Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

hình thành thị trường hàng hóa giao sau của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.83 KB, 116 trang )

Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực
tiễn để hình thành thị trờng hàng
hoá giao sau của Việt Nam
Viện Nghiên cứu Thơng mại
2000
Mục lục
Trang
Lời nói đầu
5
Chơng I tổng quan về thị trờng hàng hoá giao sau
8
I Các khái niệm cơ bản
8
1 Khái niệm về thị trờng triển hạn 8
2 Khái niệm về thị trờng kỳ hạn 10
3 Khái niệm về thị trờng tự chọn 12
4 Khái niệm về thị trờng hàng hoá giao sau
15
5
Hợp đồng trong thị trờng hàng hoá giao sau 17
6
Thị trờng ngoài sở giao dịch 19
II Thị trờng hàng hoá giao sau có tổ chức
22
1 Thị trờng hàng hoá kỳ hạn có tổ chức 22
2 Thị trờng tự chọn hàng hoá có tổ chức 43
3 Quản lý nhà nớc đối với thị trờng kỳ hạn và tự chọn 52
4 Một số kinh nghiệm của nớc ngoài về kinh doanh trên thị tr-
ờng hàng hoá giao sau
56
Chơng II Vai trò, ý nghĩa của thị trờng hàng hoá giao sau và


khả năng tham gia một số mặt hàng nông sản của việt
nam
64
I Thị trờng hàng hoá giao sau là phơng tiện san sẽ
rủi ro về giá và dự báo thị trờng
64
II Vai trò của thị trờng hàng hoá giao sau đối với việc
tiêu thụ nông sản ở Việt Nam hiện nay
68
III Đánh giá khả năng tham gia của một số mặt hàng
nông sản vào thị trờng hàng hoá giao sau của Việt
Nam
71
1 Lúa gạo 71
2 cà phê 76
3 Hạt điều 79
4 Cao su 83
5 Chè 86
6
Kết luận 90
IV những khó khăn và thuận lợi của việc hình thành
thị trờng hàng hoá giao sao của việt nam hiện nay
91
1
Khó khăn 92
2
Thuận lợi 93
2
Chơng III dự kiến mô hình, bớc đi, giải pháp và kiến nghị để
hình thành thị trờng hàng hoá giao sau của

việt nam
95
I Dự kiến về mô hình thị trờng hàng hoá giao sau của
Việt Nam
96
1 Về tổ chức quản lý thị trờng hàng hoá giao sau 96
2 Về các thành phần tham gia vào thị trờng hàng hoá giao sau
của Việt Nam
97
3 Về trung tâm giao dịch hàng hoá giao sau của Việt Nam 99
II Dự kiến các bớc đi hình thành thị trờng hàng hoá
giao sau của Việt Nam
102
III Một số kiến nghị và giải pháp
105
1 Về việc xây dựng các văn bản pháp lý 105
2 Về phơng thức tổ chức thực hiện 106
3 Về đào tạo 106
4 Về các vấn đề khác có liên quan 108
Kết luận
109
Phụ lục
111
Tài liệu tham khảo
118
3
Lời nói đầu
Việc lu thông và tiêu thụ các hàng hoá nông sản giữ vai trò quan trọng trong sự
phát triển của nền nông nghiệp hàng hoá. Để nhằm giải quyết vấn đề này nhiều nớc trên
thế giới nh Hoa Kỳ, các nớc thuộc khối EU, Nhật Bản, úc và nhiều nớc thuộc khối

Asean nh Singapo, Philippin, Inđônễia, Malaixia, Thái lan ... đã hình thành một thị tr-
ờng tiêu thụ gọi là thị trờng hàng hoá giao sau.
Thị trờng hàng hoá giao sau là một loại hình thị trờng mà ở đó ngời ta mua bán,
trao đổi với nhau không phải là các hàng hoá sản phẩm trực tiếp giao ngay mà chỉ
thông qua các hợp đồng cam kết mua bán, còn việc giao hàng và nhận tiền đợc thực
hiện trong tơng lai. Số lợng, giá cả, phẩm cấp, hình thức giao nhận đều căn cứ vào các
điều khoản cụ thể ghi trong hợp đồng, vì lẽ đó ngời ta còn gọi thị trờng hàng hoá giao
sau là thị trờng hợp đồng. Đầu tiên, trên thị trờng hàng hoá giao sau ngời ta buôn bán
và trao đổi với nhau các hợp đồng về sản phẩm hàng hoá mà chủ yếu là nông sản. Hiện
nay trên thị trờng hàng hoá giao sau ngời ta còn tiến hành buôn bán, trao đổi với nhau
các hợp đồng không chỉ về nông sản, mà còn khoáng sản, kim loại, năng lợng...và cả
các công cụ tài chính.
Thị trờng hàng hoá giao sau đã có lịch sử phát triển lâu dài hàng thế kỷ, từ việc
buôn bán trao đổi các hợp đồng một cách tự phát ngoài sở giao dịch, đến nay việc buôn
bán trao đổi hầu hết đợc tiến hành tại một nơi quy định có tổ chức là các sở giao dịch
hàng hoá giao sau. Thị trờng hàng hoá giao sau bao gồm các hình thức giao dịch khác
nhau nh giao dịch triển hạn, giao dịch kỳ hạn và giao dịch kỳ hạn tự chọn. Mỗi một loại
hình giao dịch có những u thế riêng của nó và toàn bộ các giao dịch này kết hợp với
nhau tạo thành một công cụ tuyệt vời thúc đẩy quá trình sản xuất, lu thông của nền kinh
tế thị trờng.
Thị trờng hàng hoá giao sau là nơi giao dịch ký kết các hợp đồng mua bán hàng
hoá, vì vậy các hợp đồng giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong thị trờng này. Hợp
đồng mua bán hàng hoá giao sau vừa là công cụ pháp lý ràng buộc các bên tham gia ký
kết, vừa là mục tiêu định hớng cụ thể trớc mắt cho các nhà sản xuất, đặc biệt là các
ngành sản xuất mang tính thời vụ và thờng gặp rủi ro về giá nh nông nghiệp. Khi có
một hợp đồng đợc ký kết nhà sản xuất có thể huy động vốn, vay tín dụng , thuê hoặc
mua công nghệ, vật t nông nghiệp nhằm thực hiện các mục tiêu cụ thể trong hợp đồng.
Khối lợng, chất lợng, giá cả và thời gian của hợp đồng là cơ sở để cho các nhà sản xuất
hạch toán kinh tế, nâng cao hiệu quả của việc sản xuất và kinh doanh.
Với bản chất và nội dung kinh tế chủ yếu là san sẽ mọi rủi ro có thể xãy ra, là

chia bớt rủi ro về giá từ ngời sản xuất trực tiếp sang các nhà kinh doanh chuyên nghiệp,
vì vậy đối với ngời nông dân, các chủ trang trại, các nhà chế biến thì thị trờng nông sản
giao sau lại càng có vai trò cực kỳ quan trọng. Khi đã biết trớc số lợng, chất lợng, giá cả
và thời gian giao hàng, tức là đã nắm chắc đầu ra của sản phẩm, ngời nông dân có thể
4
vạch kế hoạch sản xuất, tiến hành huy động vốn, mua sắm vật t, mở rộng diện tích canh
tác, tiến hành áp dụng các kỹ thuật tiên tiến để nâng cao năng suất và chất lợng. Đó là
một yếu tố quan trọng để nâng cao khối lợng các nông sản hàng hoá của Việt Nam, tận
dụng đợc một cách hợp lý nguồn tài nguyên và nhân lực.
Việc đáp ứng yêu cầu chất lợng của Hợp đồng nông sản giao sau có tác dụng
khuyến khích ngời nông dân mạnh dạn đầu t , đổi mới phơng thức sản xuất để tạo ra
các sản phẩm đạt tiêu chuẩn có chất lợng cao đáp ứng các yêu cầu về mặt môi trờng
(sản phẩm sạch), đây là một vấn đề ngời nông dân trớc đây không giám làm vì khó
cạnh tranh về giá cả so với các sản phẩm cùng loại khác nhất trên thị trờng nội địa. Từ
nay do biết trớc đợc giá cả của các sản phẩm sạch ngời sản xuất sẵn sàng đầu t để sản
xuất ra các sản phẩm đạt các tiêu chuẩn chất lợng và tiêu chuẩn môi trờng. Điều này
góp phần đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ môi trờng mà hiện nay đang là
một vấn đề nổi cộm ở nớc ta. Hơn nữa, khi bớc vào hội nhập thì thị trờng hàng hoá
nông sản giao sau lại là cách thức tốt nhất để tổ chức sản xuất lu thông theo những yêu
cầu thị trờng đòi hỏi chất lợng cao của các nớc phát triển nh EU, Bắc Mỹ, Nhật Bản...
Các sản phẩm có chất lợng cao sẽ tạo điều kiện để nông sản Việt Nam đủ sức thâm
nhập và cạnh tranh trên thị trờng quốc tế.
Việc ngời dân mạnh dạn vay vốn, mua vật t nông nghiệp, có tác dụng kích cầu
đối với thị thị trờng vốn, thị trờng t liệu sản xuất... Hơn nữa, nếu nông dân tiêu thụ đợc
sản phẩm, họ sẽ có điều kiện để mua sắm các sản phẩm tiêu dùng, với một tỷ lệ 80%
dân số hiện nay sẽ là một động lực rất lớn cho việc kích cầu về tiêu dùng. Kích cầu về t
liệu sản xuất và tiêu dùng là một trong những vấn đề mà chúng ta đang tập trung giải
quyết hiện nay.
Công cuộc đổi mới nền kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua, một mặt đã tạo
ra một khối lợng các sản phẩm nông sản cha từng có từ trớc tới nay, mặt khác đã tạo ra

