Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Sự vận dụng của đảng ta trong quá trình đổi mới và sự vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức với việc học và hành của sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.67 KB, 22 trang )

Phần 1:Mở đầu Trang
Phần 1: MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Thế giới xung quanh ta có vô vàn sự vật và hiện tượng phong phú và đa dạng.
Nhưng dù phong phú và đa dạng đến đâu thì cũng quy về hai lĩnh vực: vật chất và ý
thức. Có rất nhiều quan điểm triết học xoay quanh vấn đế về mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức, nhưng chỉ có quan điểm triết học Mác - Lênin là đúng và đầy đủ đó là:
vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức,
đồng thời ý thức tác động trở lại vật chất.
Với mong muốn tìm hiểu thêm về vấn đề này em chọn đề tài “Mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức, ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này”.
1.2. Mục đích, yêu cầu
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, ý nghĩa phương pháp
luận của vấn đề này, từ đó liên hệ với thực tế với Sự vận dụng của Đảng ta trong
quá trình đổi mới và Sự vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Với việc
học và hành của sinh viên hiện nay.
Tiểu luận này được hoàn thành chủ yếu do nghiên trên giáo trình những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, sách báo và một số văn kiện của đại hội Đảng.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được tiến hành dựa trên phương pháp duy vật biện chứng, phương
pháp logic lịch sử và phương pháp liên ngành.
1.4. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận được tiến hành trong tháng 10/2011, và hoàn thành qua quá trình
nghiên cứu giáo trình tại thư viện cùng một số tạp chí, do thời gian có hạn nên em chỉ
đi sâu vào nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ý nghĩa phương pháp luận
của vấn đề này.
1.5. Kết quả nghiên cứu
 Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN
1
Phần 1:Mở đầu Trang


Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức
và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Não người là dạng vật chất có tổ chức cao, là cơ quan
phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của
bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào não người, là hình ảnh của thế giới
khách quan. Thế giới khách quan là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung của ý
thức.
 Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất
Ý thức có tính độc lập tương đối so với vật chất, có tính năng động sáng tạo nên
có thể tác động trở lại vật chất, góp phần cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt
động thực tiễn của con người; ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan, có tác dụng
thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất; ý
thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan, ở mức độ nhất định, có thể kìm hãm
hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội.
Sự tác động của vật chất và ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động
của con người. Con người dựa trên tri thức của mình về thế giới khách quan, hiểu biết
những quy luật khách quan từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp thực hiện
và ý chí thực hiện mục tiêu ấy.
Vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của ý thức con người trong quá trình cải tạo
thế giới hiện thực được phát triển đến mức độ nào đi chăng nữa vẫn phải dựa trên sự
phản ánh thế giới khách quan và các điều kiện khách quan.
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN
2
Phần 2:Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Trang
Phần 2:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC.
2.1. Vật chất
2.1.1. Định nghĩa vật chất
 Quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất: Chủ nghĩa duy vật
trước Mác có rất nhiều định nghĩa về vật chất, trong đó nổi lên các định nghĩa điển

hình sau đây:
- Thời kì cổ đại: đồng nhất vật chất với một dạng vật cụ thể:
Talet cho rằng vật chất là nước.
Anaximen cho rằng vật chất là không khí.
Đêmôcrit cho rằng vật chất là nguyên tử.
=> Quan niệm vật chất thời kì cổ đại mang tính trực quan, cảm tình. Nó chỉ có
tác dụng chống lại quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo.
- Thời kí cận đại thế kỷ XVII – XVIII: đồng nhất vật chất với nguyên tử hoặc
thuộc tính của vật thể.
VD: Niutơn cho rằng khối lượng là vật chất.
-Chủ nghĩa duy vật siêu hình: xem xét thế giơí trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại
do sự tác động của phương pháp tư duy siêu hình, tư duy máy móc do sự phát triển của
cơ học
Đại biểu: ph.Bêcơn, T.Hốpxơ….
=> Những nhận định trên không hiểu chính xác bản chất của các hiện tượng ý
thức cũng như mối quan hệ ý thức với vật chất
 Định nghĩa vật chất của Lênin
Vật chất là phạm trù triết học phức tạp và có nhiều quan niệm khác nhau về nó.
Nhưng theo Lênin định nghĩa: “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN
3
Phần 2:Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Trang
Lênin chỉ rõ rằng, để định nghĩa vật chất không thể theo cách thông thường vì
khái niệm vật chất là khái niệm rộng nhất. Để định nghĩa vật chất Lênin đã đối lập vật
chất với ý thức, hiểu vật chất là thực tại khách quan bên ngoài ý thức, người trong cảm
không phụ thuộc vào ý thức, vật chất là cái gây nên cảm giác khi tác động vào các giác
quan, còn cảm giác, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.
Khi định nghĩa vật chất là phạm trù triết học, Lênin một mặt muốn chỉ rõ vật

