ĐỀ TÀI: Chế tài đối với người không trực tiếp nuôi con
để bảo vệ quyền được cấp dưỡng của con khi cha mẹ
ly hôn theo Luật HN & GĐ 2014.
LỜI NÓI ĐẦU
Gia đình là tế bào của xã hội. Chúng ta không thể xây dựng một xã hội bền vững, tốt đẹp
trên một nền tảng có những tế bào bị hỏng. Nên muốn cho xã hội tốt thì trước tiên và cốt
yếu là phải xác lập được một quan hệ vợ chồng hạnh phúc, vì đó là hạt nhân quan trọng
tạo nên tế bào. Song không phải lúc nào việc xây dựng đó cũng mang ý nghĩa trọn vẹn
như ban đầu, nếu như kết hôn là một hiện tượng xã hội bình thường thì ly hôn có thể coi
là hiện tượng bất bình thường nhưng không thể thiếu được khi cuộc sống vợ chồng rơi
vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân
không đạt được thì ly hôn chính là lối thoát cho cuộc sống không còn tình cảm của hai vợ
chồng.
Cùng với sự phát triển của xã hội, ly hôn xuất hiện ngày càng nhiều và ngày càng được
xã hội quan tâm vì những hậu quả nặng nề, không mong muốn của nó. Khi vợ chồng ly
hôn, người phải gánh chịu nhiều thiệt thòi nhất không ai khác mà là con cái. Vì hoàn
cảnh, vì những bất đồng quan điểm sống của cha mẹ mà những người con không thể cùng
một lúc nhận được sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng của cả cha và mẹ. Đáng nói hơn
nữa, có những trường hợp cha mẹ ly hôn khi con còn quá nhỏ, lẽ ra phải được yêu thương
trong một gia đình êm ấm lại phải chịu cảnh gia đình tan nát, nếu không có sự bảo vệ sẽ
rất dễ đánh mất cả tuổi thơ và tương lai.Vì vậy, vấn đề rất được xã hội quan tâm hiện nay
là bảo vệ quyền lợi của những đứa con khi cha, mẹ chúng ly hôn. Cụ thể hơn, nếu cha mẹ
có thể đạt được thỏa thuận chung cùng nuôi con, tức là các con vẫn thường xuyên nhận
được sự hỗ trợ, chăm sóc và tư vấn về những vấn đề quan trọng từ cả cha lẫn mẹ thì sẽ
giảm thiểu các tác động tiêu cực từ ly hôn tới con cái. Pháp luật đã thể hiện vai trò tích
cực và quan trọng của mình trong việc điều tiết các mối quan hệ xã hội thông qua việc
Luật HN&GĐ 2014 ra đời nhằm bảo vệ những đứa trẻ vô tội này. Những nội dung cơ bản
được quy định trong Luật: nguyên tắc giao con cho ai nuôi là vì quyền lợi mọi mặt của
con; quy định mức cấp dưỡng, phương thức cấp dưỡng nuôi con, quyền trông nom con;
quy định về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con khi quyền lợi mọi mặt của con không
được đảm bảo. Thiết nghĩ, trong điều kiện kinh tế thị trường ngày nay, khi đạo đức xã hội
ở một bộ phận cộng đồng đang bị xuống dốc, đã ảnh hưởng trực tiếp đến truyền thống tốt
đẹp của gia đình Việt Nam. Trên thực tế, ở nước ta hiện nay, đã xảy ra không ít trường
hợp vợ hoặc chồng sau ly hôn bỏ mặc không quan tâm, đến cuộc sống của con cái, không
thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng của họ đối với con. Nhiều vụ kiện diễn ra xoay quanh
mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ giữa người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng mà
trong đó liên quan tới trường hợp vợ chồng sau ly hôn chiếm không hề nhỏ. Vì lý do trên,
trong khuôn khổ đề tài cho phép với khả năng còn hạn chế, nhóm xin lựa chọn và trình
bày vấn đề: “Chế tài đối với người không trực tiếp nuôi dưỡng có nghĩa vụ cấp dưỡng
cho con trong trường hợp (vợ chồng) cha mẹ ly hôn”. Theo nhóm, cần tìm hiểu xem
những nguyên tắc nào đã được Toà án áp dụng, những gì đã làm được và chưa làm được
và những giải pháp thích hợp để qua đó đánh giá nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật cấp
dưỡng.
I. Khái quát chung về chế tài đối với người không trực tiếp nuôi con để bảo vệ
quyền được cấp dưỡng của con khi cha mẹ ly hôn theo Luật HN & GĐ 2014.
1. Một số khái niệm
1.1. Khái niệm về “Chế tài”
Chế tài được hiểu là một bộ phận quy phạm pháp luật mà nhà nước dự kiến áp
dụng đối với chủ thể không thực hiện đúng mệnh lệnh của nhà nước được nêu ở phần quy
định của quy phạm pháp luật. Chế tài nêu lên những hậu quả bất lợi đối với chủ thể vi
phạm pháp luật. Để xác định bộ phận chế tài trong quy phạm pháp luật, thông thường
những nội dung nào trong quy phạm trả lời cho câu hỏi chủ thể phải chịu hậu quả gì nếu
không thực hiện đúng nội dung của phần quy định sẽ là nội dung của bộ phận chế tài
trong quy phạm đó
1
.
1 Tập bài giảng Lý luận về Pháp luật, trường ĐH Luật TP Hồ Chí Minh, khoa Luật Hành chính – Nhà
nước, trang 50,51.
Theo tính chất của sự phản ứng pháp lý đối với vi phạm phần quy định, có thể
phân các chế tài thành: chế tài hình phạt, chế tài khôi phục, chế tài phủ định pháp luật.
Theo mức độ xác định, chế tài được phân thành chế tài xác định tuyệt đối, chế tài
xác định tương đối và chế tài lựa chọn.
Theo tiêu chí các ngành luật, chế tài được phân thành chế tài hình sự, chế tài hành
chính, chế tài dân sự,…
2
1.2. Khái niệm “Quyền được cấp dưỡng của con khi cha mẹ ly hôn theo Luật hôn
nhân và gia đình 2014”
Để hiểu khái niệm này, chúng ta cần tìm hiểu khái niệm “ly hôn” và khái niệm
“cấp dưỡng”
1.2.1 Khái niệm “ly hôn”:
Sơ lược về căn cứ ly hôn trong pháp luật của chính quyền ngụy quyền Sài gòn
trước 1975 (ở Miền Nam):
Luật gia đình 1959 của Ngô Đình Diệm quy định cấm ly hôn, chỉ cho ly thân, trừ
một số trường hợp phải có tổng thống xét là tối đặc biệt mới cho ly hôn. Để biện hộ cho
quy định này Trần Lệ Xuân nêu lý do: cấm ly hôn nhằm bảo vệ và củng cố gia đình, dành
thời gian xoa dịu các mối bất hòa, cho đôi bạn có cơ hội đoàn tụ, làm cho thanh niên lựa
chọn bạn đời thận trọng hơn.
Đến năm 1964, sau khi chính quyền bị lật đổ lúc này mới đề nghị xét lại quy định
trên. Do vậy, Bộ Dân luật 1972 của chính quyền Thiệu đã quy định vợ chồng có thể xin
ly hôn vì ba duyên cớ: vì sự ngoại tình của bên kia; bên kia bị kết án trọng hình về
thượng tội; vợ chồng ngược đãi, không thể ăn ở với nhau.
3
Hiện nay, khoản 14 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Ly hôn là
việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà
án”. Trước đó, theo quy định tại khoản 8 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2000 quy
định: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định
theo yêu cầu của vợ hoặc chồng của cả hai vợ chồng”. Căn cứ để Tòa án ra quyết định ly
2 />3 />hôn là theo khoản 1 Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình 2000 nếu xét thấy tình trạng trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.
Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
- Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như: người nào
chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì
sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức nhắc nhở nhiều lần.
- Vợ chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau như: thường xuyên đánh đập,
có hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của
họ hoặc cơ quan, tổ chức nhắc nhở, hòa giải nhiều lần.
- Vợ chồng không chung thủy với nhau: có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ
hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức nhắc nhỏ, khuyên
bảo nhưng vẫn có quan hệ ngoại tình.
- Đời sống chung không thể kéo dài: Để có cơ sở nhận định đời sống chung của
vợ chồng không thể kéo dài thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đến mức
trầm trọng như thế nào. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hòa giải nhiều lần nhưng
vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, hoặc bỏ nhau mà vẫn có
hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm nhau thì có căn cứ để nhận định đời sống chung
của vợ chồng không thể kéo dài được
- Mục đích của hôn nhân không thể đạt được: là không có tình nghĩa vợ chồng,
không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền vợ chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm,
uy tín vợ chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ chồng; không
giúp đỡ tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt.
4
1.2.2 Khái niệm “Cấp dưỡng”:
Theo khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Cấp dưỡng là việc một
người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi
dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà
4 Mục 8 Nghị Quyết 02/2000/NQ – HĐTP ngày 23/12/2000 của Toà án nhân dân tối cao.
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó
khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này”.
Cấp dưỡng là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng trong pháp luật hôn nhân gia
đình để thể hiện mối quan hệ ràng buộc về quyền và nghĩa vụ giữa những người không
chung sống với nhau nhưng đang có hoặc đã có quan hệ gia đình trong việc đảm bảo
cuộc sống cho những người chưa thành niên, những người đã thành niên nhưng trong tình
trạng mất hoặc bị suy giảm sút khả năng lao động, không có thu nhập hoặc không có tài
sản hoặc tuy có nhưng không đủ để đảm bảo cuộc sống của mình.
Ngoài ra, cấp dưỡng còn được hiểu theo nghĩa là hình thức biểu hiện bên ngoài
của một nghĩa vụ pháp lí, nội dung của nó bao gồm: quyền cấp dưỡng, nghĩa vụ cấp
dưỡng, chủ thể của quan hệ cấp dưỡng và khách thể của quan hệ cấp dưỡng. Cấp dưỡng
còn có biện pháp chế tài đối với người có hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi
dưỡng.
Từ hai khái niệm trên, có thể hiểu “Quyền được cấp dưỡng của con khi cha mẹ ly
hôn theo Luật hôn nhân và gia đình 2014” là quyền được yêu cầu hỗ trợ vật chất bao gồm
tiền hoặc tài sản khác từ người không sống chung nhưng có quan hệ huyết thống hoặc
nuôi dưỡng để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của người có quyền trong trường hợp người
có quyền là người chưa thành niên, là người đã thành niên mà không có khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi mình, là người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy
định của luật.
2. Sự cần thiết để bảo vệ quyền được cấp dưỡng của con
Suy cho cùng, việc xây dựng chế định quyền được cấp dưỡng của con dựa trên các
quyền cơ bản của con người: sinh ra và sống. Mỗi người đều có quyền sống và xã hội
phải tạo điều kiện thuận lợi cho con người thực hiện quyền sống của mình. Một trong
những điều kiện vật chất sơ cấp của sự sống là có cái gì đó để ăn, để mặc, để ở,…đó là
những nhu cầu thiết yếu của một người. Lại nói rằng trong quan hệ cha mẹ - con thì
không lệ thuộc vào tính chất quan hệ giữa cha và mẹ. Bởi vậy, sau khi ly hôn, người
không trực tiếp nuôi con vẫn phải luôn có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng và đảm bảo
những nhu cầu thiết yếu của con được đáp ứng một cách trọn vẹn. Nhưng trên thực tế
hiện nay, có một số người làm cha làm mẹ sau khi ly hôn đã trốn tránh nghĩa vụ cấp
dưỡng. Đứng trước yêu cầu chính đáng và bức bách của con mình như đang bị đói và cần
có gì đó để ăn, đang bệnh và cần ít tiền để chi phí thuốc men, thì người có nghĩa vụ cấp
dưỡng lại tỏ ra thờ ơ, không có một động thái gì cho thấy thiện chí đáp ứng lại hoặc có
trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng hứa suông, không đáp ứng cụ thể các yêu cầu
của người được nuôi dưỡng. Đứng trên quan niệm dành những gì tốt nhất cho trẻ em và
tôn vinh những giá trị đạo đức truyền thống, cần có những chế tài trừng trị những người
trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng của mình. Thông qua việc bảo vệ quyền được cấp dưỡng
của con, không chỉ nói lên được tính nhân đạo mà còn có thể giáo dục tinh thần “tương
thân tương ái” trong xã hội. Vì cấp dưỡng chính là sợi xích gắn kết các thành viên trong
gia đình và làm thức tỉnh ở họ ý thức trách nhiệm đối với nhau, từ đó tạo ra một cộng
đồng có trách nhiệm.
3. Cơ sở pháp lý:
Thật vậy, gia đình là tế bào của xã hội, muốn xã hội tốt đẹp trước hết gia đình cần phải
hạnh phúc. Nhưng, trong thời đại hiện nay, vấn đề tranh chấp, bất đồng quan điểm giữa
vợ chồng ngày càng nhiều dẫn đến các vụ ly hôn có số lượng ngày càng tăng. Khi xảy ra
ly hôn, quan hệ hôn nhân chấm dứt, quan hệ nhân thân giữa vợ chồng có thể chấm dứt trừ
trường hợp do một bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng với lý do chính đáng
thì bên còn lại có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình được quy định tại Điều
115 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; nhưng đối với quan hệ tài sản, có một nghĩa vụ cấp
dưỡng cho con của cha, mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng con không thể chấm dứt được.
Bởi lẽ, khi cha mẹ ly hôn, người gánh chịu nhiều mất mát, tổn thương hằn sâu nhất không
ai khác ngoài người con của họ. Chế định cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn sẽ đảm bảo
hơn cho con được hưởng sự quan tâm, chăm sóc cả về vật chất và tinh thần của người
không trực tiếp nuôi dưỡng mình. Tuy nhiên, trên thực tế ở nước ta hiện nay đã xảy ra
không ít trường hợp vợ hoặc chồng không trực tiếp nuôi dưỡng con mà bỏ mặc, không
quan tâm, thờ ở không thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng của họ đối với con. Do đó, việc
quy định chế tài để đảm bảo quyền và lợi ích của người con trong quan hệ cấp dưỡng là
rất quan trọng, có ý nghĩa cho sự tồn tại và phát triển người con cũng như mối quan hệ ổn
định của xã hội.
3.1 Chế tài dân sự
Để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của người không trực tiếp nuôi dưỡng,
nhà nước ta đã xây dựng một hành lang pháp lý cần thiết để đảm bảo cho nghĩa vụ cấp
dưỡng được thực hiện. Chế định cấp dưỡng trong hệ thống pháp luật hiện hành đã tạo ra
một cơ chế pháp lí cần thiết hướng hành vi ứng xử cho mỗi người có nghĩa vụ liên quan
đến gia đình thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo đúng quy định và là cơ sở pháp lý để giải
quyết khi có yêu cầu về cấp dưỡng. Theo Khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình
2014 quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Bởi
lẽ, khi không sống chung với con thì đối với người con tình cảm của cha mẹ dành cho
mình không còn trọn vẹn nữa, do đó, chế định cấp dưỡng cho con cũng góp phần vào
việc cha, mẹ không trực tiếp nuôi con bù đấp một phần vật chất lẫn tinh thần cho con của
mình. Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng không tự nguyện thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng thì sẽ bị Toà án buộc thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 119 Luật
Hôn nhân và gia đình 2014:
“1. Người được cấp dưỡng, cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó, theo quy định
của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có
quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải
thực hiện nghĩa vụ đó:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2
Điều này yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
phải thực hiện nghĩa vụ đó”.