cho chúng ta một cách t duy kinh tế mới, phù hợp với những quy luật khách quan của
nền kinh tế thị trờng, tạo ra một đội ngũ các doanh nghiệp có đủ khả năng và trình độ
để tham gia vào thị trờng hàng hoá nông sản giao sau của Việt Nam. ở nớc ngoài, loại
hình thị trờng này đã đợc hình thành từ lâu và đã đợc áp dụng đối với hầu hết các loại
nông sản , vì vậy chúng ta có thể tham khảo, học hỏi những kinh nghiệm quý báu nhằm
xây dựng thành công thị trờng hàng hoá giao sau, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh
tế - xã hội mà Đảng và Nhà nớc đã đề ra.
Tất cả những điều trên đây chứng tỏ rằng việc xây dựng một thị trờng hàng hoá
nông sản giao sau của Việt Nam là vô cùng cần thiết. Hơn nữa, hiện nay nớc ta đã chín
muồi các yếu tố khách quan và chủ quan, để xây dựng thành công thị trờng hàng hoá
giao sau của mình. Vấn đề còn lại chỉ là việc tổ chức nghiên cứu và triển khai thực
hiện. Vì vậy việc Bộ Thơng Mại cho tiến hành tổ chức thực hiện đề tài Nghiên cứu
cơ sở khoa học và thực tiễn để hình thành thị trờng hàng hoá giao sau của Việt
Nam, là đáp ứng đợc kịp thời những vấn đề kinh tế cấp bách đang đặt ra trớc mắt cũng
nh trong một tơng lai gần cho đất nớc chúng ta.
5
Để thị trờng hàng hoá giao sau của Việt Nam đợc hình thành và đi vào hoạt động
một cách có hiệu quả cần phải có chủ trơng và sự hỗ trợ ban đầu của Chính phủ, đồng
thời phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ ngành khác nhau.
Xuất phát từ mục đích chủ yếu của đề tài là nghiên cứu cơ sở khoa học và thực
tiễn để hình thành và phát triển thị trờng hàng hoá giao sau của Việt Nam, cho nên đề
tài chỉ trình bày cơ sở lý thuyết chung, quá trình hình thành và phát triển của thị trờng
hàng hoá giao sau trên thế giới.Đồng thời đề tài cũng nêu lên các điều kiện về kinh tế -
xã hội ở Việt Nam để làm cơ sở cho việc đề xuất một dự án về việc triển khai xây dựng
thị trờng hàng hoá giao sau của Việt Nam mà trớc hết là áp dụng đối với hàng nông
sản.
Đối tợng nghiên cứu của đề tài là lịch sử hình thành và phát triển của các loại
hình giao dịch trên thị trờng hàng hoá giao sau của thế giới, phân tích và đánh giá một
số mặt hàng của Việt Nam có thể tham gia giao dịch khi thị trờng đợc hình thành. Qua
đó, đề tài cũng dự kiến ban đầu về mô hình, các giai đoạn tiến hành triển khai xây dựng

thị trờng ở Việt Nam.
Phạm vi mà đề tài đề cập đến ở phần cơ sở lý thuyết nh bản chất của thị trờng ,
các hình thức giao dịch chủ yếu, cơ chế mua bán, thành phần tham gia thị trờng....là t-
ơng đối toàn diện. Tuy nhiên đề tài cha đi sâu vào các nội dung cụ thể nh chiến lợc kinh
doanh của các đối tợng khác nhau (bảo hiểm, đầu cơ...), công tác quản lý và vận hành
các Trung tâm, các kiến thức chuyên sâu của các bộ phận tham gia thị trờng, cũng nh
đánh giá khả năng tham gia của một số nông sản chủ yếu của Việt Nam. Phần dự kiến
cũng đợc nêu nên một cách khái quát. Mô hình và các bớc đi ban đầu mới chỉ là những
nét phác thảo cơ bản nhất. Việc triển khai xây dựng thị trờng cần phải có sự tìm hiểu và
nghiên cứu một cách sâu rộng hơn.
Vì những lẽ trên nên kết cấu của đề tài bao gồm những nội dung cơ bản sau đây:
Tổng quan về thị trờng hàng hoá giao sau.
Vai trò, ý nghĩa của thị trờng hàng hoá giao sau và khả năng tham gia đối với
một số mặt hàng nông sản của Việt Nam hiện nay.
Dự kiến mô hình, các bớc đi, các kiến nghị và giải pháp để thiết lập thị trờng
hàng hoá giao sau của Việt Nam.
Với những nội dung trên chúng tôi hy vọng rằng đề tài sẽ có những đóng góp
nhất định về lý luận và thực tiễn nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế bức xúc của nớc
ta hiện nay.
6
Chơng i
tổng quan về thị trờng hàng hoá giao sau
I. các khái niệm cơ bản.
1. Khái niệm về thị trờng triển hạn.
Sự hình thành và phát triển thị trờng hàng hoá giao sau luôn gắn liền với
việc giải quyết các vấn đề ách tắc nảy sinh trong quá trình lu thông và tiêu thụ
nông sản sau thu hoạch của nông dân. Vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XIX,
các nông sản hàng hoá đợc vận chuyển từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ phải mất
nhiều thời gian và chi phí rất tốn kém. Một đặc tính của sản xuất nông nghiệp là
mang tính thời vụ, cho nên tình trạng cung vợt quá cầu của mặt hàng này vào thời

kỳ thu hoạch đã làm cho giá cả giảm mạnh một cách thất thờng trên thị trờng tiêu
thụ. Điều đó đã góp phần làm tăng tính rủi ro đối với những ngời sản xuất nông
nghiệp, nhiều nhà sản xuất nhỏ và kể cả các nhà sản xuất lớn đã lâm vào tình
trạng phá sản.
Chẳng hạn, vào năm 1840 các chủ trang trại đã vận chuyển ngũ cốc của
mình từ các trang trại vùng vành đai đến Chicago (Mỹ) để bán và số ngũ cốc này
sau đó lại đợc phân phối về các vùng phía Đông dọc theo các tuyến đờng sắt và
vùng ven hồ. Nh vậy, có một lợng ngũ cốc đợc vận chuyển theo chiều ngợc lại
gây thiệt hại về kinh tế và làm lãng phí thời gian. Sau vụ thu hoạch các chủ trang
trại đã đồng loạt tiến hành công việc tiêu thụ nông sản làm cho một lợng ngũ cốc
rất lớn đợc chuyển tới Chicago vào cuối mùa hè nên đã gây ra khủng hoảng. Khả
năng kho chứa của thành phố không đủ để thu nhận một lợng ngũ cốc lớn tăng
nhất thời này. Điều đó lại góp phần làm tăng lợi thế cho bên mua và khó khăn cho
bên bán Ngũ cốc, thị trờng tiêu thụ hỗn loạn, các nhà đầu cơ lợi dụng tình trạng
này ép giá, giá ngũ cốc tụt xuống một cách thảm hại sau thu hoạch và sau đó lại
tăng lên khi nguồn cung đợc giải tỏa. Nh vậy, trong nông nghiệp ngoài việc luôn
phải đối mặt với những tai hoạ do thiên tai gây ra, ngời nông dân còn phải đối mặt
với những rủi ro do thị trờng dồn lại.
Những sự kiện mang tính chu kỳ nh vậy đã gây nên những thiệt hại nghiêm
trọng cho ngời sản xuất lơng thực. Do đó những ngời nông dân đã tìm cách tránh
rủi ro thị trờng bằng cách bán ngũ cốc trớc khi vận chuyển đến nơi tiêu thụ, kể cả
với mức giá thấp hơn một ít so với giá dự kiến khi ngũ cốc đợc đa đến bán ngay
trên thị trờng.
Nh vậy, thay vì việc phải mang ngũ cốc đến thị trờng để tiêu thụ sau thu
hoạch, ngời nông dân phải tiến hành thoả thuận với ngời mua để bán trớc nông
sản của mình. Họ (ngời bán và ngời mua) gặp nhau, thoả thuận với nhau về số l-
ợng ngũ cốc, phẩm cấp, giá cả, thời gian, địa điểm giao hàng và nhận tiền. Ban
đầu các hành động trên đây giữa ngời bán và ngời mua diễn ra một cách tự phát,
đơn lẻ, về sau các hoạt động này đã trở thành phổ biến do tính u việt của nó trong
tiêu thụ và lu thông nông sản. Một thị trờng mới xuất hiện, đó là một thị trờng mà

ở đó ngời ngời bán và ngời mua gặp nhau để hợp đồng, thoả thuận, cam kết với
nhau về việc mua bán, giao hàng và nhận tiền trong tơng lai.
Tuy nhiên, không phải hợp đồng nào cũng là cuộc gặp nhau giữa những ng-
ời thực sự cần mua và cần bán. Trong thực tế trên thị trờng còn xuất hiện một ngời
thứ ba - ngời trung gian. Ngời trung gian có vai trò môi giới, chắp nối những ngời
cần mua và những ngời cần bán lại với nhau. Sự xuất hiện của ngời trung gian ban
đầu cũng mang tính tự phát về sau lại trở thành phổ biến. Nhiều ngời coi đó nh là
một nghề - Nghề môi giới trung gian. Việc chắp nối của ngời trung gian quả là
không đơn giản, vì để hành nghề họ cũng phải bỏ thời gian, sức lao động và cả
tiền bạc, thậm chí nhiều lúc cũng phải chịu rủi ro. Điều đó có thể giải thích nh
sau: giả sử ngời trung gian sau khi đã thoả thuận mua của ngời sản xuất một khối
lợng nông sản với một mức giá nào đó và sau đó lại tiến hành tìm một khách hàng
để bán với số lợng và mức giá đó thì anh ta sẽ thu đợc cái gì?- Đó có thể là một số
tiền gọi là tiền hoa hồng môi giới do ngời bán hoặc ngời mua trao cho, hoặc có
khi là cả hai bên. Trong trờng hợp thuận lợi ngời trung gian thoả thuận mua của
ngời sản xuất với giá rẻ và thoả thuận bán với ngời tiêu dùng với giá đắt thì ngoài
khoản tiền hoa hồng ngời trung gian còn thu đợc một lợi nhuận khác đáng kể. Nh-
ng đối với trờng hợp không thuận lợi thì sau khi đã tiến hành một thoả thuận mua
của ngời sản xuất mà ngời trung gian không tiến hành đợc một thoả thuận bán
cho một ngời khác (hoặc ngợc lại), thì rõ ràng việc chắp nối của ngời trung gian
không thành công và đó chính nguyên nhân gây nên rủi ro đối với ngời môi giới.
Các hiện tợng trên đã đặt ra cho các nhà kinh tế một nhiệm vụ cần phải giải
quyết, một mặt để giải toả đợc những ách tắc trong lu thông, làm ảnh hởng đến sự
phát triển của nền kinh tế, mặt khác đây cũng là một thị trờng kinh doanh không
kém phần hấp dẫn, vì vậy vào năm 1848, một nhóm nhà kinh doanh ở Mỹ đã thực
hiện những bớc đi đầu tiên bằng cách lập ra Cục Thơng mại Chicago (CBOT).
CBOT đợc tổ chức với mục đích ban đầu là tiêu chuẩn hoá số lợng và chất lợng
ngũ cốc - một nội dung cụ thể của hợp đồng trong mua bán giao sau mà chúng ta
sẽ đề cập một cách chi tiết ở các phần tiếp theo. Vài năm sau, hợp đồng triển hạn
ra đời với tên gọi là hợp đồng hàng đến, hợp đồng quy định là chủ trang trại có

