Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Ca trù – từ góc nhìn du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.17 KB, 19 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đã tham gia vào thị trường chung thế giới WTO công cuộc hội
nhập hoá đang diễn ra ngày càng nhanh chóng, nhiều người lo lắng rằng việc hội
nhập hoá quá nhanh này sẽ làm mất dần đi những giá trị văn hoá truyền thống đích
thực. Điều đó thực sự đáng lo ngại đối với âm nhạc truyền thống, đặc biệt là ca trù -
một hình thức diễn xướng dân gian vừa được UNESCO công nhận là di sản văn
hoá truyền khẩu phi vật thể của nhân loại .
Hiện nay có rất ít người biết và hiểu về ca trù đặc biệt là giới trẻ thế hệ 8X,
9X, vì vậy mà nhiều người cho rằng ca trù đang trở lại nhưng sẽ thật là khó khăn để
gìn giữ nó khi những người thực sự biết về nó đang ngày một ít đi .
Còn đối với du lịch nó là một yếu tố mới để thế giới biết nhiều hơn , hiểu
nhiều hơn về văn hoá Việt, con người Việt. Và cùng với Nhã nhạc Cung đình Huế,
Cồng chiêng Tây Nguyên, ca trù đang từng bước đưa hình ảnh Việt Nam tới với
bạn bè quốc tế. Với lý do trên tôi chọn đề tài “Ca trù – từ góc nhìn du lịch”
Để ca trù được công nhận là di sản văn hoá truyền khẩu phi vật thể của nhân
loại thì các chuyên gia, các nhà nghiên cứu về ca trù đã bỏ rất nhiều tâm huyết, thời
gian và đã đưa ra rất nhiều bài viết sâu sắc về ca trù từ nhiều góc độ khác nhau, bài
viết này chọn góc nhìn từ du lịch để viết về ca trù. Mục đích là vừa tìm hiểu rõ hơn
một hình thức diễn xướng dân gian truyền thống, vừa là củng cố hơn kiến thức về
một di sản văn hoá phi vật thể nữa của Việt Nam mà ngày nay ít được giới trẻ chú ý
tới và cũng để thấy rõ hơn mối liên kết ca trù với du lịch . Kiến thức đó thực sự cần
đối với người làm về du lịch khi có một khách nước ngoài nào đó hỏi về các di sản
văn hoá của Việt Nam .
Ca trù đã có quá trình hình thành và phát triển khá dài và hưng thịnh. Với
những thăng trầm mà nó đã trải qua thì có rất nhiều bài nghiên cứu viết về nguồn
gốc xuất sứ, những thăng trầm mà nó đã trải hay nghệ thuật biểu diễn ... nên bài
1
viết nay chỉ đi vào nghiên cứu ca trù như một hình thức diễn xướng dân gian được
đưa vào khai thác trong du lịch .
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thực địa


