp;
d) Người quản lý doanh nghiệp;
đ) Vợ, chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em ruột của người
quản lý doanh nghiệp hoặc của thành viên, cổ đông sở hữu phần vốn góp hay cổ phần chi phối;
7
7
e) Cá nhân được uỷ quyền đại diện cho những người quy định tại các điểm a, b, c, d và
đ khoản này;
g) Doanh nghiệp trong đó những người quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e và h khoản
này có sở hữu đến mức chi phối việc ra quyết định của các cơ quan quản lý ở doanh nghiệp đó;

h) Nhóm người thoả thuận cùng phối hợp để thâu tóm phần vốn góp, cổ phần hoặc lợi
ích ở công ty hoặc để chi phối việc ra quyết định của công ty.
Thù lao cho cán bộ quản lý phải gắn với mức lợi nhuận và hiệu quả hoạt động chung
của toàn công ty. Toàn bộ mức thù lao, thu nhập cần phải được công khai hóa trong báo cáo tài
chính. Các trình tự xác định mức thù lao cũng cần được công khai hóa.
4. Về công khai hóa thông tin và sự minh bạch
Để giám sát các nhà điều hành, các biện pháp minh bạch hoá tình hình tài chính và kinh
doanh của doanh nghiệp ngày càng trở nên quan trọng. Như vậy các quy chế tiết lộ thông tin,
báo cáo tài chính và sự giám sát bởi các cơ quan kiểm toán ngày càng trở thành một yếu tố định
hướng quản trị doanh nghiệp, vì lợi ích của cổ đông và lợi ích công cộng.
Công khai thông tin là đòi hỏi đầu tiên để nhà đầu tư có thể đánh giá hoạt động của
doanh nghiệp. Tiếp theo đó là các quyền liên quan tới khả năng kiểm soát của nhà đầu tư đối
với các hoạt động của doanh nghiệp. Các hành vi trục lợi từ người điều hành và cổ đông chi
phối phải có cơ chế để kiểm soát bằng pháp luật và tự nguyện một cách hiệu quả để nhà đầu tư
có thể yên tâm về tài sản của mình.
Quy định về quản trị công ty phải đảm bảo việc công khai hóa một cách kịp thời và
chính xác những thông tin về tất cả các vấn đề quan trọng của công ty.
Các thông tin cần được chuẩn bị, được kiểm toán và công bố thống nhất theo các tiêu
chuẩn về kế toán, tài chính. Các cuộc kiểm toán hàng năm cần được thực hiện bởi các kiểm
toán độc lập nhằm đảm bảo tính khách quan của quá trình xây dựng và nội dung báo cáo tài
chính của công ty.
8
8
Chương II.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN
I. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về quyền của cổ đông
1. Các quyền của cổ đông nói chung theo quy định của pháp luật
Hoạt động cổ đông bao gồm: Giám sát về hoạt động của công ty; thực hiện quyền cổ
đông; tham dự hội nghị cổ đông; yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
Do đó, quy định về quản trị công ty tốt sẽ đảm bảo được lợi ích cho các cổ đông và tất

cả các bên có quyền và lợi ích liên quan, tạo ra môi trường minh bạch và thuận lợi cho đầu tư,
kinh doanh.
Xét về khía cạnh quản trị công ty, LDN năm 2005 đã phát triển thêm những đổi mới và
tiến bộ về bảo vệ quyền lợi của cổ đông so với LDN năm 1999. Trong Luật có các quy định
bảo vệ và tạo điều kiện cho việc thực hiện các quyền hạn chính đáng của các chủ sở hữu; bảo
đảm đối xử công bằng giữa các chủ sở hữu; công khai thông tin và minh bạch hoá cơ chế quản
trị công ty; các quyền của HĐQT và cơ chế giám sát HĐQT của chủ sở hữu trong cơ chế quản
trị công ty... Đó là cơ sở pháp lý quan trọng và cụ thể nhất cho hoạt động của quản trị doanh
nghiệp hiện nay.
Cụ thể, LDN năm 2005 đã thiết lập được những cơ chế hợp lý để bảo vệ cổ đông phổ
thông (bao gồm cả cổ đông sáng lập), thừa nhận các quyền cơ bản của cổ đông phổ thông, cụ
thể:
- Được nhận cổ tức với mức theo quyết định của ĐHĐCĐ
- Được tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông khác và cho người không
phải là cổ đông, trừ trường hợp cổ đông phổ thông của cổ đông sáng lập chỉ có thể chuyển
nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự
chấp thuận của ĐHĐCĐ.
- Quyền nhận và cung cấp thông tin
- Quyền của cổ đông không giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần phổ thông: i) quyền yêu cầu
tòa án xem xét và hủy bỏ các quyết định của ĐHĐCĐ; ii) Quyền yêu cầu công ty mua lại cổ
phần khi biểu quyết phản đối quyết định về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền và
nghĩa vụ của cổ đông quy định tại Điều lệ; iii). Khi công ty giải thể hoặc phá sản, được nhận
một phần tài sản còn lại tương ứng với số cổ phần góp vốn vào công ty
- Bảo vệ cổ đông lớn, như bảo đảm cho họ quyền tham gia quản lý, điều hành và chi
phối công ty.
- Quy định về kiểm soát giao dịch tư lợi, như hợp đồng, giao dịch phải được ĐHĐCĐ
hoặc HĐQT chấp thuận (Điều 120).
- Các quyền tham gia vào hoạt động quản lý của công ty
2. Về vấn đề bảo vệ các cổ đông thiểu số
Bên cạnh việc tạo cơ sở pháp lý cho các cổ đông có điều kiện và cơ hội thực hiện đầy