thể thoả thuận giao ngũ cốc vào một ngày trong tơng lai với giá, số lợng, phẩm
cấp....đã xác định trớc. Điều này có nghĩa là các chủ trang trại không cần phải chở
ngũ cốc đến Chicago vào thời điểm sau thu hoạch nh trớc kia họ vẫn thờng tiến
hành nhng lại vẫn có thể tiêu thụ đợc các nông sản của mình.
8
Các hợp đồng hàng đến này tỏ ra là một công cụ kỳ lạ đối với các chủ trang
trại và những ngời sản xuất nông nghiệp.Đồng thời điều này cũng hoàn toàn phù
hợp với nguyện vọng của các nhà sản xuất chế biến, sau khi đã thoả thuận mua
một số lợng nông sản với phẩm cấp quy định, công việc của họ là chỉ chăm lo cải
tiến công nghệ cho sản xuất chế biến nông sản. Mặt khác, các nhà đầu cơ nhanh
chóng thấy rằng thay vì phải mua và bán ngũ cốc thực sự họ có thể mua và bán
hợp đồng. Bằng cách này, họ có thể đầu cơ trên giá ngũ cốc giao vào một ngày
trong tơng lai và không phải lo nghĩ về các vấn đề nhận hàng và lu kho ngũ cốc
nh trớc kia, thực chất đây là một hình thức mua bán không dựa trên sự biến đổi
của giá ngũ cốc.
Các giao dịch hợp đồng hàng đến đã tạo thành một thị trờng hết sức sôi
động và gọi là thị trờng triển hạn ( Forward market). Các thoả thuận hợp đồng
hàng đến sau khi đã đợc tiêu chuẩn hoá đợc gọi là các hợp đồng triển hạn
(forward contract).
Mặc dù có rất nhiều u điểm, song trong thực tế nhiều khi các bên của hợp
đồng không thực hiện nghĩa vụ cam kết của mình, khả năng không thực hiện đợc
cam kết này hoàn toàn tơng tự nh trờng hợp mua, bán giao dịch trực tiếp trên thị
trờng. Tuy nhiên trên thị trờng giao ngay ngời bán đối mặt với khả năng không
giữ cam kết của ngời mua, hoặc ngợc lại, luôn xảy ra mà không gây ra một thiệt
hại lớn nào cho mỗi bên, còn trong hợp đồng triển hạn mỗi bên phải chịu nguy cơ
thiệt hại lớn hơn bội phần khi có sự thay đổi của bên kia.
Thị trờng triển hạn tồn tại và không ngừng phát triển một cách hoàn thiện,
đã góp phần to lớn trong việc giải quyết vấn đề tiêu thụ các nông sản hàng hoá.
Tuy nhiên để khắc phục những hạn chế nêu trên cần phải hình thành một thị trờng
có cơ chế hợp lý để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng,

thay việc giao dịch một cách tự phát, phi tập trung bằng việc hình thành các địa
điểm giao dịch có tổ chức ...Tất cả những yêu cầu đó đợc đáp ứng bởi một thị tr-
ờng có tổ chức chặt chẽ đó là thị trờng hàng hoá kỳ hạn, trên thị trờng này ngời ta
chỉ cho phép giao dịch các hợp đồng tại một nơi quy định có tổ chức và hơn nữa
các hợp đồng đều đợc tiêu chuẩn hoá ở mức cao. theo các điều khoản mẫu...
2. Khái niệm về thị trờng kỳ hạn

Về mặt lịch sử cũng nh về phơng diện lô gic thì thị trờng kỳ hạn là giai
đoạn phát triển cao hơn của thị trờng triển hạn, thị trờng triển hạn là tiền thân của
thị trờng kỳ hạn.
Sự hình thành và phát triển của thị trờng kỳ hạn hàng hoá đã tiếp thu đợc
tất cả những u việt, đồng thời khắc phục đợc những hạn chế của thị trờng triển
hạn. Điều đó đợc thể hiện ở việc tiêu chuẩn hoá các hợp đồng triển hạn để tạo
thành một hợp đồng kỳ hạn với các điều khoản cụ thể và chặt chẽ hơn. Hơn nữa,
9
thị trờng kỳ hạn là một thị trờng có tổ chức cao nên giảm bớt đợc rủi ro và tăng
tính thực thi đối với các hợp đồng. Trong thị trờng kỳ hạn tất cả các giao dịch đều
đợc tiến hành tại một nơi quy định gọi là sở giao dịch hàng hoá kỳ hạn. Sở giao
dịch hàng hoá kỳ hạn là bộ phận quan trọng nhất của thị trờng kỳ hạn, vì lẽ đó mà
khi nói đến thị trờng kỳ hạn thì ngời ta thờng hiểu rằng đó là Sở giao dịch hàng
hoá kỳ hạn.
Tuy nhiên sự ra đời của các sở giao dịch của thị trờng hàng hoá kỳ hạn
không phải thay thế hoàn toàn thị trờng triển hạn- tiền thân của giao dịch kỳ hạn,
mà song song với các giao dịch kỳ hạn tại các sở giao dịch, các giao dịch triển
hạn vẫn tồn tại và tạo thành một bộ phận của các giao dịch trên thị trờng hàng hoá
giao sau đợc gọi là giao dịch ngoài sở (phi tập trung). Ngoài việc cung cơ sở vật
chất và duy trì trật tự cho các giao dịch, Sở giao dịch trong thị trờng kỳ hạn còn có
vai trò nh ngời trung gian chắp mối các nhu cầu mua và bán trong thị trờng triển
hạn một cách có tổ chức.
Tại sở giao dịch ngời giao dịch không chỉ mua bán các hợp đồng lần đầu

tiên đợc mời chào mà còn mua đi - bán lại các hợp đồng đã đợc bán mua, có khi
từ khi mua đến lúc bán chỉ cách nhau trong một thời gian rất ngắn. Toàn bộ các
loại hình giao dịch mua đi bán lại này tạo nên một khung cảnh vô cùng nhộn nhịp
và đợc gọi là giao dịch thứ cấp.
Các giao dịch thứ cấp tỏ ra là khá hấp dẫn, trong thực tế chính các giao
dịch này chiếm phần lớn trong các phiên giao dịch tại sở. Chính vì sự hấp dẫn của
các giao dịch này đã làm cho số hợp đồng kỳ hạn đợc mua bán trao đổi không
ngừng tăng lên qua hàng năm tại các sở giao dịch.
Trong thị trờng kỳ hạn hàng hoá, Sở giao dịch hàng hoá đóng vai trò của
ngời trung gian trong giao dịch triển hạn. Thay vì phải giao dịch, ký kết hợp đồng
giữa nhà sản xuất và nhà tiêu thụ với ngời trung gian họ có thể ký tiếp hợp đồng
với sở giao dịch hàng hoá kỳ hạn. Do tính tiêu chuẩn hoá của hợp đồng cũng nh
tính tổ chức chặt chẽ của các sở giao dịch nên thị trờng kỳ hạn đã khắc phục đợc
các rủi ro mà vốn là những hạn chế thờng xảy ra trong giao dịch triển hạn.
Tuy nhiên, giao dịch kỳ hạn hàng hoá cũng có những hạn chế nhất định,
điều đó có thể đợc giải thích là khi tiến hành ký kết hợp đồng mua hoặc bán tại sở
giao dịch xẩy ra vào thời điểm trớc, còn việc giao hàng và nhận tiền lại đợc thực
hiện vào một thời điểm đợc ấn định trong tơng lai với giá cả đã đợc quy định
trong hợp đồng, dẫn đến việc ngời bán có thể bị thua lỗ, thiệt hại do mức giá ghi
trong hợp đồng thấp hơn giá thực tế tại thị trờng lúc giao hàng trong tơng lai. Ng-
ợc lại, ngời mua cũng có thể bị thiệt hại khi mức giá ghi trong hợp đồng cao hơn
giá thực tế tại thị trờng vào thời điểm thực hiện hợp đồng. Trong thời gian thực
hiện hợp đồng nếu giá giao ngay trên thị trờng có xu hớng tăng cao thì ngời bán
muốn tìm cách để không thực hiện hợp đồng, còn ngời mua thì muốn duy trì việc
10
thực hiện hợp đồng, sở giao dịch là ngời trung gian giải quyết mâu thuẫn trên.
Việc duy trì nghĩa vụ của việc thực hiện hợp đồng đợc tiến hành thông qua các
khoản tiền bảo chứng là bảo chứng ban đầu và bảo chứng duy trì mà chúng ta sẽ
thấy ở các phần sau. Giao dịch kỳ hạn đã khắc phục đợc những hạn chế của giao
dịch triển hạn trong thị trờng triển hạn, và cùng với giao dịch trển hạn đóng vai