- Phương pháp tổng hợp
- Internet
Ngoài phần mở đầu bài niên luận còn được chia ra làm các phần sau :
Chương I : Vài nét về ca trù
Chương II : Ca trù từ góc nhìn du lịch
Chương III : Ca trù với việc bảo tồn
2
CHƯƠNG I
VÀI NÉT VỀ CA TRÙ
I. TÊN GỌI VÀ Ý NGHĨA
Trong nền âm nhạc dân tộc cổ truyền Việt Nam , không có một thể loại âm
nhạc nào lại có tính đa diện như nghệ thuật ca trù . Trải theo dòng chảy của thời
gian tuỳ theo từng không gian văn hoá hay chức năng xã hội phối thuộc mà loại
hình nghệ thuật này mang những tên gọi với nhiều ý nghĩa khác nhau .
Hát ả đào : theo Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên thì từ thời vua Lý
Thái Tổ ( 1010 - 1028 ) có người ca nương tên là Đào Thị giỏi nghề ca hát thường
được vua ban thưởng . Người thời ấy ngưỡng mộ danh tiếng của Đào Thị nên phàm
con hát nào đều gọi là Đào nương . Sách Công dư tiệp kí viết rằng cuối đời nhà Hồ
( 1400 - 1407 ) có người ca nương họ Đào , quê ở làng Đào Đặng , huyện Tiên Lữ ,
tỉnh Hưng Yên lập mưu giết được nhiều binh sĩ nhà Minh , cứu cho khắp vùng yên
ổn . Khi nàng chết dân làng nhớ thương lập đền thờ giọ thôn nàng ở là thôn ả đào .
Về sau những người đi hát như nàng đều gọi là ả đào .
Trên sử liệu , những sự kiện về một ca nương nổi tiếng chứng tỏ nghề nghiệp
của bà vào thời điểm lịch sử đó đã được phổ biến như thế nào tropng xã hội . Theo
đó ả đào được coi là tên gọi cổ xưa nhất của thể loại âm nhạc ca trù .
Hát ca trù : Theo sách ca trù bị khảo , ở cửa đền ngày xưa có lệ hát thẻ . Thẻ
gọi là trù , làm bằng mảnh tre ghi mức tiền ứng với giá trị mỗi thẻ , dùng để thưởng
ả đào thay cho tiền mặt . Khi hát quan viên thị lễ chia ngồi hai bên , một bên đánh
trống một bên đánh chiêng . Chỗ nào ả đào hát hay bên trống gõ một tiếng chat ,
bên chiêng gõ đáp lại thì người hát được thưởng một cái trù . Đến sáng đào kép cứ

theo trù thưởng mà tính tiền , vì vậy hát ả đào còn được gọi là hát ca trù , nghĩa là
hát thẻ . Có thể nói tên ca trù thể hiệ rõ tính thương mại của một loại hình nghệ
thuật - tức loại hình này đã đạt tầm nghệ thuật cao để trở thành một giá thị hành
hoá trong đời sống xã hội . Theo các nghệ nhân cho biết , việc thưởng thẻ không
3
chỉ riêng hco đào nương mà còn để thưởng cho cả kép hát . Tuy nhiên , thường thì
đào nương vẫn được coi là nhân vật chính . Có lẽ đây6 là đặc diểm xuất phát từ thói
quen trọng nhạc hát hơn nhạc đàn của người Việt . Lệ tính tiền thù lao bằng thẻ chủ
yếu sử dụng trong hình thức sinh hoạt hát cửa đình . Còn trong các hình thức sinh
hoạt khác người ta thường tính tiền công cho đào kép dưới dạng trọn gói theo sự
thoả thuận trước - gọi là hát khoán . Theo đó , có thể coi ca trù là tên gọi bắt nguồn
từ sinh hoạt hát cửa đình .
Hát cửa quyền : là hình thức sinh hoạt ca trù trong các nghi thức của cung
đình thời phong kiến . Theo Phạm Đình Hổ hát ca trù thời nhà Lê ở trong cung gọi
là hát cửa quyền , triều đình cắt cử hẳn một chức quan để phụ trách phần lễ nhạc
trong cung , gọi là quan Tái thường . Hát cửa quyền được dùng vào các dịp khánh
tiết của hoàng cung .
Hát cửa đình : đây là hình thức sinh hoạt ca trù phục vụ cho nghi thức tế lễ
thần thánh ở đình hay đền làng . Trên thực tế người ta còn mượn không gian đình
đền để tổ chức ca trù với mục dích giải trí đơn thuần . Song hát tế lẽ vẫn được coi
trọng hơn với cả một trình thức diễn xướng tổng hợp kéo dài .
Hát nhà trò : trong hình thức hát cửa đình bao giờ bên cạnh âm nhạc cũng có
sự kết hợp với nghệ thuật múa và một số trò diễn mang tính sân klhấu , người ta gọi
đó là bỏ bộ . Ả đào miiệng hát tay múa uốn éo lên xuống , làm điệu bộ người điên ,
người say rượu , người đi săn ... vì vừa hát vừa làm trò nên gọi là hát nhà trò . Cách
gọi này phổ biến ở các vùng Nghệ An , Hà Tĩnh .
Hát nhà tơ : so với các tên gọi khác của nghệ thuậtk ca trù , hát nhà tơ là một
thuật ngữ ít được phổ biến . Theo Việt Nam ca trù biên khảo thì thời xưa " dân
chúng ít khi tìm ả đào về nhà hát chơi , chỉ các quan khi yến tiệc trong dinh hay
trong ty ( tơ - ngày xưa dinh Tuần phủ gọi là phiên ty , dinh án sát gọi là niết ty )