đủ các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu công ty, thì LDN năm 2005 cũng bảo vệ mạnh hơn
quyền và lợi ích của cổ đông thiểu số như:
- Cổ đông có quyền xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp Điều lệ công ty, sổ biên
bản họp ĐHĐCĐ và các nghị quyết của ĐHĐCĐ (điểm e khoản 1 Điều 79); nhóm cổ đông sở
hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ
khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có các quyền sau đây: Xem xét và trích lục sổ biên
bản và các nghị quyết của HĐQT, báo cáo tài chính giữa năm và hằng năm theo mẫu của hệ
thống kế toán Việt Nam và các báo cáo của Ban kiểm soát; yêu cầu triệu tập họp ĐHĐCĐ; yêu
cầu Ban kiểm soát kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của
công ty khi xét thấy cần thiết.
- Một số cơ chế khá hiệu quả nhằm bảo vệ quyền của cổ đông đã được áp dụng rộng rãi
trên thế giới được thừa nhận trong LDN năm 2005.
9
9
- Quy định cho phép cổ đông ủy quyền bằng văn bản cho bên thứ ba để chủ thể này
biểu quyết thay mình tại các cuộc họp ĐHĐCĐ.
- Quy định cho phép nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong
thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty có
quyền kiến nghị vấn đề đưa vào chương trình họp ĐHĐCĐ cho người triệu tập họp ĐHĐCĐ.
Người triệu tập họp ĐHĐCĐ phải chấp nhận và đưa kiến nghị này vào dự kiến chương trình và
nội dung cuộc họp (trừ trường hợp kiến nghị được gửi đến không đúng thời hạn hoặc không đủ,
không đúng nội dung; vấn đề kiến nghị không thuộc thẩm quyền quyết định của ĐHĐCĐ; và
các trường hợp khác theo quy định của Điều lệ công ty). Kiến nghị được chính thức bổ sung
vào chương trình và nội dung cuộc họp nếu được ĐHĐCĐ chấp thuận.
Với trường hợp cổ đông biểu quyết phản đối quyết định về việc tổ chức lại công ty hoặc
thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại Điều lệ công ty có quyền yêu cầu công ty
mua lại cổ phần của mình. Yêu cầu phải bằng văn bản, trong đó nêu rõ tên, địa chỉ của cổ đông,
số lượng cổ phần từng loại, giá dự định bán, lý do yêu cầu công ty mua lại. Yêu cầu phải được
gửi đến công ty trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày ĐHĐCĐ thông qua quyết định.
Đây là một công cụ hữu hiệu mà tất cả các cổ đông đều có quyền sử dụng để bảo vệ lợi ích của

mình theo các điều kiện quy định.

II. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát của
công ty
1. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về Hội đồng quản trị
Theo thông lệ quốc tế, HĐQT là một cơ quan có quyền lực cao nhất của doanh nghiệp -
nơi vạch ra những chiến lược và giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
HĐQT được xác định là "cơ quan quản lý công ty" và "có toàn quyền nhân danh công
ty để giải quyết tất cả các vấn đề, trừ các vấn đề thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ", khoản 2 Điều
108 LDN năm 2005 đã quy định khá đầy đủ quyền và nhiệm vụ của HĐQT. So với quyền và
nhiệm vụ được quy định trong LDN năm 1999 thì quyền và nhiệm vụ của HĐQT được quy
định ở LDN năm 2005 (khoản 2 Điều 108) có quy định thêm thẩm quyền về giám sát của
HĐQT, cụ thể: giám sát, chỉ đạo Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác trong
điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty.
Tuy nhiên, các quy định về quyền và nhiệm vụ của HĐQT vẫn nghiêng về khía cạnh
quản lý trực tiếp và còn mờ nhạt về vấn đề giám sát. So với LDN năm 1999, thì LDN năm
2005 quy định về cách thức tổ chức và vận hành của cơ quan này đã có một số thay đổi cơ bản
theo hướng cởi mở, tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư trong phần vốn của mình bỏ ra để kinh
doanh và tiếp cận gần hơn với các qui tắc được thừa nhận rộng rãi, cụ thể:
Về HĐQT, LDN năm 1999 không quy định tiêu chuẩn của thành viên HĐQT. Trong
điều kiện và thực tế ở Việt Nam, điều này là hoàn toàn phù hợp với các công ty cổ phần khu
vực tư nhân. Tuy nhiên đối với các CTCP lớn, CTCP có sự tham gia vốn của đối tác nước
ngoài hoặc CTCP có sự tham gia vốn của Nhà nước, nhất là vốn đa số thì nảy sinh nhiều vấn đề
không thể kiểm soát được. Vấn đề này, LDN năm 2005 áp dụng thống nhất cho bốn loại hình
cơ bản của doanh nghiệp (đại bộ phận số doanh nghiệp hiện nay), gồm công ty trách nhiệm hữu
hạn, CTCP, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân, không phân biệt tính chất sở hữu và
thành phần kinh tế (khác với LDN năm 1999), vì thế sẽ có các CTCP có sự tham gia vốn của
đối tác nước ngoài hoặc CTCP có sự tham gia vốn của Nhà nước, nhất là vốn đa số. Do đó, để
tránh những vấn đề nảy sinh không thể kiểm soát được, LDN năm 2005 đã quy định rõ tiêu

chuẩn của thành viên HĐQT.
"1. Thành viên HĐQT phải có các tiêu chuẩn và điều kiện sau đây:
a) Có đủ năng lực hành vi dân sự, không thuộc đối tượng bị cấm quản lý doanh nghiệp theo quy
định của Luật này;
10
10

×