Có thể thấy rằng, ngoài Tòa án ra quyết định buộc thực hiện nghĩa vụ ra thì còn có
các chủ thể khác cũng có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người không trực tiếp
nuôi dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nhằm hạn chế những thiếu sót mà Tòa án
không thể bao quát hết được mà thông qua những chủ thể này để giám sát người không
trực tiếp nuôi dưỡng phải thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của mình. Nghĩa vụ cấp
dưỡng của người không trực tiếp nuôi con là không thể trốn tránh. Khi không sống
chung, thì nghĩa vụ bù đắp tổn thất cho con mình là một điều đương nhiên phải thực hiện
– đó không chỉ là nghĩa vụ mà nó còn là tình cảm thiêng liêng của cha, mẹ dành cho
người con của mình; do đó, nếu không thực hiện thì sẽ bị Tòa án yêu cầu buộc phải thực
hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Tuy nhiên, trong thực tế xã hội nước ta, “cái tình mạnh hơn cái
lý” nên hầu như không ai đi kiện cha, mẹ mình để yêu cầu cha, mẹ phải thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng vì điều đó không phải là nét văn hóa người Việt Nam nên đó cũng chính là
lý do khiến việc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con sau khi ly hôn của người
không trực tiếp nuôi dưỡng xảy ra rất nhiều. Nên ngoài việc được quy định tại Luật Hôn
nhân và gia đình 2014 thì theo Nghị định số 70/2001/NĐ - CP ngày 03/10/2001 ở Điều
20 cũng đã quy định về việc buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng:
“1. Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật Hôn nhân và
gia đình mà không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thì theo yêu cầu của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân quy định tại Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình 2000, Toà án
ra quyết định buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó. Thời điểm
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng
thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì thời điểm đó được tính từ ngày ghi trong bản
án, quyết định của Toà án.
2. Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quyết định của Toà án không tự
nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình, thì người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của
người đó có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải
thực hiện nghĩa vụ đó. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được tính từ ngày ghi
trong bản án, quyết định của Toà án.
3. Theo quyết định của Toà án, cơ quan, tổ chức trả tiền lương, tiền công lao động, các
thu nhập thường xuyên khác cho người có nghĩa vụ cấp dưỡng có trách nhiệm thực hiện
việc khấu trừ khoản cấp dưỡng để chuyển trả cho người được cấp dưỡng hoặc người
giám hộ của người đó theo đúng mức và phương thức cấp dưỡng do người được cấp
dưỡng hoặc người giám hộ của người đó và người có nghĩa vụ cấp dưỡng thoả thuận
hoặc theo mức và phương thức cấp dưỡng do Toà án quyết định”.
Nghị định số 70 hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình 2000 đã quy định cụ thể
về việc buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của người không tự nguyện thực hiện nghĩa
vụ, cùng với các biện pháp cưỡng chế là buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
3.2 Chế tài hành chính
Nhà nước ta ban hành các quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Điều 107 Luật hôn nhân và gia đình 2000 quy định:
“Người nào vi phạm các điều kiện kết hôn; cản trở việc kết hôn đúng pháp luật; giả mạo
giấy tờ để đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi; hành hạ, ngược đãi, xúc phạm danh
dự, nhân phẩm ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con và các thành viên khác trong gia đình;
lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi; không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nghĩa vụ
giám hộ hoặc có các hành vi khác vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình
sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Điều 12 Nghị quyết số 87/2001/NĐ-CP ngày 21-11-2001 của Chính phủ về xử phạt hành
chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình quy định:
“1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 20.000 đồng đến 100.000 đồng đối với hành vi từ
chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn, anh chị em với
nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu theo quy định của pháp luật.
2. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng đối với hành vi từ chối
hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng cha mẹ, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn
theo quy định của pháp luật”.
Tuy nhiên, hiện nay, khi Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Nghị định 126 quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã có hiệu lực thì
Nghị đinh số 70 cũng như các Nghị định khác hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia
đình 2000 cũng hết hiệu lực. Như vậy, liệu những chế tài này có còn được áp dụng trong
thực tiễn xét xử khi chưa có quy định nào hiện nay quy định về việc buộc thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng này?
3.3 Chế tài hình sự
Cùng với những chế tài dân sự và hành chính trong lĩnh vực hôn nhân gia đình,
Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định chế tài hình sự cho hành vi từ chối hoặc
trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng:
“Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà cố
ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lí
hành chính thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba
tháng đến hai năm”.
Theo Thông tư số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC về “Các tội
xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình” tại tiểu mục 8.2 mục 8 thì có khả năng thực tế để
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là “trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng có tiền, tài
sản hoặc thu nhập có khả năng bảo đảm cuộc sống của gia đình với mức sống trung bình
ở địa phương”. Hành vi trốn tránh hoặc từ chối nghĩa vụ cấp dưỡng thường được biểu
hiện bằng việc không chịu đóng góp tiền, tài sản để cấp dưỡng mặc dù có khả năng thực
tế để thực hiện nghĩa vụ đó. Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng không điều
kiện cấp dưỡng là do hoàn cảnh khách quan thì không cấu thành tội phạm này. Bên cạnh
đó, chúng ta cũng phải lưu ý rằng chỉ có thể truy cứu hình sự về trách nhiệm này khi có
đủ các dấu hiệu sau:
+ Người vi phạm là người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật HN &
GĐ (ở đây, khi ly hôn thì người không trực tiếp nuôi con là cha hoặc mẹ phải có nghĩa vụ
cấp dưỡng theo quy định của pháp luật);
+ Người vi phạm từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng. Đây không phải là
chủ thể đặc biệt, nhưng từng trường hợp cụ thể cho thấy, người phạm tội bao giờ cũng có
quan hệ nhất định với người bị hại. Và là tội ít nghiêm trọng nên chỉ những người từ đủ
16 tuổi trở lên mới là chủ thể của tội phạm này (ở đây là nghĩa vụ của cha, mẹ đối với
con của mình);
+ Việc cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng mà gây hậu quả nghiêm
trọng (tức là làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng,
sức khoẻ như: ốm đau, bệnh tật, v.v…) hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà
còn vi phạm. Lỗi chủ quan phải là lỗi cố ý trực tiếp. Nếu hành vi không cấp dưỡng được
thực hiện do vô ý thì không cấu thành tội phạm này. Cũng theo Thông tư này về tình tiết
“đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” đối với nhiều tội trong đó có
tội “từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng” (Điều 152 BLHS), Bộ luật hình sự có
quy định tình tiết "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" trong cấu
thành tội phạm, do đó, cần chú ý:
Bị coi là "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" nếu trước đó
người nào đã bị xử phạt hành chính hành vi trên, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là
chưa bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính mà
lại thực hiện chính hành vi đó hoặc thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong
điều luật tương ứng đó. Việc hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt hành chính là hết
thời hạn do pháp luật xử phạt vi phạm hành chính quy định. Theo quy định tại Điều 10
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 thì cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm
hành chính, nếu quá một năm, kể từ ngày thi hành xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày
hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm, thì được coi như chưa bị xử
phạt vi phạm hành chính.
Vậy, chỉ khi có đủ 3 dấu hiệu trên thì mới có thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
việc cha, mẹ không trực tiếp nuôi con cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng
cho con của mình sau khi ly hôn.