chất là khái niệm rộng nhất, muốn phân biệt tư cách là phạm trù triết học, là kết qủa
của sự khái quát và trừu tượng với những “hạt nhân cảm tính”. Vật chất với tư cách là
một phạm trù triết học không có những đặc tính cụ thể có thể cảm thụ được. Định
nghĩa vật chất như vậy khắc phục được những quan niệm siêu hình của chủ nghĩa duy
vật đồng nhất vật chất với hình thức biểu hiện cụ thể của nó.
Lênin cho rằng vật chất vốn tự nó có, không thể tiêu diệt được, nó tồn tại bên
ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác, ý thức con người, vật chất là một thực tại khách
quan. Khác với quan niệm ý niệm tuyệt đối của chủ nghĩa duy tâm khách quan,
“thượng đế” của tôn giáo…Vật chất không phải là lực lượng siêu tự nhiên tồn tại lơ
lửng ở đâu đó, trái lại phạm trù vật chất kết quả của sự khái quát sự vật, hiện tượng cụ
thể, và do đó các đối tượng vật chất là có thật, hiện thực đó có khả năng tác động vào
giác quan để gây ra cảm giác, và nhờ đó mà ta có thể biết được, hiểu được và nắm bắt
sự vật này. Định nghĩa của Lênin đã khẳng định được câu trả lời về hai mặt của vấn đề
cơ bản của triết học.
Hơn thế nữa Lênin còn khẳng định cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác. Khẳng định như vật một mặt muốn nhấn mạnh tính
thứ nhất của vật chất, vai trò quyết định của nó với vật chất, và mặt khác khẳng định
khả năng nhận thức thế giới khách quan của con người. Nó không chỉ phân biệt chủ
nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, với thuyết không thể biết mà còn phân biệt chủ
nghĩa duy vật với nhị nguyên luận.
Như vậy, chúng ta thấy rằng định nghĩa vật chất của Lênin là hoàn toàn triệt để,
nó giúp chúng ta xác định được nhân tố vật chất trong đời sống xã hội, có ý nghĩa trực
tiếp định hướng cho nghiên cứu khoa học tự nhiên giúp ngày càng đi sâu vào các dạng
cụ thể của vật chất trong giới vi mô. Nó giúp chúng ta có thái độ khách quan trong suy
nghĩ và hành động.
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN
4
Phần 2:Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Trang
2.1.2. Các đặc tính của vật chất
 Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật

chất.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là sự biến đối nói
chung chứ không phải là sự dịch chuyển trong không gian. Ph.Ăngghen cho rằng vận
động là một phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, gồm tất
cả mọi sự thay đổi trong mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ. Vận động có 5 hình thức vận
động chính là cơ-hóa-lý-sinh-xã hội. Các hình thức vận động này thực hiện là tác động
qua lại với những hình thức vận động khác, trong đó vận động cao bao gồm vận thấp
nhưng không thể coi hình thức vận động cao là tổng số đơn giản các hình thức vận động
thấp.
Thế giới khách quan bao giờ cũng tồn tại không ngừng, không thể có vật chất
không vận động, tức vật chất tồn tại. Vật chất thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn
tại của mình. Ăngghen nhận định rằng các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất,
chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động mới có thể lấy được thuộc tính của nó.
Trong thế giới vật chất từ các hạt cơ bản trong vi mô trong hệ thống hành tinh khổng lồ.
Bất cứ một dạng vật chất nào cũng có thể là một thể thống nhất có kết cấu xác
định gồm những bộ phận nhân tố khác nhau, cùng tồn tại ảnh hưởng và tác động lẫn
nhau gây ra nhiều biến đối. Nguồn gốc vận động do những nguyên nhân bên trong, vận
động vật chất là tự thân vận động.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, không thể có vận động bên ngoài vật
chất. nó không do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt được nó do đó nó được bảo toàn
cả số lượng lẫn chất lương. Khoa học đã chứng minh rằng nếu một hình thức vận động
nào đó mất đi thì tất yếu nó nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế. Các hình
thức vận động chuyển hóa lần nhau còn vận động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại.
Mặc dù vận động luôn ở trong quá trình không ngừng nhưng điều đó không loại
trừ mà còn bao hàm cả hiện tượng đứng yên tương đối, không có nó thì không có sự
phân hóa thế giới vật chất thành các sự vật, hiện tượng phong phú và đa dạng. Ăngghen
khẳng định rằng khả năng đứng im tương đối của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thì
là những điều kiện chủ yếu của sự phân hóa vật chất. Nếu vận động là biến đổi của các
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN
5