trò to lớn trong việc hình thành thị trờng hàng hoá giao sau. Ngoài ra, trong thực
tế còn tồn tại một số hình thức giao dịch khác cũng có vai trò không kém phần
quan trọng trong việc hình thành thị trờng hàng hoá giao sau- đó là giao dịch hàng
hoá tự chọn.
3. Khái niệm về thị trờng tự chọn
Sự xuất hiện của thị trờng tự chọn nhằm giải quyết một vấn đề thờng xảy ra
trong thực tế đó là sau khi ngời bán (nhà sản xuất) tơng tự ngời mua (nhà xuất
khẩu chẳng hạn) đã sở hữu hợp đồng thì giá thị trờng có nhiều biến động và gây
thiệt hại đối với họ, liệu có cách gì khắc phục đợc các thiệt hại ấy hay không?
Câu trả lời là có 2 cách để khắc phục đợc những thiệt hại nói trên. Cách thứ nhất
là ngời sở hữu hợp đồng có thể bán lại hợp đồng của mình tại sở giao dịch hàng
hoá kỳ hạn (giao dịch thứ cấp) khi cha hết thời hạn, cho một ngời khác nhằm
ngăn chặn việc thua thiệt của mình do sự lên xuống của giá cả gây ra. Cách thứ 2
là ngời này tham gia vào một thị trờng khác là thị trờng tự chọn.
Thị trờng tự chọn là thị trờng diễn ra các giao dịch hợp đồng tự chọn. Hợp
đồng tự chọn là hợp đồng giữa 2 bên ngời mua và ngời bán (ngời viết). Trong đó
ngời mua mua của ngời bán (ngời viết) không phải là một món hàng, mà là một
cái quyền tức là quyền mua hay quyền bán một món hàng hoặc một tài sản nào đó
theo mức giá đã thoả thuận. Nh trong bất kỳ một trờng hợp mua bán nào khi ngời
bán trao quyền sở hữu của mình về một cái gì đó cho ngời mua, thì ngời mua phải
trả tiền cho ngời bán, ở đây ngời mua bỏ tiền ra để nhận về cho mình không phải
là một hàng hoá theo nghĩa thông thờng mà là một cái quyền- quyền mua hoặc
bán một tài sản nào đó theo giá của hợp đồng tự chọn. Tuy nhiên, trong trờng hợp
mua bán này số tiền mà ngời mua trả cho ngời bán không tơng đơng với mức giá
của tài sản đó trên thị trờng mà chỉ là một số tiền tợng trng, ớc lệ gọi là phí hay là
tiền cợc (premium) mà sau này ngời ta gọi là giá tự chọn.
Việc thực hiện mua tự chọn một tài sản thì thu về đợc một cái quyền gọi là
quyền tự chọn mua (short). Tơng tự việc tự chọn bán tài sản gọi là quyền tự chọn
bán (Long), giá cố định dựa theo đó ngời mua có thể mua hay bán tài sản gọi là
giá ớc định (exercife/strike/striking price). Hơn nữa, tự chọn cũng có một thời

hạn nhất định, quyền mua hay quyền bán tài sản hàng hoá theo giá trị cố định chỉ
tồn tại đến ngày hết hạn, sau ngày đó quyền tự chọn mua hay bán sẽ không còn
hiệu lực.
11
Giao dịch tự chọn đã có một quá trình phát triển lâu dài trong lịch sử. Tuy
những dạng này gần giống nh tự chọn hiện đại, đợc bắt đầu từ thế kỷ 19, khi một
tập đoàn công ty tự đặt tên là Hiệp hội Môi giới và kinh doanh (mua bán) tự chọn,
lập ra thị trờng tự chọn. Nếu có ai muốn mua tự chọn, một hội viên sẽ tìm một ng-
ời bán sẵn sàng viết. Trờng hợp không tìm đợc ngời viết, thì bản thân hội viên đó
tự viết (bán). Cho nên một công ty có thể là môi giới - chắp nối bên mua với bên
bán hoặc là vừa mua vừa bán, thực tế nó đảm nhiệm một vị thế trong doanh vụ ấy.
Đó là ngời đầu tiên đặt nền móng cho việc hình thành sở giao dịch tự chọn, trên
cơ sở đó giao dịch tự chọn không ngừng phát triển cho đến ngày nay.
Trong giao dịch tự chọn, cùng với các giao dịch tại Sở còn tồn tại các giao
dịch ngoài Sở, song những giao dịch này thờng có nhiều khiếm khuyết. Thứ nhất,
nó không cho nguời nắm giữ quyền này có cơ hội bán tự chọn cho ngời khác trớc
khi hết hạn, tự chọn phải đợc giữ cho tới khi hết hạn, lúc đó mới đợc mua bán
hoặc hết hạn. Nh vậy hợp đồng tự chọn có rất ít hoặc không có tính cơ động. Thứ
hai, việc thực hiện của ngời viết chỉ đợc bảo đảm qua một công ty môi giới - kinh
doanh, nếu ngời viết hay công ty hội viên nói trên bị phá sản, thì ngời nắm quyền
tự chọn chỉ còn mỗi cách là gặp rủi ro. Thứ ba, chi phí hành chính cho loại hình
này tơng đối cao và khá nhiều phiền hà rắc rối.
Năm 1973, xuất hiện một biến đổi có tính cách mạng trên thị trờng tự chọn
thế giới. Sở Thơng mại Chicago, tổ chức giao dịch lâu đời và lớn nhất thế giới
trong lĩnh vực mua bán hợp đồng kỳ hạn, tổ chức riêng hẳn một Sở giao dịch tự
chọn, lấy tên là Sở giao dịch tự chọn Chicago (tiếng Anh viết tắt là CBOE). Sở mở
cửa mua tự chọn chứng khoán ngày 26/4/1973, sau đó bổ sung bán tự chọn lần
đầu cho các mặt hàng khác vào tháng 6/1977.
CBOE lập ra một Trung tâm tự chọn, bằng các tiêu chuẩn hoá những điều
khoản, điều kiện của hợp đồng tự chọn và bổ sung thêm tính cơ động. Nói cách

khác, một nhà đầu t trớc đã mua hoặc bán tự chọn tại Sở thì có thể trở lại để bán
mua trớc khi hết hạn, do đó bù trừ đợc vị thế ban đầu. Quan trọng hơn nữa là
CBOE lập thêm Sở giao hoán đảm bảo cho ngời mua là ngời viết chắc chắn phải
hoàn thành nghĩa vụ cho đến khi kết thúc kỳ hạn hợp đồng. Vì vậy, khác với thị
trờng ngoài Sở giao dịch, ngời mua tự chọn không còn phải lo ngại về rủi ro tín
dụng của ngời viết. Điều này làm cho tự chọn trở nên hấp dẫn hơn đối với công
chúng.
3.1. Quyền tự chọn mua
Quyền tự chọn mua (call option) là sự tự chọn để mua một tài sản theo một
giá cố định - gọi là giá ớc định, tự chọn mua phổ biến đối với nhiều loại hình tài
sản hàng hoá khác nhau, đặc biệt đối với các sản phẩm nông nghiệp lại càng có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Quyền tự chọn mua có thể phân làm hai loại là mua
quyền tự chọn mua và mua quyền tự chọn bán. Mua quyền tự chọn mua xảy ra
12
trong tình huống ngời mua giả sử là một nhà sản xuất lo sợ rằng giá cả của một
mặt hàng nào đó nh nguyên vật liệu chẳng hạn sẽ tăng lên trong tơng lai, điều đó
sẽ ảnh hởng đối với việc sản xuất, cho nên nhà sản xuất sẵn sàng bỏ ra một số tiền
(tiền cợc) để ấn định giá nguyên vật liệu đầu vào trong tơng lai. Khác với việc
mua quyền tự chọn mua, mua quyền tự chọn bán xảy ra trong tình huống ngợc
lại. Giả sử rằng nhà sản xuất lo sợ sản phẩm của mình khi bán ra thị trờng trong t-
ơng lai giá giảm xuống và sẽ bị thua lỗ hoặc khó tiêu thụ, nên họ sẵn sàng mua
quyền tự chọn bán để bảo hiểm cho việc tiêu thụ sản phẩm của mình sau này.
3.2. Quyền tự chọn bán.
Đó là tự chọn bán một tài sản, chẳng hạn chứng khoán hay một lợng nông
sản nào đó trong tơng lai. Tơng tự nh quyền tự chọn mua, quyền tự chọn bán cũng
phân ra làm hai loại là bán quyền tự chọn mua và bán quyền tự chọn bán. Đây là
vị thế ngợc lại với quyền tự chọn mua mà chúng ta đã biết. Hiện nay hầu hết các
hành động mua và bán đợc mô tả trên đây đều diễn ra tại sàn (khung trờng) giao
dịch của sở giao dịch tự chọn.


Về phơng thức thực hiện mua bán quyền tự chọn từ trớc đến nay có 3 loại
là phơng thức Châu Âu, phơng thức Châu Mỹ và phơng thức Châu á. Phơng thức
Châu Âu và phơng thức Châu Mỹ thì việc hình thành giá cả tơng đối giống nhau,
chỉ khác nhau ở chỗ là đối với phơng thức Châu Âu thì đến ngày cuối cùng của kỳ
hạn quyền tự chọn mới đề xuất ra yêu cầu chuyển hàng (Trong trờng hợp nếu ng-
ời mua quyền tự chọn đã bán quyền này cho đối tợng khác thì yêu cầu đến hạn
mới chuyển cho đối tợng đó). Còn đối với phơng thức Mỹ thì bất kỳ ngày nào
trong thời gian hạn định cũng đều có thể yêu cầu bên bán chuyển hàng cho đối t-
ợng mà mình chỉ định. Điểm khác nhau giữa phơng thức Châu á và hai phơng
thức trên là giá cả đợc hình thành trên cơ sở lấy giá bình quân của khoảng thời
gian hạn định mà kết toán. Trong thực tế hiện nay ngời ta đều theo phơng thức
Mỹ để thực hiện giao dịch quyền tự chọn.
Những nội dung đã đợc trình bày trên đây giúp chúng ta có khái niệm ban
đầu về giao dịch triển hạn và kỳ hạn và tự chọn, về một loại hình thị trờng mà ở
đó ngời ta chỉ mua bán, trao đổi các hợp đồng về hàng hoá. Sau khi các hợp đồng
đợc ký kết, thoả thuận mỗi bên của hợp đồng có nghĩa vụ chuẩn bị thực hiện nội
dung cam kết của hợp đồng vào một ngày đã dự định trong tơng lai. Toàn bộ các
hình thức mua bán theo khái niệm đã trình bày gọi là mua bán giao sau. Thị tr-
ờng- nơi diễn ra các hành động mua bán nh vậy gọi là thị trờng giao sau. Các hợp
đồng, kể cả hợp đồng triển hạn lẫn hợp đồng kỳ hạn và tự chọn đều đợc gọi là
hợp đồng hàng hoá giao sau.
4. Khái niệm về thị trờng hàng hoá giao sau
13
Thị trờng hàng hoá giao sau là nơi chốn để tiến hành giao dịch, ký kết các
hợp đồng về hàng hoá. Việc giao hàng và nhận tiền đợc diễn ra vào một ngày ấn
định trong tơng lai.
Một trong những đặc trng của giao dịch hàng hoá giao sau là phải có hợp
đồng. Hợp đồng hàng hoá giao sau có thể là một hợp đồng triển hạn, một hợp
đồng kỳ hạn hoặc quyền tự chọn. Hợp đồng hàng hoá giao sau là một thoả thuận
mang tính pháp lý giữa ngời mua và ngời bán, trong đó yêu cầu ngời bán- bên bán