mới tìm ả đào tới hát . Vì thế hát ả đào còn gọi là hát nhà tơ , nghĩa là hat trong ty
quan . Như vậy , cách gọi này xác định hình thức sinh hoạt phục vụ nhu càu giả trí
của nghệ thuật ca trù trong môi trường các nhà quan lại . Tuy nhiên , cũng trên ý
4
nghĩa ty là tơ thì hát nhà tơ còn có thể được hiểu theo nghĩa khác . Theo Phạm Đình
Hổ , đời Hồng Đức ( 1470 - 1497 ) nhà Lê , Ty giáo phường là một thiết chế do
triều đình sắp đặt để trông coi âm nhạc chốn dân gian . Về sau khái niệm này còn
được dùng phổ biến ở thế kỷ XVII , XVIII trong các văn bia , khế ước .
Hát cô đầu : theo Việt Nam ca trù biên khảo , chữ ả nghĩa là cô , ả đào nghĩa
cô đào . Theo ca trù bị khảo : " Những ả đào danh ca dạy con thành nghề , mỗi khi
đi hát đình đám , bọn con em phải trích ra một số tiền để cung dưỡng thầy gọi là
tiền Đầu . Sau người ta dùng tiếng cô thay cho tiếng ả cho rõ ràng và tiếng đầu thay
cho tiếng đào để tỏ ý tán tụng bậc danh ca lão luyệ đã dạy nhiều con em thành tài
và được tặng nhiều món tiền đầu nên gọi là Cô đầu " . Trong lịch sử của nghệ thuật
có lẽ đây là tên gọi xuất hiện muộn hơn cả cả và được giới thành thị biếta dến nhiều
hơn - trước khi thể loại này biến mất khỏi đời sống xã hội vào cuối thập niên 50
của thế kỷ XX .
Như vậy các tên gọi khác nhau của ca trù hình thành theo các nguyên tắc :
danh từ chr người nghệ sĩ thực hành âm nhạc được dùng như3 danh từ chỉ thể loại ;
tên gọi thể loại xuất phát từ địa điểm , không gian văn hoá sinh hoạt ; tên gọi thể
loại gắn với danh từ phiếm chỉ chế độ tiền cho đào nương lão thành ; xuất phát từ
hành động diễn xướng sân khấu ; hình thành từ danh từ chỉ phương thức chi trả thù
lao cho đào kép .
Có thể nói ten gọi khác nhau của môn nghệ thuật ca trù đã cho thấy đây là
một thể loại âm nhạc hết sức đặc biệt . Trong nền âm nhạc dân tộc cổ truyền Việt
Nam , không có một thể loại nào lại mang nhiều tên gọi như vậy , mỗi tên gọi lại
mang một hàm ý khác nhau .
II. ĐÔI ĐIỀU VỀ NHẠC CỤ TRONG CA TRÙ
- Phách : Tiếng phách và tiếng hát của đào là một nét độc đáo của ca trù.
Phách trù không chỉ giữ nhịp cho lời hát mà nó thực sự là một tiếng hát khác của