Ngoài ra, trong thực tế, chúng ta cũng có khả năng nhầm lẫn giữa việc áp dụng Điều 152
và Điều 304 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Thực ra, nếu có
việc không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn của bất kì một bên cha
hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con thì chúng ta đều có thể áp dụng 1 trong 2 chế tài ấy tùy
vào từng căn cứ, cơ sở cho phù hợp. Đối với Điều 152 thì chúng ta căn cứ vào các cơ sở
như nhóm đã phân tích phía trên, còn đối với Điều 304 thì ngay từ tiêu đề tên điều luật ta
đã thấy rõ nội hàm về “Tội không chấp hành án” như sau: “Người nào cố ý không chấp
hành bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mặc dù đã bị áp dụng biện
pháp cưỡng chế cần thiết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ
sáu tháng đến ba năm”. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nếu một người theo
quyết định của một bản án đã có hiệu lực pháp luật, phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng,
đã bị cơ quan thi hành án yêu cầu cấp dưỡng nhưng người đó vẫn cố tình không chấp
hành, mặc dù đã áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết thì người đó bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo tội không chấp hành án.
Tóm lại, các chế tài mà pháp luật định ra bao gồm tất cả chế tài về dân sự, hành chính
hay hình sự đều nhằm mục đích cuối cùng là bảo vệ người được cấp dưỡng, cụ thể ở đây
là bảo vệ người con khi cha, mẹ của chúng ly hôn mà chúng chỉ sống với một bên cha
hoặc mẹ thì người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng để đảm bảo tất cả
các lợi ích của người con.
4. Ý nghĩa của việc qui định các chế tài
Khi có các chế tài về cấp dưỡng thì đó là căn cứ pháp lý quan trọng để Tòa án có
thể ra quyết định xử lý các trường hợp “trốn tránh” hoặc “từ chối” nghĩa vụ cấp dưỡng.
Khi bản án quyết định của Tòa án về việc cấp dưỡng có hiệu lực, người có nghĩa vụ cấp
dưỡng có tể tự nguyện thi hành trong một khoảng thời gian nhất định, nếu không tự
nguyện thực hiện thì sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quyết định của Tòa án.
Qui định nhiều loại chế tài về cấp dưỡng từ chế tài dân sự, hành chính, hình sự là
để áp dụng pháp luật trong nhiều trường hợp khác nhau. Đối với trường hợp không tự
nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì chỉ bị áp dụng chế tài dân sự, hành chính để răn
đe. Tuy nhiên từ việc không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng dẫn đến việc là những thiệt hại
về tính mạng, sức khỏe, tinh thần và những thiệt hại khác cho người được cấp dưỡng và
cho xã hội. Đối với những trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng thì cần phải áp dụng chế
tài hình sự đối với những người không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng dẫn đến hậu quả
nghiêm trọng. Cho nên cần qui dịnh nhiều loại chế tài về cấp dưỡng.
Nếu không qui định các loại chế tài về cấp dưỡng thì đối với những trường hợp
không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ không có cơ sở pháp lý để áp dụng xử
phạt đối với những trường hợp này mặt dù đã bị xã hội lên án nhưng không đủ hiệu quả
thì cần có những qui định về các loại chế tài này.
II. Thực trạng và hướng hoàn thiện
1. Thực trạng
1.1 Thành tựu
Theo như quy định của pháp luật thì người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa
vụ cấp dưỡng cho con. Đây là nghĩa vụ của bậc làm cha, làm mẹ, dù cho họ không thể
tiếp tục cuộc sống vợ chồng nhưng không phải vì thế mà mối quan hệ giữa họ và con cái
bị cắt đứt. Họ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ “nuôi dưỡng” dưới dạng “cấp dưỡng” nhằm
đảm bảo cho con cái họ được bù đắp sự hụt hẫng về mặt tinh thần và đảm bảo nhu cầu tối
thiểu cho cuộc sống. Luật HN & GĐ 2014 đã có quy định rất rõ về việc cấp dưỡng và
cũng đã nhấn mạnh rằng nghĩa vụ cấp dưỡng không thể được thay thế bằng nghĩa vụ
khác cũng không thể chuyển giao cho người khác (khoản 1 Điều 107).
Trong thực tế khi cha mẹ ly hôn có rất nhiều trường hợp một bên cha hoặc mẹ
muốn giải thoát cho cuộc sống của cá nhân mình mà thoái thác trách nhiệm nuôi con, đùn
đẩy cho bên kia. Như vậy là họ đã có hành vi trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng. Và pháp
luật về hôn nhân và gia đình đã có dự liệu biện pháp áp dụng đối với tình huống này tại
khoản 2 Điều 107 Luật HN & GĐ 2014 như sau: “Trong trường hợp người có nghĩa vụ
nuôi dưỡng trốn tránh nghĩa vụ thì theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy
định tại Điều 119 của Luật này, Tòa án buộc người đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng theo quy định của Luật này”.
Ngoài ra, pháp luật cũng có một số biện pháp cụ thể trong việc đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng như quyết định khấu trừ vào tiền lương, thu nhập, tiền công lao
động, các khoản thu nhập thường xuyên khác của người không tự nguyện thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng để chuyển trả cho người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó
theo đúng mức và phương thức cấp dưỡng như đã thỏa thuận hoặc theo Tòa án quyết
định. Các biện pháp này cũng đã được quy định trong pháp lệnh thi hành án dân sự.
Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 cũng có các chế tài để xử lí
trong trường hợp trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc không tự nguyện thực hiện nghĩa
vụ này tài Điều 152. Tuy nhiên, theo ý kiến của nhóm thiết nghĩ đây chỉ là biện pháp cuối
cùng khi đã có hậu quả nghiêm trọng xảy ra đối với người được cấp dưỡng, chưa thực sự
đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng (trong trường hợp này là
người con).
Về thực tiễn xét xử cho thấy, việc xem xét ý kiến, nguyện vọng của con và coi đó
là một trong những cơ sở để Tòa án quyết định việc giao con cho ai và ai có nghĩa vụ cấp
dưỡng khi không trực tiếp nuôi con là cần thiết cả về góc độ lý luận và thực tiễn. Khi giải
quyết các vụ án ly hôn, Tòa án căn cứ vào những quy định của pháp luật hiện hành và
điều kiện khả năng thực tế của mỗi bên để có thể đưa ra những quyết định chính xác và
hợp lý.
Tóm lại, nhờ có những qui định của pháp luật về chế tài khi không thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng mà Tòa án đã áp dụng và giải quyết được nhiều trường hợp ly hôn có liên
quan đến vấn đề cấp dưỡng. Đối với các trường hợp này, mặc dù người không trực tiếp
nuôi dưỡng không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì cũng có biện pháp chế tài
để xử lý răn đe họ, tránh những thiệt hại đến con và cũng đảm bảo được nhu cầu thiết yếu
của con khi ly hôn, đảm bảo cho con mặc dù cha mẹ ly hôn nhưng đời sống, học tập, vui
chơi, giải trí, được chăm sóc, giáo dục toàn diện vẫn sẽ được đảm bảo. Đây chính là một
thành tựu lớn trong việc qui định các loại chế tài về vấn đề cấp dưỡng để đảm bảo quyền
lợi của con khi cha mẹ ly hôn.