( short) giao hàng cho ngời mua- bên mua (long) một số lợng và phẩm cấp quy
định về một loại hàng hoá với giá cả đã đợc thoả thuận và thời gian giao hàng đợc
ấn định vào một thời điểm ấn định trong tơng lai. Hợp đồng hàng hoá giao sau là
một cơ sở pháp lý ràng buộc các bên của hợp đồng. Mục đích của sự cam kết về
nghĩa vụ thực hiện hợp đồng là yếu tố cơ bản nhất nhằm duy trì sự ổn định và trật
tự của các hoạt động giao dịch trên thị trờng hàng hoá giao sau.
Vì thị trờng hàng hoá giao sau là thị trờng mua bán và ký kết các hợp đồng
cho nên để có thể duy trì sự ổn định của thị trờng việc mua bán ký kết các hợp
đồng phải đợc diễn ra ở những nơi quy định có tổ chức của thị trờng và đợc gọi là
các sở giao dịch hàng hoá giao sau. Sở giao dịch hàng hoá giao sau nh sở giao
dịch hàng hoá kỳ hạn, sở giao dịch hàng hoá tự chọn... là các trung tâm giao dịch
của thị trờng hàng hoá giao sau. Cùng với những giao dịch đợc tiến hành tại sở
còn có các giao dịch khác ngoài sở mà chủ yếu là những giao dịch triển hạn. Các
giao dịch cả trong sở lẫn ngoài sở tạo thành một thị trờng nhộn nhịp và sôi động.
Giữ vai trò quan trọng trong việc giải quyết đợc các ách tắc trong quá trình lu
thông hàng hoá, góp phần tích cực cho việc phát triển của nền kinh tế.
Một trong những chỉ tiêu để đánh giá sự hoạt động của một sở giao dịch là
khối lợng hợp đồng đợc ký kết, mua bán tại sở giao dịch đó. Khối lợng hợp đồng
đợc mua bán phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác nhau nh phơng thức tổ chức
vận hành của sở, địa điểm và trang thiết bị kỹ thuật... những yếu tố khác vô cùng
quan trọng ảnh hởng đến khối lợng giao dịch của sở là loại hình hàng hoá đợc đa
vào giao dịch tại sở. Hiện nay có một số sở giao dịch sử dụng chỉ để giao dịch
một nhóm hàng cụ thể nh nông sản, năng lợng, kim loại, ngoại tệ...,nhng cũng có
một số sở giao dịch tiến hành đồng thời các giao dịch đối với một số nhóm hàng
(vừa giao dịch nông sản vừa giao dịch kim loại vv...). Hơn nữa, hình thức giao
dịch cũng đa dạng phong phú, có thể chỉ tiến hành một hình thức duy nhất là giao
dịch kỳ hạn hoặc tự chọn, cũng có thể tiến hành đồng thời cả hai hình thức giao
dịch trên nhng tại các phiên giao dịch khác nhau.
Bảng 1.1. Nhóm hàng hoá kỳ hạn ở Hoa Kỳ
Nhóm hàng

Loại hàng
14
Ngũ cốc Ngô
Mạch
Gạo
Lúa mì
Dầu và thức ăn Tổng hợp đậu tơng
Gia súc Hàng hóa thịt lợn
Hàng hoá thịt bò
Năng lợng Dầu đốt
Xăng
Dầu thô
Khí prôpan
Kim khí Vàng
bạc và đồng bạc
Platin
Pladi
Đồng
Nhôm
Lâm sản Gỗ cây
Hàng dệt Bông
Kén
Thực phẩm Cà phê
Nớc cam vắt
Khoai tây
Đờng
Dầu ngô
Nguồn: Hiệp hội công nghiệp kỳ hạn Hoa Kỳ
Khách hàng trong thị trờng hàng hoá giao sau cũng rất phong phú và đa
dạng bao gồm các nhà sản xuất nh các chủ trang trại, các nhà chế biến nông sản,

các thơng gia hàng hoá mua đi bán lại hoặc mua để xuất khẩu, các ngân hàng và
các tổng công ty. Tất cả những ngời này có thể gián tiếp thông qua trung gian
hoặc trực tiếp đến các sở giao dịch với các mục đích khác nhau nh đầu cơ, tự bảo
hiểm, kinh doanh...Do có các nhà đầu cơ chuyên nghiệp, nên thị trờng hàng hoá
giao sau cho phép ngời nông dân thông qua các trung gian hoa hồng có thể
chuyển rủi ro về giá sang các nhà đầu cơ chuyên nghiệp. Quá trình này đã góp
phần san sẽ mọi rủi ro do thị trờng gây ra mà tong thực tế ngời nông dân thờng
phải gánh chịu cho toàn xã hội.
5. Hợp đồng trong thị trờng hàng hoá giao sau
5.1. Hợp đồng triển hạn và kỳ hạn
15
Nhìn chung, hợp đồng triển hạn rất giống hợp đồng kỳ hạn. Những điều
khoản ký kết, nghĩa vụ của ngời mua, ngời bán của hợp đồng triển hạn tơng tự với
các điều tơng ứng trong hợp đồng kỳ hạn. Sự khác biệt cơ bản là hợp đồng kỳ hạn
chỉ đợc mua bán tại Sở giao dịch có tổ chức, trong khi hợp đồng triển hạn đợc
mua bán ở ngoài Sở giao dịch, sự khác biệt này rất quan trọng vì nó thay đổi bản
chất nghĩa vụ và rủi ro của các bên ký kết. Cụ thể hơn, một ngời mua hợp đồng
triển hạn có nghĩa vụ mua một thứ hàng cụ thể vào một ngày nào đó trong tơng lai
theo giá thoả thuận khi anh ta tham gia hợp đồng, còn ngời bán có nghĩa vụ bán
hoặc giao một thứ hàng cụ thể theo giá thoả thuận của hợp đồng. Tuy nhiên số l-
ợng và chất lợng hàng đợc giao phù hợp với hợp đồng triển hạn thờng không đợc
tiêu chuẩn hoá, nhng lại đợc thoả thuận giữa các bên ở thời điểm ký hợp đồng.
Tình hình này tạo cho hợp đồng triển hạn mức độ linh hoạt nhất định mà hợp
đồng kỳ hạn không có. Các thoả thuận trong hợp đồng triển hạn có thể điều chỉnh
chính xác theo yêu cầu của các bên, các bên cũng có thể thoả thuận về những yêu
cầu giao hàng và thủ tục cụ thể phù hợp nhất với nhu cầu của họ. Tuy nhiên
những điều khoản của hợp đồng triển hạn cũng có thể đợc tiêu chuẩn hoá theo
cách giống hoàn toàn nh hợp đồng kỳ hạn.
Lý do chính mà những ngời kinh doanh lớn thờng tham gia thị trờng triển
hạn là tất cả hợp đồng triển hạn đòi hỏi sự đảm bảo khả năng tín dụng lớn đối với

các bên ký kết. Rủi ro mà một trong những bên tham gia không thực hiện nghĩa
vụ giao hoặc nhận hàng làm cho bên kia có thể phải chịu thua lỗ lớn. Để giảm
thiểu rủi ro này, các bên ký kết thờng chỉ mua bán với những ai có khả năng tín
dụng lớn, nh các ngân hàng và tập đoàn lớn.
Khác với thị trờng triển hạn, các bên tham gia vào thị trờng kỳ hạn không
cần phải có yêu cầu về việc xác nhận khả năng tín dụng lớn vì có vai trò của hiệp
hội giao hoán trong thị trờng kỳ hạn. Cho nên, thông thờng những ngời tham gia
thị trờng kỳ hạn là những nhà kinh doanh nhỏ hơn so với thị trờng triển hạn. Song
cũng cần lu ý rằng một nhà kinh doanh đồng thời vừa tham gia thị trờng triển hạn
vừa có thể tham gia vào thị trờng kỳ hạn. Ví dụ những ngân hàng lớn đều tham
gia hai thị trờng triển hạn và kỳ hạn về ngoại tệ, vì vậy trong thực tế những thị tr-
ờng này đều liên quan mật thiết với nhau, liên kết với nhau bởi sự trao đổi của các
thơng nhân thuộc hai thị trờng. Việc nêu lên các khái niệm về triển hạn và kỳ hạn
chỉ mang tính chất lý thuyết, trên thực tế các giao dịch này thờng kết hợp và bổ
sung cho nhau.
Các hợp đồng kỳ hạn là các hợp đồng có bảo hiểm cho nên chúng đợc dùng
vào nhiều mục đích khác nhau. Bên cạnh vai trò rõ rệt là tạo điều kiện thuận lợi
cho việc trao đổi hàng hoá, hợp đồng kỳ hạn chủ yếu là hợp đồng bảo hiểm cơ
bản, để chống lại những bất ổn định trên thị trờng giao ngay. Do sự hoạt động có
tổ chức nên thị trờng kỳ hạn trong nhiều trờng hợp tạo điều kiện vô cùng thuận lợi
cho thị trờng giao ngay, nhiều hợp đồng kỳ hạn thờng đợc dùng thay thế cho các
doanh vụ giao ngay. Hợp đồng kỳ hạn hàng hoá cũng có ích cho ngời không mua
16
bán chúng, vì giá cả kỳ hạn là chỉ số có sẵn công khai là yếu tố quan trọng để có
thể xác định quan hệ cung cầu về một mặt hàng nào đó trong tơng lai.
5.2. Hợp đồng tự chọn (lựa chọn)
Một hợp đồng tự chọn, khác với hợp đồng kỳ hạn ở chỗ chỉ đặt nghĩa vụ
duy nhất vào một bên. Hợp đồng này chỉ có lợi cho một bên (bên mua) quyền,
chứ không có nghĩa vụ bắt buộc phải mua hay bán một số lợng và chất lợng, giá
cả quy định của loại hàng hoá (hay tài sản) đã nêu tại một thời điểm trong tơng