Phần 2:Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Trang
sự vật hiện tượng thì đứng im là sự ổn định, sự bảo toàn tính quy định của sự vật hiện
tượng. Đứng im chỉ một trạng thái vận động, vận động trong thăng bằng, trong sự ổn
định tương đối. Trạng thái đứng im còn được biểu hiện như là một quá trình vận động
trong phạm vi sự vật ổn định, chưa biến đổi, chỉ là tạm thời vì nó chỉ xảy ra trong một
thời gian nhất định, hỉ xảy ra với một hình thức vận động trong một lúc nào đó, chứ
không phải với mọi hình thức vận động, chỉ là tương đối còn vận động là tuyệt đối. Vận
động riêng biệt có xu hướng phá hoại sự cân bằng riêng biệt làm cho các sự vật luôn
biến đổi chuyển hóa nhau.
 Không gian và thời gian là những hình tức tồn tại của vật chất\\
Không gian phản ánh thuộc tính của các đối tượng vật chất có vị trí, có hình
thức kết cấu, có độ ngắn dài cao thấp. Không gian biểu hiện sự tồn tại và tách biệt của
các sự vật với nhau, biểu hiện qua tính chất và trật tự của chúng, còn thời gian phản
ánh thuộc tính của các quá trình vật chất diễn ra nhanh hay chậm, kế tiếp nhau theo
một trình tự nhất định. Thời gian biểu hiện trình độ tốc độ của quá trình vật chất, tính
tách biệt giữa các giai đoạn khác nhau của quá trình đó, trình tự xuất hiện và mất đi
của các sự vật, hiện tượng.
Không gian và thời gian là những hình thức cơ bản của vật chất đang vận động,
Lênin đã chỉ ra trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động. Không gian
và thời gian tồn tại khách quan, nó không phải bất biến, không thể đứng ngoài vật
chât, không có không gian trống rỗng, mà nó có sự biến đổi phụ thuộc vào vật chất
vận động.
 Tính thống nhất vật chất của thế giới
Chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tinh thần có trước, quyết định vật chất còn duy
vật thì ngược lại. Triết học Mác-Lênin khẳng định rằng chỉ có một thế giới duy nhất là
thế giới vật chất đồng thời còn khẳng định rằng thế giới đều là những dạng cụ thể của
vật chất, có liên hệ vật chất thống nhất với nay như liên hệ về cơ cấu tổ chức, lịch sử
phát triển và đều phải tuân thủ theo quy luật khách quan của thế gíới vật chất, do đó nó
tồn tại vĩnh cửu, không do ai sinh ra và cũng không mất đi trong thế giới đó, không có
gì khác ngoài những quá trính vật chất đang biến đổi là chuyển hóa lẫn nhau, là

nguyên nhân và kết quả của nhau.
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN
6
Phần 2:Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Trang
Quan điểm triết học Mác - Lênin đã khẳng định rong mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức thì vật chất và ý thức tác động trở lại vật chất để làm rõ quan điểm này
chúng ta chia làm hai phần.
2.2. Ý thức
2.2.1. Kết cấu của ý thức
Cũng như vật chất có rất nhiều quan niệm về ý thức theo các trường phái khác
nhau. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là đặc
tính và là sản phẩm của vật chất, là sự phản ánh khách quan vào bộ óc con người
thông qua lao động và ngôn ngữ. Mác nhấn mạnh rằng tinh thần ý thức chẳng qua chỉ
là cái vật chất được duy truyền vào bộ óc con người và được cải biến trong đó, ý thức
là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp gồm ý thức, tri thức, tình cảm, ý
chí trong đó tri thức là quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức, vì sự hình
thành và phát triển của ý thức có liên ệ mật thiết với quá trình con người nhận thức và
cải biển giới tự nhiên. Tri thức càng được tích lũy con người càng đi sâu vào bản chất
của sự vật và cải tạo sự vật có hiệu quả hơn, tính năng động của ý thức nhờ đó mà tăng
hơn. Việc nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản quan trọng có y nghĩa chống quan điểm
đơn giản hơn coi ý thức là niềm tin mù quáng. Tuy nhiên việc nhấn mạnh yếu tố tri
thức cũng không đồng nghĩa với việc phủ nhận coi nhẹ yếu tố vai trò tình cảm ý chí.
Tự ý thức cũng là một yếu tố quan trọng mà chủ nghĩa duy tâm coi nó là một
thực thể độc lập có sẵn trong cá nhân, biểu hiện xu hướng về bản thân mình, tự khẳng
định cái tôi riêng biệt tách rời xã hội. Trái lại chủ nghĩa duy vật biện chứng tự ý thức
là ý thức hướng về nhận thức bán thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên ngoài.
Khi phản ánh thế giới khách quan con người tự phân biệt mình, đối lập mình với thế
giới đó là sự nhận thức mình như là một thực thể vận động, có cảm giác, tư duy có các
hành vi đạo đức và vị trí xã hội. Mặt khác sự giao tiếp xã hội và hoạt động thực tiễn xã
hội đòi hỏi con người nhận rõ bản thân mình và tự điều chính theo các quy tắc tiêu