1.2 Hạn chế
Xét về góc độ pháp lí, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình được thể hiện
một cách tập trung và cụ thể nhất trong các quy định của Luật về nghĩa vụ cấp dưỡng lẫn
nhau giữa các thành viên trong gia đình, góp phần nâng cao trách nhiệm đùm bọc, tương
trợ lẫn nhau. Luật HN & GĐ năm 2014 đã quy định khái quát, toàn diện nghĩa vụ cấp
dưỡng của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn. Tuy nhiên, việc nhận thức các nguyên tắc
cùng với các quy định của pháp luật về cấp dưỡng đối với trường hợp này trong Luật HN
& GĐ năm 2014 và các văn bản hướng dẫn chưa cụ thể dẫn tới khi xét xử Tòa án còn
lúng túng chưa đưa ra các quyết định phù hợp thậm chí chưa đúng và còn xuất hiện
những vướng mắc trong quá trình giải quyết. Điều đó ảnh hưởng đến quyền lợi của các
bên trong quan hệ cấp dưỡng đặc biệt đối với con cái.
1.2.1 Vướng mắc về vấn đề thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
Về vấn đề cấp dưỡng cho con, khoản 2 Điều 82 Luật HN&GĐ năm 2014 có quy định
“Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Đồng thời, khoản 1
Điều 116 cũng quy định “Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được
cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận cắn cứ vào thu nhập, khả năng
thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng;
nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Vấn đề đặt ra là khi cha mẹ ly hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con theo quy
định tại điều luật này, mà mức cấp dưỡng cho con cũng như thời gian cấp dưỡng nuôi con
nếu cha mẹ không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ giải quyết như thế nào về thời điểm bắt
đầu cấp dưỡng nuôi con.
Hiện nay, chưa có văn bản pháp luật nào quy định hoặc hướng dẫn về vấn đề này.
Điều này dẫn đền việc Tòa án khi giải quyết vấn đề cấp dưỡng nuôi con chưa có sự thống
nhất và chưa phù hợp, không đảm bảo quyền lợi của con trong nhiều trường hợp. thực
tiễn xét xử có Tòa cho rằng, thời điểm bắt đầu cấp dưỡng nuôi con là ngày Tòa tuyên án,
có Tòa lại tuyên là ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc không tuyên là thời điểm nào
thì người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con phải thực hiện nghĩa vụ đó.
Có nhiếu ý kiến cho rằng việc quy định thời điểm bắt đầu cấp dưỡng nuôi con là
không cần thiết vì cấp dưỡng là yếu tố xuất phát từ tình cảm, cha mẹ luôn muốn con
mình có cuộc sống đầy đủ vì vậy không cần quy định thì vẫn thực hiện dựa trên yếu tố tự
nguyện, tự giác thực hiện trách nhiệm của mình. Nhưng thực tế không phải khi nào cũng
vậy.Sau khi ly hôn, người cha hoặc mẹ không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
của mình phải đến khi cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định cưỡng chế, buộc họ phải
thực hiện trách nhiệm của mình lúc ấy việc cấp dưỡng mới được thực hiện, thậm chí
nhiều trường hợp vẫn trốn tránh. Do đó, người thiệt thòi nhiều nhất sẽ là con cái. Số tiền
cấp dưỡng từ cha, mẹ không chỉ có ý nghĩa đảm bảo cuộc sống hàng ngày mà còn là tình
cảm từ cha, mẹ sau khi họ ly hôn. Thiếu sự cấp dưỡng này, có thể sẽ làm các em tổn
thương, xuất hiện tâm lý oán trách cha mẹ, tủi thân, dễ dẫn đến nhiều hệ lụy khác.
1.2.2 Vướng mắc trong việc thực hiện thời điểm kết thúc cấp dưỡng nuôi con
Theo quy định tại khoản 1 Điều 118 Luật HN&GĐ năm 2014 thì nghĩa vụ cấp dưỡng
chấm dứt khi “Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động…”
Quy định tại khoản 1 điều này buộc người áp dụng Luật phải đối chiếu với Điều 8
BLDS 2005 để xác định thế nào là người đã thành niên để có cơ sở chấm dứt nghĩa vụ
cấp dưỡng nuôi con theo đúng quy định của pháp luật. Căn cứ vào cả 2 quy định này ta
thấy nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên của người có nghĩa vụ cấp dưỡng
chấm dứt vào thời điểm người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động tức
là thời điểm người được cấp dưỡng đủ 18 tuổi và có khả năng lao động. Quy định này
làm cho nhiều Tòa án khi giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên đã xác định
chưa đúng thời điểm kết thúc nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, còn nhiều cách hiểu và thực
hiện việc tuyên án hoặc quyết định chưa thống nhất. các tuyên chung chung, không rõ
ràng trong các bản án, quyết định, phổ biến là “…cho đến khi cháu trưởng thành, lao
động tự túc được…” hoặc tuyên “Anh L có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng
100.000 đồng cho đến khi N trưởng thành, tự lập sống được”. Do có nhiều các hiểu và áp
dụng không thống nhất nên có những khó khăn nhất định trong việc Tòa án ra phán quyết
chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Điều đó ảnh hưởng đến quyền lợi của người
được cấp dưỡng.
1.2.3 Vướng mắc trong vấn đề tạm ngừng cấp dưỡng
Điều 117 Luật HN&GĐ có quy định “Các bên có thể thỏa thuận thay đổi phương thức
cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào
tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu
không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”.
Theo như quy định này thì khi vợ hoặc chồng gặp khó khăn về kinh tế có thể thỏa
thuận với nhau hoặc nhờ Tòa án giải quyết tạm ngừng cấp dưỡng. Nhưng việc tạm ngừng
cấp dưỡng có thể ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người được cấp dưỡng. Vì như
thế có nghĩa là trong một thời gian người được cấp dưỡng sẽ không nhận được sự trợ cấp
từ phía người thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng để đảm bảo cuộc sống cho mình.
Trên thực tế có nhiều trường hợp xin tạm ngừng cấp dưỡng với lý do khó khăn về
kinh tế. Tuy nhiên có nhiều trường hợp lấy lý do này để trốn tránh việc thực hiện nghĩa
vụ cấp dưỡng. Luật HN&GĐ 2014 không đưa ra các quy định cụ thể khi nào bắt đầu thời
gian tạm ngưừg cấp dưỡng cũng như khi nào chấm dứt thời gian này. Điều đó khiến cho
Tòa án lúng túng khi giải quyết yêu cầu tạm ngừng cấp dưỡng.
1.2.4 Vướng mắc về mức cấp dưỡng
Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người trực tiếp nuôi con thỏa
thuận vì đây là một quan hệ dân sự. Quy định này thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của
những người làm cha làm mẹ. Ngoài ra, họ còn là những người hiểu rõ nhất nhu cầu thiết
yếu của con cũng như khả năng thực tế của mình. Khi hai bên không thỏa thuận được thì
Tòa án đứng ra giải quyết. Thế nhưng trong thực tiễn, hầu hết các trường hợp sau khi ly
hôn, việc cấp dưỡng chưa đảm bảo được quyền lợi của đứa con, chưa đáp ứng được nhu
cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Trong khi đó, mức cấp dưỡng hiện hành được
căn cứ vào mức thu nhập và giá cả thị trường tại thời điểm xét xử vụ án, nên mỗi vụ là
một mức cấp dưỡng khác nhau. Điều này không những tạo sự tùy nghi trong công tác xét
xử mà còn gây khó khăn cho công tác thi hành án dân sự khi người cấp dưỡng phải chịu
mức cấp dưỡng không phù hợp với thu nhập của họ. Ví dụ theo Quyết định thuận tình ly
hôn số 24 ngày 03/11/2004 của Tòa án nhân dân huyện Anh Sơn (Nghệ An), thì anh Hà
và chị Vân được ly hôn; anh Hà có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Vân mỗi
tháng 100 ngàn đồng kể từ ngày 3/11/2004 đễn khi cháu Nguyễn Thùy Lynh sinh ngày
5/6/1996 đến tuổi trưởng thành. Số tiền 100.000 đồng/tháng này với một cháu bé 8 tuổi
không thể đảm bảo nhu cầu tối thiểu.