lai. Nếu ngời mua lựa chọn thực hiện quyền này, thì ngời bán của hợp đồng lựa
chọn có nghĩa vụ thi hành - tức là hoặc mua hoặc bán hàng theo hợp đồng.
Khi ngời mua (hay ngời nắm giữ) quyền lựa chọn thực hiện quyền này,
hoặc đề ra quyền này, thì anh ta trả (hoặc nhận) theo giá đã thoả thuận và tiếp
nhận hàng (call option- quyền chọn mua) hoặc giao hàng và tiếp nhận thanh toán
(quyền chọn bán). Ngợc lại, ngời bán của hợp đồng lựa chọn (hoặc ngời viết - the
writer) có nghĩa vụ thực hiện giao hoặc tiếp nhận giao tuỳ thuộc vào anh ta viết
bán hay mua. Trong cả hai trờng hợp, ngời viết của hợp đồng lựa chọn không có
quyền quyết định hoặc không thực thi sự lựa chọn. Quyền quyết định duy nhất chỉ
thuộc về một bên duy nhất là ngời mua của hợp đồng lựa chọn.
Để thực hiện quyền này, ngời mua trả một khoản phí một lần và không
hoàn lại (gọi là premium- tiền cợc) cho ngời viết lựa chọn. Sau khi trả tiền cợc,
ngời mua không có trách nhiệm thanh toán thêm khoản nào về vị thế lựa chọn của
mình. Ngợc lại, ngời viết tự chọn bị ràng buộc vào vô số trách nhiệm: giá của
hàng hoá liên quan có thể thay đổi nhiều giữa thời gian anh ta viết (bán) hợp đồng
lựa chọn với thời gian ngời mua nắm giữ quyền lựa chọn. Ngời viết phải sẵn sàng
giao hoặc tiếp nhận theo thời gian thoả thuận, mặc dù giá thị trờng có thể thay
đổi.
Mua bán lựa chọn thuộc hình thức mua bán giao sau theo đầy đủ các tính
chất của nó. Nếu ngời sản xuất ngũ cốc không mua một hợp đồng kỳ hạn hoặc
triển hạn thì anh ta có thể mua một hợp đồng tự chọn và tất nhiên anh ta phải trả
một khoản tiền gọi là tiền cợc. Đến kỳ hạn nếu giá cả trên thị trờng giao ngay cao
hơn giá cố định trong hợp đồng thì anh ta có quyền huỷ hợp đồng và tự do bán
ngũ cốc của mình trên thị trờng. Ngợc lại nếu giá thực tế trên thị trờng vào lúc
thực hiện hợp đồng tụt xuống thấp hơn giá ghi trong hợp đồng thì anh ta có thể
bán số ngũ cốc đó theo hợp đồng với ngời đã bán hợp đồng tự chọn. Trờng hợp t-
ơng tự cũng đợc áp dụng đối với ngời mua ngũ cốc, tuy nhiên vị thế của ngời bán
và vị thế của ngời mua luôn luôn đối lập nhau (quyền lợi ngợc lại với nhau).
Tơng tự nh thị trờng kỳ hạn trên thị trờng tự chọn việc mua bán đợc diễn ra
tại một nơi quy định gọi là sở giao dịch tự chọn. Trong nhiều trờng hợp, sở giao

dịch tự chọn có chức năng gần giống nh chức năng của một công ty bảo hiểm về
17
giá cả. Tuy nhiên, cùng với thị trờng triển hạn và thị trờng kỳ hạn, thị trờng tự
chọn có vai trò to lớn trong việc ổn định giá cả đối với mọi hàng hoá và đặc biệt
quan trọng đối với các nông sản và khoáng sản, là những loại hàng hoá thờng có
sự biến đổi thất thờng về giá cả. Mặc dù có một số điểm khác nhau giữa các loại
hình giao dịch triển hạn, kỳ hạn và tự chọn nhng nhìn chung giữa chúng có một
nội dung cơ bản thống nhất với nhau, đó là việc tham gia ký kết mua bán các hợp
đồng, mà bao giờ cũng bao gồm việc giao hàng và nhận tiền vào một ngày trong
tơng lai. Những năm gần đây đã xuất hiện một số công cụ gọi là thị trờng phái
sinh lai ghép, phối hợp việc mua bán kỳ hạn, triển hạn và tự chọn.
6. Thị trờng ngoài Sở giao dịch
Do có những u thế nhất định nên song song với việc mua bán diễn ra tại
các Sở giao dịch , còn có các hành động mua bán diễn ra ngoài phạm vi của Sở
giao dịch và gọi là thị trờng ngoài Sở giao dịch (phi tập trung).
6.1. Tự chọn ngoài sở
Ưu thế đầu tiên của tự chọn ngoài sở giao dịch là có thể điều chỉnh lợi ích
theo yêu cầu cụ thể của hai bên. Chẳng hạn, một Giám đốc của Quỹ hu trí muốn
bảo hộ lợi ích của ngân khoản đầu t của mình chống lại xu hớng giảm sút ở trị tr-
ờng. Việc mua tự chọn, trong đó ngời sở hữu đầu t có thể mua quyền bán tự chọn
bán cho ngời viết theo giá trị nhất định, vào một ngày nhất định đảm bảo cho viên
Giám đốc một khoản thu tối thiểu. Mà rất tiếc là loại doanh vụ này không phải
luôn luôn thực hiện đợc tại Sở giao dịch tự chọn. Thứ nhất những cuộc tự chọn có
sẵn tại Sở giao dịch đều dựa trên một số chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán
nhất định. Viên giám đốc này cần một tự chọn theo ngân khoản cụ thể của mình,
có thể không khớp với chỉ số mà các cuộc tự chọn hiện có. Thứ hai, các cuộc tự
chọn ở Sở giao dịch hết hạn vào ngày tháng cụ thể không khớp với thời hạn đầu t
của viên Giám đốc. Thứ ba, dù tự chọn có sẵn, không chắc có đủ tính cơ động để
tiến hành những cuộc mua bán lớn cần có để bảo hộ toàn bộ ngân khoản. Tại thị
trờng ngoài Sở giao dịch, viên Giám đốc có thể qui định các chứng khoán mà

cuộc tự chọn có thể bán và thời gian có thể thực hiện. Tuy những doanh vụ lớn
khác thờng đòi hỏi thời gian thu xếp, song hầu hết các Giám đốc Quĩ hu trí đều
thực hiện đợc các doanh vụ theo ý muốn.
Lợi thế thứ hai là thị trờng ngoài Sở giao dịch là một thị trờng t nhân trong
đó không có công chúng hoặc nhà đầu t khác, kể cả những ngời cạnh tranh và đặc
biệt là sự giám sát của các nhà chức trách. Vì vậy ngời tham gia giao dịch chỉ cần
biết rằng doanh vụ có hoàn thành hay không? hay cụ thể là đối tác của mình có
thực hiện cam kết hay không? Điều đó không có nghiã là những doanh vụ ấy bất
chấp luật pháp hoặc mờ ám mà nhiều khi đối tác bỏ lở hợp đồng vì các lý do
chính đáng. Tại Sở giao dịch tự chọn, một đơn hàng lớn để mua tự chọn có thể
18
làm cho thị trờng tiến triển chuệch choạc vì có sự lo ngại về thông tin và mọi cản
trở có thể xuất hiện.
Một u thế khác là mua bán ngoài Sở giao dịch không bị ràng buộc vào các
qui định mặc dù các qui tắc ở đây là sự lơng thiện và lịch sự phổ biến trong kinh
doanh. Môi trờng tự chọn ngoài Sở không bị ràng buộc rộng rãi vào các qui định
có nghĩa là không cần có sự phê duyệt cuả Chính phủ khi chào các loại hình tự
chọn mới. Các hợp đồng chỉ cần các bên tạo ra để cùng có lợi ích chung trong
công việc kinh doanh với nhau. Hơn nữa, ở đây không có những chi phí tốn kém
và bị hạn chế bỡi các ràng buộc liên quan.
Những lợi thế trên cũng cha đủ để nói rằng thị trờng ngoài Sở giao dịch là
u việt, trong thực tế thơng trờng có rất nhiều điều bất lợi trong mua bán ngoài Sở
giao dịch, điều đầu tiên là có rủi ro tín dụng, nó loại trừ nhiều khách hàng không
thể thiết lập khả năng tín dụng thích đáng trong thị trờng này. Ngoài vấn đề rủi ro
tín dụng, các doanh vụ trong thị trờng tự chọn ngoài Sở giao dịch phần lớn do các
nhà đầu t lớn đảm nhiệm, chứ không có sức hấp dẫn đối với công chúng.
Giao dịch ngoài Sở không chỉ diễn ra đối với hình thức mua bán tự chọn
mà còn diễn ra đối với các hình mua bán khác nh mua bán triển hạn .
6.2. Triển hạn
Giống nh thị trờng tự chọn ngoài sở giao dịch, thị trờng triển hạn cũng th-