người đào nương . Phách ca trù có 5 khổ , người ca nữ trước tiên phải học cho thật
thành thạo 5 khổ phách . Yêu cầu là phải gõ phách thật đúng cao độ , có thể tập
5
phách với đàn . Sau khi gõ phách thành thạo mới tập hát . Phách làm bằng một ống
tre già , chẻ đôi lấy nửa ống dài 20cm . Cổ phách trpong ca trù gồm bàn phách bằng
tre và 3 lá phách ( 2 lá dẹt và 1 lá tròn ) một cái gọi là lá dơn 2 cái gtọi là lá kép .
Ca trù chỉ có 5 khổ phách nhưng phách lại là một yếu tố rất cơ bản để đánh
giá trình độ của người ca nữ . Người ca nữ giỏi là người biết biến hoá tiếng phách
của mình tuỳ theo từng bài thơ hoặc theo ý riêng của mình . Người trong nghề nghe
tiếng phách là biết cá tính sáng tạo của người ca nữ . Song điều quan trọng nhât là
cho dù biến hoá thế nào thì phách ca trù vẫn có trong khuôn khổ nhất định , và việc
biến hoá này là để phục vụ cho việc phô diễn sự tinh tế của bài thơ mà nghệ sĩ
muốn thể hiện.
- Đàn đáy : đây là loại nhạc cụ đặc biệt chỉ có trong ca trù và theo các nhà
nghiên cứu thì nó là loại nhạc cụ chỉ có duy nhất ở Việt Nam . Nhà nghiên cứu
Nguyễn Thuỵ Loan trong bài Mỹ thuật cổ nói gì về thời điểm sớm nhất của Hát ả
đào đã viết :" Cây đàn đáy gắn bó với một thể loại ca nhạc độc đáo của người Việt
và với chỉ một thể loại mà thôi ; bởi vậy trở thành một nhân tố đặc trưng khu biệt
Hát ả đào với các thể loại ca nhạc khác " .
Cây đàn đáy có thể gọi là một sáng tạo thuần Việt . Gọi là đáy vì có thể nó
không có đáy để thoát âm , cũng có thể vì chữ đới đọc chệch thành chữ đáy . Đới là
dây đeo đàn mà người chơi đàn đáy ngày xưa dùng để đứng đánh cho đỡ mỏi . Khi
chơi đàn trong ca trù ở cửa đình đàn đáy có thùng cộng hưởng hình thang . Cần đàn
dài khoảng 1,16m , chia đôi nửa dưới sát bầu đàn gắn 11 phím cao để người chơi
đàn có thể rung và nhấn sâu tạo âm . Trên càn đàn có gân phẳng giúp cho tiêng đàn
ngọt , bay bổng và gân chìm giúp cho tiếng đàn sâu lắng trầm tư . Dây đàn làm
bằng sợ tơ tằm . Đàn mắc 3 dây cách nhau quãng 5 , dây có âm thấp nhất gọi là dây
đài (hò) , dây giữa gọi là dây trung (xang) , dây cao gọi là dây tiếu (phàn). Đàn đáy
âm đục trầm ấm thanh tao và sâu lắng , nghe rất gần mà như vẳng xa .
6

- Trống chầu là một nhạc khí truyền thống , có đường kính khoảng 15cm ,
tang trống làm bằng gỗ mít cao khoảng 18cm , dùi trống còn gọi là roi chầu được
lam bằng gỗ quý hay gỗ găng .
Tiếng trống chầu là để ngắt câu , giục hát , khen câu thơ hay , thưởnh giọng
hát đẹp , thưởng cho nhịp phách tuyệt kỹ hoặc cho cung đàn ngọt ngào . Người
quan viên là người cầm chầu , đánh trống chầu là một nghệ thuật . Người có trình
độ thẩm âm cao và có sự am hiểu về văn học thì mới có thể cầm chầu để thưởng
thức khên chê đích đáng .Trong lối hát tuồng , hát chèo cũng có sự khen chê ,
thưởng phạy như trong lối hat ca trù . Song trống chầu trong ca trù thì biểu thị sự
tinh tế rất cao . Vì trống chầu ca trù là để "bình phẩm " cả tiếng phách, tiếng hát ,
tiếng đàn và hơn thế nữa là lời thơ . Người cầm chầu vừa phải bộc lộ khả năng
thẩm âm , lại vừa phải bộc lọ khả năng cảm thụ văn chương nữa , do vậy tiếng
trống chầu rất giàu cá tính sáng tạo của người thưởnh thức . Vì thế đi nghe hát ả
đào ở các ca quan là một thú chơi rất phong lưu của người xưa .


7

×