1.2.5 Vướng mắc trong trường hợp cấp dưỡng của cha dượng, mẹ kế cho con riêng của
vợ hoặc con riêng của chồng sau khi ly hôn.
Cha dượng, mẹ kế là những người chồng hay người vợ mới của cha hoặc mẹ của con.
Mối quan hệ giữa cha dượng, mẹ kế với con riêng của vợ hay chồng không phải là mối
quan hệ huyết thống. Hiện nay, các quy định của pháp luật chưa có quy định cụ thể, đầy
đủ về các trường hợp cấp dưỡng của cha dượng, mẹ kế cho con riêng của vợ hoặc con
riêng của chồng khi ly hôn không sống chung với nhau nữa. Trong thực tế, khi xét xử ly
hôn có yêu cầu cấp dưỡng của cha dượng, mẹ kế cho con riêng của vợ hoặc chồng và Tòa
án không tìm được quy định pháp luật cụ thể để đưa ra phán quyết chính xác.
Ví dụ: Chị H và anh D chung sống với nhau có đang ký kết hôn năm 1996. Trước khi kết
hôn , anh D đã có vợ và đã ly hôn. Chị M cũng có chồng nhưng đã chết, chị có mo655
người con 3 tuổi là H (con chung với chồng trước). Sau đó, chị M và anh D sinh được 1
người con trai là Q. Đến năm 2005, do mâu thuẫn trầm trọng nên chị M viết đơn xin ly
hôn. Trong đơn chị yêu cầu nuôi 2 con là H và Q. Chị có yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi 2
con mỗi tháng 500.000 đồng. Anh D chấp nhận yêu cầu cấp dưỡng cho con chung là Q,
không chấp nhận cấp dưỡng nuôi H vì anh cho rằng H không phải là con ruột của anh nên
anh không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi H. Theo bản án số 57/2006/ HN&GĐ của Tòa án
nhân dân thành phố H, tỉnh Q ngày 30/6/2006 ra quyết định: Xử cho chị M và anh D ly
hôn, giao cho chị M nuôi con chung và anh D có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung
là 300.000 đồng. Anh D không phải cấp dưỡng nuôi con riêng là H (do chị M đồng ý rút
lại đơn đòi anh D cấp dưỡng cho H). Vậy giả sử trong trường hợp chị M kiên quyết buộc
anh D bồi thường nuôi H thì Tòa án sẽ giải quyết như thế nào? Tòa án sẽ căn cứ vào quy
định nào của pháp luật để buộc D phải cấp dưỡng nuôi H hoặc từ chối yêu cầu cấp dưỡng
nuôi con riêng của M?
Trên thực tế, giữa con riêng của vợ hoặc chồng với cha dượng hay mẹ kế đã có thời
gian quan tâm, chăm sóc khá dài, giống như trường hợp cha mẹ đẻ sống chung với con đẻ
hoặc cha mẹ nuôi sống chung với con nuôi. Mặc dù không có quan hệ máu mủ ruột thịt
nhưng khi cùng sống dưới một mái nhà thì giữa họ cũng đã nảy sinh những tình cảm gắn
bó, thân thiết như ruột thịt với nhau. Thậm chí có những người cha dượng hay mẹ kế còn
thương yêu con riêng hơn cả cha mẹ ruột của con riêng, và cũng có trường hợp con riêng
dành tình cảm của mình cho cha dượng, mẹ kế như tình cảm cho cha mẹ ruột.
Luật HN&GĐ nên đưa ra các quy định cụ thể về việc cấp dưỡng nuôi con riêng giữa
cha dượng, mẹ kế để tránh tình trạng Tòa án khi xét xử không có căn cứ pháp luật trong
trường hợp giải quyết yêu cầu cấp dưỡng giữa cha dượng, mẹ kế với con riêng của vợ
hoặc con riêng của chồng. Việc quy định cha dượng, mẹ kế có nghĩa vụ cấp dưỡng cho
con riêng của vợ hoặc chồng khi ly hôn và ngược lại con riêng cũng có nghĩa vụ chăm
sóc, nuôi dưỡng cha dượng, mẹ kế hoàn toàn phù hợp với phong tục, tập quán và đạo đức
của người Việt Nam.
Ngoài ra còn nhiều vướng mắc khác như:
- Thực tế còn nhiều trường hợp Tòa án công nhận sự thỏa thuận của vợ chồng về
việc một bên trực tiếp nuôi con và bên không trực tiếp nuôi con không phải cấp dưỡng
cho con. Thực chất đây là thỏa thuận trái pháp luật nhưng vẫn được nhiều cặp vợ chồng
thực hiện vì xuất phát từ nguyện vọng muốn được nuôi con nên một bên đã thỏa thuận
với bên kia là chấp nhận cho họ nuôi con thì họ sẽ không yêu cầu cấp dưỡng cho con.
- Ở nông thôn, việc cấp dưỡng nuôi con trong những trường hợp các bên tự thỏa
thuận nhiều khi không được nhìn nhận đúng với bản chất của nó. Nhiều người khi không
trực tiếp nuôi con thì cũng coi như không cần phải đóng góp chi phí để nuôi con, để thực
hiện nghĩa vụ của mình, mà hàng tháng họ “cấp dưỡng” cho con một ít tiền để ăn quà vặt.
Việc cấp dưỡng như thế đã bị hiểu sai bản chất.
2. Một số kiến nghị về cấp dưỡng cho con khi ly hôn
2.1. Thời điểm bắt đầu cấp dưỡng nuôi con
Để đảm bảo quyền lợi của con được cấp dưỡng nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu trong
mọi trường hợp thực tiễn, tôi xin kiến nghị các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần
phải có quy định và xác định thời điểm cha hoặc mẹ phải cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn
mà không trực tiếp nuôi con như sau:
- Thứ nhất: Thời điểm cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con khi ly hôn phải cấp
dưỡng nuôi con là thời điểm Toà án lập biên bản lần sau cùng, trong trường hợp quyết
định thuận tình ly hôn.
- Thứ hai: Thời điểm cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con khi ly hôn phải cấp
dưỡng nuôi con là ngày tuyên án sơ thẩm, trong trường hợp các bên không thoả thuận
được về việc cấp dưỡng nuôi con và Toà án đưa vụ án ra xét xử.
- Thứ ba: Thời điểm cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con khi ly hôn phải cấp dưỡng
nuôi con kể từ ngày cha hoặc mẹ không sống chung với nhau trở về sau cho đến khi
chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Mà Toà án có căn cứ xác định trong khoảng thời
gian vợ chồng không sống chung với nhau, nên không thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng giáo dục con - có nghĩa là nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con của vợ hoặc chồng khi ly
hôn bắt đầu kể từ thời điểm vợ chồng ly thân đến khi ly hôn trở về sau cho đến lúc nghĩa
vụ cấp dưỡng được chấm dứt theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình. Bởi vì
trên thực tế có nhiều người vợ do mâu thuẫn quá lớn đối với người chồng và thường
xuyên bị người chồng đánh đập, xúc phạm về nhân phẩm (mà chúng ta thường gọi là nạn
bạo hành, nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự) đã làm cho người vợ
và con phải đi nơi khác để chờ toà giải quyết việc ly hôn hoặc người chồng đi làm ăn xa,
chung sống với người khác mà vợ chồng không chung sống với nhau trước khi ly hôn và
một bên vợ hoặc chồng không sống chung với con, đồng thời cũng không thực hiện việc
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cái (Nhưng không thuộc trường hợp trốn tránh nghĩa
vụ cấp dưỡng nuôi con và đã yêu cầu Toà án giải quyết ).