ờng do các tổ chức lớn thống lĩnh, nh là ngân hàng và tổng công ty. hình ảnh một
ngời giao dịch trên thị trờng triển hạn tiêu biểu là một cá nhân ngồi cạnh bàn có
điện thoại và máy tính. Sử dụng máy tính hoặc điện thoại, ngời giao dịch tìm hiểu
giá hiện hành trên thị trờng để thoả thuận giá với ngời khác ở hãng khác. Ngời
giao dịch có thể đại diện cho hãng của mình hoặc có thể thực hiện một giao dịch
cho khách hàng. Giao dịch này có thể là một nghiệp vụ đối xung, sai biệt, hoặc
mua bán trao tay. Quả thực, chính hàng nghìn ngời giao dịch bên ngoài Sở giao
dịch thực hiện các giao dịch mua bán trao tay nhiều khi đóng vai trò cốt tử trong
việc đem lại hiệu quả cho thị trờng.
Một điều cần phải đề cập tới là trong thực tế thị trờng triển hạn và kỳ hạn
thờng có mối liên hệ mất thiết với nhau và bổ sung cho nhau. Xét về mặt chính
thức, hợp đồng triển hạn không thể đảo nghịch đợc bởi hợp đồng kỳ hạn. Tuy
nhiên phổ biến là ngời giao dịch sẽ thực hiện một hợp đồng triển hạn rồi sau đó
ngay lập tức thực hiện một hợp đồng kỳ hạn để đối xung hoặc bù trừ các rủi ro
của thị trờng triển hạn. Vấn đề tại sao ngời giao dịch có thể làm nh vậy là một vấn
đề tơng đối phức tạp mà chúng ta sẽ nghiên cứu sau khi đề cập tới mối quan hệ
giữa các loại giá trên thị trờng hàng hoá giao sau.
19
Nh vậy cả mua bán tự chọn và triển hạn đều có thể đợc tiến hành ngoài sở
giao dịch. Một trong những lý do để các giao dịch này tồn tại là tính linh động
của nó. Tuy nhiên thị trờng ngoài sở giao dịch không thể tồn tại nếu không có thị
trờng giao dịch có tổ chức- tức là các sở giao dịch. Sở giao dịch cho phép các nhà
kinh doanh trên thị trờng này có thể tiến hành các giao dịch bù trừ với các vị thế
ngoài sở giao dịch, nhằm hạn chế những rủi ro có thể xảy ra. Và cuối cùng, một
điều không kém phần quan trọng là các giao dịch ngoài Sở gây khó khăn cho
công tác quản lý nhà nớc cũng nh thống kê thơng mại.
Sơ đồ 1. Sơ đồ tổng quát của thị trờng hàng hoá giao sau
II. thị trờng hàng hoá giao sau có tổ chức
1. Thị trờng hàng hoá kỳ hạn có tổ chức
Chúng ta đã biết rằng thị trờng kỳ hạn hàng hoá chính là sự phát triển ở

trình độ cao của thị trờng triển hạn. Sự phát triển đó đợc thể hiện ở chỗ: thị trờng
kỳ hạn là một thị trờng có tổ chức chặt chẽ. Trong thị trờng triển hạn các hợp
đồng có thể đợc ký kết giữa ngời mua và ngời bán với nhau hoặc qua ngời trung
gian, còn trong giao dịch hàng hoá kỳ hạn các hợp đồng đợc mua bán hoặc ký kết
chỉ qua một địa điểm duy nhất đó là sở giao dịch hàng hoá kỳ hạn. Sở có chức
năng đảm nhận thủ tục giấy tờ riêng biệt cho phép nhiều bên có thể tham gia mua
bán một cách có hiệu quả các hợp đồng.
Trong mỗi sở giao dịch hàng hoá kỳ hạn đều có hãng giao hoán (clearing
house) đứng đằng sau các hợp đồng đợc mua bán tại sở, có khả năng giải phóng
mỗi bên khỏi các rủi ro khi bên kia không thực hiện nghĩa vụ (vi sai).
Mức độ sai phạm của từng bên tham gia hợp đồng giảm xuống nhờ có tài
khoản ký gửi gọi là tiền bảo chứng (Marjin) một dạng trái khoán thi hành thờng
20
Thị trờng
hàng hoá
giao sau
Giao dịch
ngoài sở
Giao dịch
trong sở
Giao dịch
tự chọn
Giao dịch
triển hạn
Giao dịch
tự chọn
Giao dịch
kỳ hạn
Thị trờng
lai ghép

xuyên điều chỉnh mức lỗ lãi theo một công thức quy định. Thủ tục điều chỉnh tiền
bảo chứng này gọi là tái quyết toán hàng ngày.
Để thị trờng kỳ hạn hoạt động một cách có tổ chức và đạt hiệu quả kinh tế
cao, thông thờng có các bộ phận chức năng trực thuộc hoặc liên quan nh: Sở giao
dịch, Tổ chức thơng gia hoa hồng kỳ hạn (FCM) và Sở (Hãng, Công ty) giao
hoán. Toàn bộ các hoạt động này đợc đặt dới sự quản lý chung của Uỷ ban hàng
hoá kỳ hạn (CFTC), đó là cơ quan quản lý nhà nớc cao nhất về hoạt động kỳ hạn.
Song song với (CFTC) còn có các tổ chức và Hiệp hội ngành nghề khác. Sau đây
chúng ta lần lợt tìm hiểu các bộ phận chức năng quan trọng nói trên của một thị
trờng hàng hoá kỳ hạn có tổ chức.
1.1. Sở giao dịch (trung tâm giao dịch)
Sở Giao dịch có lẽ là bộ phận quan trọng nhất của thị trờng kỳ hạn và là
điểm phân biệt nó với thị trờng triển hạn. Sở Giao dịch kỳ hạn có thể là một tổ
chức pháp nhân gồm nhiều thành viên. Mặc dầu một số Sở Giao dịch chấp nhận
các thành viên pháp nhân nhng hầu hết các thành viên là cá nhân nh ở Mỹ và một
số nớc khác trên thế giới. Các thành viên bầu ra một Ban giám đốc, Ban giám đốc
đến lợt mình bầu các cá nhân chịu trách nhiệm quản lý và điều hành Sở Giao
dịch. Sở Giao dịch có một bộ máy điều hành gồm cán bộ, nhân viên và các phòng
ban, Sở Giao dịch lập ra các quy tắc cho thành viên của mình và có thể áp dụng
các hình thức thởng phạt đối với những ngời vi phạm. Nh vậy một sở giao dịch đ-
ợc tổ chức gần giống nh một công ty, hình thức sở hữu của một sở giao dịch cũng
nh một công ty phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nớc.
1.1.1 Chức năng của Sở giao dịch
Các đơn đặt hàng của khách hàng sau khi đợc chấp thuận sẽ đợc biến thành
các lệnh. Để thi hành lệnh của khách hàng, FCM phải chuyển lệnh đó đến một sở
giao dịch (hay thị trờng hợp đồng), tại đây các hợp đồng kỳ hạn cụ thể đợc mua
bán một cách công khai theo các nguyên tắc đã định .
Sở giao dịch thực hiện 3 chức năng:
1. Cung cấp và duy trì một nơi mua bán cụ thể (thờng gọi là Sàn hay Khung
trờng giao dịch), tại đây hợp đồng kỳ hạn đợc các thành viên của sở mua và bán;

2. Giám sát và thực thi những tiêu chuẩn đạo đức và tài chính đối với những
thơng gia kỳ hạn mua bán tại Sở;
3. Khuyến khích thành viên quan tâm đến lợi ích kinh doanh. Bản thân Sở
không tham gia vào việc mua bán kỳ hạn, mà chỉ cung cấp những tiện nghi cho
ngời khác làm việc đó.
21
Sở giao dịch thờng là tổ chức thành viên mà hội viên của họ có thể là cá
nhân hay tổ chức kinh doanh. Quyền hội viên giới hạn vào một số lợng chỗ qui
định, phải là hội viên mới đợc tiến hành mua bán tại sàn giao dịch. Hơn nữa, phải
thoả thuận chấp hành các qui định của Sở, hội viên mới có quyền mua bán tại
khung trờng của Sở giao dịch. Trong thực tế, một ngời muốn tham gia giao dịch
có thể thuê hoặc mua lại chỗ của một hội viên của sở.
Có 2 lý do cơ bản để mua một chỗ tại Sở giao dịch: Thứ nhất: để tham gia
vào hoạt động mua bán ở khung trờng mà không phải trả lệ phí cho FCM. Ví dụ,
một công ty thơng mại lớn có một khối lợng tự bảo hiểm lớn có thể coi chỗ đó nh
là chi phí có hiệu quả để giao dịch, bằng cách làm đó có thể tránh đợc lệ phí hoa
hồng cao.
Thứ hai: là tiền lãi do việc (thu phí) kinh doanh của sở mang lại. Thông th-
ờng, trị giá quyền hội viên của Sở tăng theo khối lợng của các hợp đồng đợc mua
bán. Vì vậy Sở giao dịch sẽ may mắn khi khởi sự mua bán các hợp đồng kỳ hạn
có nhiều ngời đầu cơ và tự bảo hiểm mong muốn tham gia và giá chỗ sẽ tăng theo
khối lợng mua bán. Dĩ nhiên, nếu Sở giao dịch giảm khối lợng của các hợp đồng
đợc mua bán, thì giá chỗ sẽ xuống theo và tất nhiên số tiền lãi thu đợc cũng giảm
theo.
1.1.2 Các trách nhiệm khác của Sở giao dịch:
Sở Giao dịch cũng quy định rằng các thành viên phải thực hiện trách nhiệm
tài chính tối thiểu. Ngoài ra, Sở giao dịch có thể xác lập giới hạn số lợng, quy mô
của một hợp đồng. Giới hạn số lợng hợp đồng mà một khách hàng có thể nắm giữ.
Giống nh trên thị trờng mua bán giao ngay, hạn chế số lợng hàng hoá mà một nhà
buôn riêng lẻ có thể sở hữu. Sở Giao dịch xác lập các quy tắc, điều lệ điều chỉnh