3.2. Vấn đề tạm ngừng cấp dưỡng
* Điều kiện được tạm hoãn cấp dưỡng:
Người được cấp dưỡng phải lâm vào “hoàn cảnh kinh tế khó khăn”. Mà một người
được coi là khó khăn về kinh tế là người không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng mức
thu nhập thấp và với mức thu nhập đó không thể đảm bảo, và lo cho cuộc sống của người
được cấp dưỡng. Đồng thời họ cũng không có tài sản giá trị hoặc có tài sản nhưng sau khi
bán đi cũng không thể có khả năng thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng của mình.
*Thời gian kết thúc tạm hoãn cấp dưỡng:
- Thứ nhất: Đó là trước thời điểm người được cấp dưỡng tròn 18 tuổi và có khả năng
lao động. Bởi lẽ nếu người được cấp dưỡng tròn 18 tuổi và có khả năng lao động thì
nghĩa vụ cấp dưỡng cũng chấm dứt, người phải cấp dưỡng lúc đó cũng không phải thực
hiện trách nhiệm cấp dưỡng nữa, trong trường hợp này thời gian tạm hoãn cấp dưỡng
đương nhiên chấm dứt. Như vậy, quyền lợi của người được cấp dưỡng trong thời gian
tạm hoãn trước đó sẽ không được đảm bảo và cũng ảnh hưởng đến quyền lợi của người
trực tiếp nuôi người được cấp dưỡng.
- Thứ hai: Trong trường hợp được cấp dưỡng là người thành niên nhưng mất năng
lực hành vi dân sự, bị tàn tật, rơi vào hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu thì việc tạm ngừng
cấp dưỡng chỉ được tạm ngừng trong một thời gian có lợi nhất không được tạm ngừng
cấp dưỡng trong một thời gian dài. Trong các bản án hay quyết định của Toà phải quy
định cụ thể ngày tạm ngừng cấp dưỡng là ngày nào. Ấn định một thời gian nhất định để
bảo vệ quyền lợi cho người được cấp dưỡng cũng như quyền lợi của người trực tiếp nuôi
người được cấp dưỡng.
3.3 Vấn đề mức cấp dưỡng
Nhà nước cần qui định cụ thể về “mức cấp dưỡng”. Theo đó, cần qui định mức
cấp dưỡng tính trên phần trăm thu nhập của người phải cấp dưỡng hoặc lấy mức tiền
lương tối thiểu vào từng thời điểm làm định khung để qui định mức cấp dưỡng”.
Pháp luật cần quy định cụ thể về mức cấp dưỡng nuôi con dựa trên tỉ lệ của lương tối
thiểu vào từng thời điểm, khi có sự thay đổi về mức lương tối thiểu thì mức cấp dưỡng
cũng được thay đổi theo. Có như vậy thì việc thi hành án trong thực tiễn mới thuận lợi và
phù hợp.
Bên cạnh đó, pháp luật cần qui định rõ ràng việc cưỡng chế thi hành án đối với
những trường hợp không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con khi ly
hôn để đảm bảo quyền lợi, tránh thiệt thòi cho người được cấp dưỡng sau khi cha, mẹ ly
hôn. Ngoài ra, để đảm bảo mức cấp dưỡng phù hợp, trong trường hợp hai bên không thỏa
thuận được thì Tòa án cần xác minh đầy đủ, rõ ràng mức thu nhập, rồi mới ấn định mức
cấp dưỡng để tránh những thiệt thòi cho người trực tiếp nuôi dưỡng và người nhận cấp
dưỡng.
Đối với một số trường hợp sau khi ly hôn thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của mình
một thời gian thì bỏ đi nơi khác để xây dựng cuộc sống mới, trốn tránh nghĩa vụ cấp
dưỡng của mình. Vì thế, luật cần bổ sung kịp thời những biện pháp bắt buộc bảo đảm
THA để duy trì sự cấp dưỡng, nghĩa vụ phải THA của cha (mẹ) đối với con.
3.4. Vấn đề cấp dưỡng giữa cha dượng hoặc mẹ kế của con riêng của vợ hoặc chồng
Luật HN&GĐ 2014 có quy định nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng giữa cha dượng
hoặc mẹ kế với con riêng của vợ hoặc chồng nhưng lại không có quy định cụ thể về nghĩa
vụ cấp dưỡng giữa họ khi họ không sống chung. Theo chúng tôi Luật HN&GĐ cũng như
các văn bản có liên quan cần có quy định cụ thể và giải thích rõ hơn cũng như bổ sung
thêm về chế định con riêng và cấp dưỡng đối với con riêng một cách đầy đủ như sau:
Con riêng của cha dượng mẹ kế và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa những người này. Tuy nhiên,
việc quy định cha dượng, mẹ kế có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con riêng của vợ hoặc con
riêng của chồng khi ly hôn ngoài đáp ứng các điều kiện như: Con chưa thành niên hoặc
con đã thành niên mà bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động
và không có tài sản để tự nuôi mình, thì phải xét tới việc giữa cha dượng, mẹ kế phải có
thời gian sống chung với con riêng khá dài. Đồng thời, con riêng của vợ hoặc con riêng
của chồng đã có công lao chăm sóc, nuôi dưỡng cha dượng, mẹ kế như cha mẹ đẻ hoặc
cha mẹ nuôi của mình theo các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình trong một
thời gian dài mà họ không được ai cấp dưỡng khi đã hội đủ điều kiện để được cấp dưỡng.
Chứ hoàn toàn không phải mọi trường hợp con riêng của cha dượng mẹ kế đều được cha
dượng, mẹ kế khi ly hôn cấp dưỡng cho con riêng của vợ hoặc con riêng của chồng, mà
thời gian sống chung quá ít hoặc công sức chăm sóc lẫn nhau chưa nhiều, nay vì cha
dượng, mẹ kế chấm dứt hôn nhân, nên không còn sống chung với cha dượng hoặc mẹ kế
nữa.
3.5. Cách tính số tiền bồi thường cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly hôn mà một
người bị tai nạn
Quan hệ cấp dưỡng là loại quan hệ nhân thân, gắn liền với nhân thân của chủ thể.
Đồng thời quan hệ cấp dưỡng là loại quan hệ tài sản đặc biệt. Giả sử vợ, chồng sau khi ly
hôn, nếu bên không trực tiếp nuôi con không may bị tai nạn có thể bị chết hoặc mất khả
năng lao động, điều đó đồng nghĩa với việc nghĩa vụ cấp dưỡng của người đó đối với con
cũng chấm dứt. Dù biết rằng chẳng ai muốn điều đó xảy ra, nhưng trong trường hợp này
thì quyền lợi của người con tức là quyền lợi của người được cấp dưỡng bị ảnh hưởng trực
tiếp cả về vật chất lẫn tinh thần. Đúng ra người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con phải thực
hiện trách nhiệm cấp dưỡng đến khi người con trưởng thành và có khả năng lao động,
thậm chí phải thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con vô thời hạn nếu rơi vào trường
hợp con đã thành niên không có năng lực hành vi dân sự, bị tàn tật nhưng vì sự cố không
may mà họ không thể tiếp tục thực hiện trách nhiệm của họ, do vậy, trong trường hợp này
người đã gây ra thiệt hại cho người phải cấp dưỡng phải chịu trách nhiệm thực hiện tiếp
trách nhiệm mà người phải cấp dưỡng đang thực hiện dang dở. Mặc dù quan hệ cấp
dưỡng là loại quan hệ nhân thân và không thể chuyển giao cho người khác nhưng trong
trường hợp này thì khác. Người đã gây ra thiệt hại cho người có trách nhiệm cấp dưỡng,
khiến người phải cấp dưỡng không thể thực hiện trách nhiệm của mình phải có nghĩa vụ
bồi thường khoản tiền cấp dưỡng cho người được cấp dưỡng, nhằm đảm bảo cuộc sống
cho người được cấp dưỡng. Để xác định, tính toán chi phí cấp dưỡng, đảm bảo nguyên
tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với mục đích của trách nhiệm bồi thường là khôi
phục lại tình trạng như trước khi xảy ra thiệt hại điều đó không hề đơn giản. Căn cứ vào
hoàn cảnh kinh tế chung ở nước ta và thực tế giải quyết việc cấp dưỡng, trên cở sở quy
định tại khoản 2 Điều 613 Bộ Luật dân sự, Điều 53 Luật HN&GĐ năm 2000 và theo kinh
nghiệm một số nước, theo tôi cách tính khoản tiền bồi thường khoản tiền cấp dưỡng có
thể thực hiện bằng hai cách sau: Thứ nhất: Các bên có thể tự tính toán, thoả thuận mức
bồi thường và thực hiện việc bồi thường theo nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả
thuận trong bồi thường thiệt hại. Thứ hai: Trong trường hợp các bên không tự thoả thuận
được thì việc tính toán, xác định mức bồi thường phải đồng thời căn cứ vào thu nhập của
người bị hại, mức cấp dưỡng thực tế trước khi xảy ra thiệt hại, mức sống trung bình của
đại bộ phận dân cư được cấp dưỡng đang sống. Nếu vẫn có tranh chấp thì yêu cầu Toà án
giải quyết. Căn cứ việc xác định tính toán các thiệt hại khác, việc bồi thường khoản chi
phí cấp dưỡng cũng cần phải căn cứ vào lỗi của các bên, trong đó có lỗi của người bị thiệt
hại. Trong trường hợp nhiều người cùng có lỗi gây thiệt hại thì họ có trách nhiệm liên đới
cùng bồi thường. Khoản tiền phải bồi thường của mỗi người trong trường hợp này được
xác định căn cứ vào mức độ lỗi của họ, trong đó có cả lỗi của người bị thiệt hại nếu
người này có lỗi. Trong trường hợp không xác định được mức độ lỗi thì những người gây
thiệt hại phải bồi thường theo phần bằng nhau. Ngoài ra, việc tính toán khoản tiền cấp
dưỡng gây thiệt hại phải bồi thường cho người được cấp dưỡng cũng cần phải xem xét
đến nghĩa vụ cấp dưỡng của những người khác đối với người được cấp dưỡng. Ví dụ như
nghĩa vụ cấp dưỡng của cha hoặc mẹ đối với các con khi một trong hai người bị tai nạn
để tránh buộc người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ khoản tiền cấp dưỡng. Giải
quyết việc bồi thường khoản tiền cấp dưỡng khi cha mẹ ly hôn mà một trong hai người có
nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con không may bi tai nạn đang là một vấn đề phức tạp. Nhất là
hiện nay, khi việc bồi thường thiệt hại đang chịu sự tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường nên đang có xu hướng bị thương mại hoá. Vì vậy Luật HN&GĐ cũng như các văn
bản pháp luật khác cần có các quy định cụ thể về vấn đề này để bảo vệ quyền lợi cho
người được cấp dưỡng.
3.6 Vấn đề về tổ chức, thực hiện và áp dụng pháp luật nhằm ngăn chặn những hiện
tượng tiêu cực có thể xảy ra trong việc cấp dưỡng nuôi con khi vợ chồng ly hôn:
- Để đảm bảo mục đích của việc cấp dưỡng nuôi con, một trong những biện pháp
quan trọng và cần thiết là công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát việc cấp dưỡng nuôi con.
Công tác đó cần được thực hiện một cách thường xuyên theo định kì hoặc tiến hành đột
xuất khi có dư luận hay có đơn tố cáo của quần chúng nhân dân. Để đảm bảo việc áp
dụng pháp luật trong thực tiễn các vấn đề liên quan đến việc cấp dưỡng nuôi con được
chính xác, đúng đắn và có hiệu quả, vấn đề đặt ra là nâng cao năng lực cán bộ có liên
quan đến việc cấp dưỡng nuôi con, đề cao trách nhiệm “chí công vô tư” không ngại khó
khăn khi xác minh sự việc. Trong quá trình cưỡng chế thi hành án cần có sự phối hợp của
các cơ quan như Viện kiểm sát, cơ quan Công an, cơ quan thi hành án đưa ra những biện
pháp thoả đáng buộc người phải thi hành án thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ cấp dưỡng.
Ngoài ra, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về cấp dưỡng nuôi con khi vợ chồng
ly hôn được tiến hành và đẩy mạnh để làm cho quần chúng nhân dân hiểu rõ mục đích và
ý nghĩa về các vấn đề có liên quan đến việc cấp dưỡng nuôi con. Do đó, tạo được sự đồng
tình, ủng hộ và mọi người có thái độ đúng đắn, nhận thức đầy đủ các vấn đề về cấp
dưỡng nuôi con. Trên cơ sở đó giúp mọi người ý thức quyền lợi của mình và bảo vệ
quyền lợi chính đáng của của các bên trong quan hệ cấp dưỡng đặc biệt là quyền lợi của
người con.
Trên đây là những nội dung cơ bản của tiểu luận “Chế tài đối với người không trực
tiếp nuôi con để bảo vệ quyền được cấp dưỡng của con khi cha mẹ ly hôn theo Luật HN
& GĐ 2014”. Chế định cấp dưỡng là một chế định có ý nghĩa quan trọng trong pháp luật
về hôn nhân và gia đình. Không chỉ có ý nghĩa trong phạm vi một quốc gia mà đây đã và
đang là vấn đề của toàn cầu. Chế định cấp dưỡng đã góp phần vào việc đảm bảo cho cuộc
sống của người được cấp dưỡng, đặc biệt đối với những người chưa thành niên hoặc đã
thành niên nhưng không có năng lực hành vi dân sự, bị tàn tật trong trường hợp cha mẹ ly
hôn. Đảm bảo cho các em được chăm sóc, nuôi dưỡng được phát triển toàn diện về thể
chất và tinh thần dù không được sống cùng cả cha và mẹ trong một gia đình. Ngoài ra,
chế định cấp dưỡng còn là phương thức để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người
phải cấp dưỡng trong quan hệ cấp dưỡng, qua việc xác lập quan hệ cấp dưỡng giữa người
được cấp dưỡng và người phải cấp dưỡng. Vấn đề cấp dưỡng được quy định trong Luật
HN&GĐ năm 2014 và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định các vấn đề liên quan
đến cấp dưỡng cho con khi vợ chồng ly hôn, cấp dưỡng giữa vợ và chồng. Tuy nhiên,
cùng với sự vận động và phát triển của nền kinh tế đã tác động vào các quan hệ xã hội nói
chung và quan hệ cấp dưỡng nói riêng. Một số quy định của pháp luật đã không còn phù
hợp với thực tế, một số vấn đề còn chưa được quy định hoặc quy định chưa đầy đủ, đòi
hỏi pháp luật về cấp dưỡng cần phải sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng các yêu cầu của thực
tế. Cùng với đó, chúng ta cần tiến hành công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát về cấp
dưỡng trên thực tế và nâng cao trách nhiệm, năng lực chuyên môn của cán bộ có thẩm
quyền, phải chú trọng công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về cấp dưỡng,
đặc biệt là cấp dưỡng trong trường hợp vợ chồng ly hôn để mọi tầng lớp nhân dân có
nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vấn đề này và ý thức được quyền lợi, trách nhiệm của
mình trong việc cấp dưỡng.