các hoạt động của sàn giao dịch và duy trì một bộ phận chịu trách nhiệm theo dõi
các phiên giao dịch để xác định xem liệu có ai đang tìm cách lũng đoạn thị trờng
hay không? Trong một số trờng hợp ngoại lệ, Sở Giao dịch có thể bỏ phiếu ngừng
giao dịch nếu xảy ra những sự kiện bất bình thờng.
1.2. Sở giao hoán
Mỗi một Sở giao dịch kỳ hạn bất kỳ đều có một Sở giao hoán kèm theo để
thanh toán mọi doanh vụ ở Sở giao dịch. Sở giao hoán có thể là một tổ chức thuộc
Sở giao dịch hoặc là một thể nhân hoàn toàn độc lập.
1.2.1 Chức năng của sở giao hoán
22
Sở giao hoán với t cách là một ngời trung gian và ngời bảo lãnh cho mọi
giao dịch. Rõ ràng là đối với mỗi giao dịch sẽ có cả ngời mua, thờng đợc gọi là
ngời đầu cơ giá lên và ngời bán đợc gọi là ngời đầu cơ giá xuống. Nếu không có
Sở giao hoán, mỗi bên sẽ phải chịu trách nhiệm trớc bên kia. Nếu một bên không
giữ cam kết, bên kia khiếu nại thì khiếu nại cũng chẳng có giá trị. Sở giao hoán
nhận vai trò một ngời trung gian cho mỗi giao dịch. Sở đảm bảo với ngời mua là
ngời bán sẽ thực hiện cam kết và cũng đảm bảo với ngời bán là ngời mua sẽ thực
hiện cam kết. Trên thị trờng kỳ hạn có tổ chức, tất cả các bên trong giao dịch kỳ
hạn phải mở một tài khoản tại một hãng giao hoán hoặc tại một hãng có tài khoản
tại hãng giao hoán. Các tài khoản tài chính của hãng giao hoán lu giữ số liệu riêng
về hợp đồng mà nó sở hữu.
Trớc hết, cán bộ của Sở giao dịch gửi báo cáo hàng ngày đến Sở giao hoán
liên quan, bao gồm chi tiết của toàn bộ mua bán kỳ hạn đã thực hiện trong ngày;
sau đó Sở giao hoán chắp nối ( bán với mua) để tạo nên một sự đối chiếu hàng
ngày. Sau khi làm việc đó, Sở giao hoán chấp nhận việc mua bán và thay thế hợp
pháp cả ngời mua lẫn ngời bán trong việc mua bán hợp đồng.
Chức năng thứ hai là giám sát theo dõi việc mua và bán hợp đồng kỳ hạn
thông qua việc thu tiền và trả tiền hàng ngày giữa các quỹ cho các bên tham gia
hợp đồng kỳ hạn (bên mua và bên bán). Hàng ngày Sở giao hoán đa vào máy vi
tính lãi lỗ ròng của mỗi vị thế kỳ hạn (cả tài khoản của khách hàng lẫn nghiệp

chủ) tuỳ theo sự biến động giá trong ngày. Sau đó Sở thu thập số tiền lỗ ròng của
các hội viên bị lỗ và trả cho các hội viên có lãi ròng trong ngày.
Sở giao hoán còn thực thi những chức năng quan trọng khác đối với thị tr-
ờng kỳ hạn. Vì tầm quan trọng cốt tử của Sở này, tiếp theo chúng ta sẽ bàn tỷ mỷ
đến các vai trò và chức năng của sở giao hoán về thanh khoản hàng ngày.
Sơ đồ 2. Một giao dịch tại Sở Giao dịch kỳ hạn

1a 2a 2b 1b
6b
6a 5a 5b
7a 7b

8a (4)
9a 9b

23
Ng-
ờimua
Trung
gian
của ng.
mua
Trung gian
hoa hồng
của trung
gian ngời
mua
Sở giao
dịch kỳ
hạn

(3)
Trung gian
hoa hồng
của trung
gian của
ngời bán
Trung
gian
của ng-
ời bán
Ngời
bán
Hãng giao
hoán trung
gian của
ngời mua
Sở giao
hoán kỳ hạn
Hãng giao
hoán trung
gian của ngời
bán
(1a) (1b) Ngời mua và ngời bán chỉ thị cho trung gian tiến hành 1 giao
dịch kỳ hạn
(2a) (2b) Trung gian của ngời mua và ngời bán yêu cầu trung gian hoa
hồng của hãng của họ thực hiện giao dịch
(3) Cả hai trung gian hoa hồng gặp nhau tại sàn giao dịch và thoả
thuận 1 giá
(4) Thông tin của giao dịch đợc báo cáo về Sở giao hoán
(5a) (5b) Cả hai trung gian hoa hồng báo cáo giá đạt đợc cho trung gian của

ngời mua và ngời bán
(6a) (6b) Trung gian của ngời mua và ngời bán báo cáo giá đạt đợc cho
ngời mua và ngời bán
(7a) (7b) Ngời mua và ngời bán trả trớc phần thanh toán tiền mặt cho
trung gian
(8a) (8b) Trung gian của ngời mua và ngời bán nộp phần thanh toán tiền
mặt cho hãng giao hoán của họ
(9a) (9b) Hãng giao hoán của trung gian của ngời mua và ngời bán nộp phần
thanh toán tiền mặt cho Sở giao hoán hoặc ngời mua hoặc ngời bán
hoặc cả 2 có thể là ngời giao dịch tại phòng giao dịch, loại bỏ khâu
trung gian và trung gian hoa hồng
1.2.2 Thanh khoản hàng ngày
Một cách để giúp Sở giao hoán thực hiện vai trò của mình là sử dụng phần
thanh toán tiền mặt và việc thanh khoản hàng ngày các tài khoản của khách hàng.
Đối với mỗi hợp đồng cả hai bên (mua và bán) đều phải nộp cả phần tiền mặt ban
đầu là khoản tiền phải nộp vào trớc ngày bắt đầu giao dịch (tiền bảo chứng ban
đầu), lẫn phần tiền mặt duy trì là khoản tiền phải duy trì hàng ngày trong khoảng
thời gian cha chấm dứt nghĩa vụ (tiền bảo chứng duy trì). Trong giao dịch sai biệt
và đối xung cũng có thanh toán tiền mặt ban đầu và thanh toán tiền mặt duy trì,
các khoản tiền này thờng thấp hơn trong các giao dịch đầu cơ thuần tuý.
Việc nộp phần thanh toán tiền mặt không hoàn toàn giống nh phần thanh
toán tiền mặt trong giao dịch cổ phiếu. Trong giao dịch cổ phiếu, ngời đầu cơ
đóng phần thanh toán tiền mặt và vay phần còn lại của giá cổ phiếu từ ngời trung
gian. Trong giao dịch kỳ hạn, không những là yêu cầu về thanh toán tiền mặt thấp
hơn nhiều, mà phần còn lại cũng không đợc vay. Việc nộp phần thanh toán tiền
mặt giống khoản tiền đặt cọc bảo đảm rằng các bên buộc phải thực hiện nghĩa vụ
của mình theo hợp đồng. Thực ra một số ngời thích gọi khoản tiền này là đặt cọc
24
đảm bảo thực hiện chứ không gọi là phần thanh toán tiền mặt để cho sự phân biệt
đợc rõ ràng. Trong bất kỳ trờng hợp nào, một số nhà đầu t giao dịch lớn có thể đặt

cọc ngân phiếu Bộ Tài chính cho phần thanh toán tiền mặt, còn những ngời khác
phải trả tiền mặt. Vào cuối mỗi ngày, một Uỷ ban bao gồm cán bộ của Sở giao
hoán xác lập một giá thanh khoản. Giá này thờng là giá bình quân của một số
giao dịch cuối cùng của ngày hôm đó. Sử dụng giá thanh khoản, mỗi tài khoản đ-
ợc đánh dấu theo thị trờng. Sự chênh lệch giữa giá thanh khoản ngày hôm nay và
giá thanh khoản của ngày hôm trớc xác định số lợng tiền cần phải thanh khoản.
Tiền này đợc trừ vào các tài khoản của những ngời đang sở hữu các hợp đồng có
nghĩa là giữa ngời sở hữu các hợp đồng đầu cơ giá xuống và ngời sở hữu hợp
đồng đầu cơ giá lên (ngời mua và ngời bán).
Thanh khoản hàng ngày là một đặc điểm quan trọng của thị trờng kỳ hạn
và là sự khác biệt chính giữa thị trờng kỳ hạn và thị trờng triển hạn. Trong thị tr-
ờng triển hạn, kết quả lãi hay lỗ đợc thể hiện khi kết thúc thời hạn của hợp đồng,
khi việc giao hàng đợc thực hiện. Thị trờng kỳ hạn có ghi và khấu trừ theo thay
đổi giá cả từng ngày một. Việc này giúp đảm bảo tính toàn vẹn của thị trờng, bởi
vì những khoản thua lỗ lớn sẽ đợc thanh toán từng tí một chứ không bị tích lại để
phải thanh toán một lần cuối cùng, lúc đó ngời sở hữu hợp đồng thua lỗ có thể
không còn khả năng để trang trải các khoản thua lỗ cho phía bên kia của hợp
đồng.
Tất nhiên trong thị trờng triển hạn không có Sở giao hoán và giới hạn giá
hay thanh khoản hàng ngày, do đó có thể không yêu cầu nộp khoản thanh toán
tiền mặt, việc này phụ thuộc vào độ tin cậy của từng bên. Trong nhiều trờng hợp
sự tin cậy đợc xác lập bằng cách xuất trình th tín dụng của một ngân hàng, ngân
hàng này thực tế sẽ sẵn sàng cho vay tiền để trang trải các khoản thua lỗ.
Tổng số hợp đồng kỳ hạn cha thanh khoản tại một thời điểm bất kỳ nào đó
đợc gọi là quyền lợi mở (lợi ích ngỏ). Khái niệm này cũng giống nh trên thị trờng
tự chọn. Mỗi hợp đồng đều có cả sự đầu cơ giá lên lẫn sự đầu cơ giá xuống và đợc
tính nh là một hợp đồng quyền lợi mở.
Hầu hết các nhà giao dịch kỳ hạn không giữ các hợp đồng của mình cho
đến ngày hết hạn. Đúng hơn, họ lại tham gia vào thị trờng và thực hiện một giao
dịch bù trừ. Nói cách khác, nếu một ngời giữ một giao dịch đầu cơ giá lên đối với

một hợp đồng, anh ta có thể quyết định chỉ đơn thuần bán hợp đồng đó trên thị tr-
ờng. Sở giao hoán sẽ ghi lại đầy đủ là các giao dịch của anh ta đang đợc bù trừ.
Nếu giao dịch không bù trừ trớc tháng hết hạn, thì việc giao hàng có thể sẽ phải đ-
ợc thực hiện.
1.3. Những nhà giao dịch ở khung trờng
25

×