chuẩn mà xã hội đề ra. Ngoài ra văn hóa cũng đóng vai trò cái gương soi giúpc ho con
người tự ý thức bản thân.
Vô thức là một hiện tượng tâm lý, nhưng có thể liên quan đến hoạt động xảy ra
ở ngoài phạm vi của ý thức. Có 2 loại vô thức: loại thứ nhất liên quan đến các hành vi
chưa được con người ý thức, loại thứ 2 liên quan đến hành vi trước kia đã được ý thức
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN
7
Phần 2:Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Trang
nhưng do lặp lại nên trở thành thói quen, có thể diễn ra tự động bên ngoài sự chỉ đạo
của ý thức. Vô thức ảnh hưởng đến nhiều phạm vi hoạt động của con người. Trong
những hoàn cảnh đó nó có thể giúp con người giảm bớt sự căng thẳng trong hoạt động.
Việc tăng cường rèn luyện để biến thành hành vi tích cực thành thói quen, có vai trò
quan trọng trong đời sống.
2.2.2. Nguồn gốc của ý thức
2.2.2.1. Nguồn gốc tự nhiên:
Trước Mác nhiều nhà duy vật tuy không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của ý
thức, song do khoa học chưa phát triển nên cũng đã không giải thích đúng nguồn gốc
và bản chất của ý thức. Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý
học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính
của vật chất nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một
dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của
ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc người. Hoạt động ý thức của con người diễn ra
trên sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Ý thức phụ thuộc vào hoạt động
bộ óc người, do đó khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ không bình thường
hoặc bị rối loạn. Vì vậy, không thể tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ óc. Ý thức
không thể diễn ra, tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới
bên ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức. Phản ánh là
thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất, thuộc tính này được biểu hiện
ra trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau, phản ánh là

sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả
hai vật – vật tác động và vật nhận tác động. Đồng thời quá trình phản ánh bao hàm quá
trình thông tin. Nói cách khác, vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật
tác động. Đây là điều hết sức quan trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ nảy sinh ở
giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự xuất hiện của con người. Ý
thức là ý thức của con người, nằm trong con người, không thể tách rời con người. Ý
thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất – thuộc tính phản ánh – phát triển thành.
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN
8
Phần 2:Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Trang
Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất, nội
dung của nó là thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản ánh. Ý thức và sự
phản ánh thế giới bên ngoài vào trong bộ óc người. bộ óc người là cơ quan phản ánh
song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức. Không có sự tác động của thế giới
bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra.
Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc, đó là nguồn gốc
tự nhiên của ý thức.
2.2.2.2. Nguồn gốc xã hội:
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng,
không thể thiếu được, song chưa đủ điều kiện quyết định cho sự ra đời cùng với quá
trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội, ý thức
là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nó phụ thuộc và xã hội, và ngay từ đầu đã mang
tính chất xã hội.
Quá trình hình thành ý thức không phải là quá trình con người thu nhận thụ
động. Nhờ có lao động con người tác động vào các đối tượng hiện thực, bắt chúng
phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình thành
những hiện tượng nhất định và các hiện tượng này tác động vào bộ óc người. ý thức
được hình thành không phải chủ yếu là do tác động thuần túy, tự nhiên của thế giới

khách quan vào bộ óc người, mà chủ yếu là do hoạt động của con người cải tạo thế
giới khách quan làm biến đổi thế giới đó. Quá trình hình thành ý thức là kết quả hoạt
động, chủ động của con người. như vậy, không phải bỗng nhiên thế giới khách quan
tác động vào bộ óc người để con người có ý thức mà trái lại, con người có ý thức chính
vì con người chủ động tác động vào thế giới thông qua hoạt động thực tiễn để cải tạo
thế giới, con người chỉ có ý thức do có tác động vào thế giới. Nói cách khác, ý thức chỉ
được hình thành thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ tác động vào thế
giới mà con người khám phá ra những bí mật của thế giới, ngày càng làm phong phú
và sâu sắc ý thức của mình về thế giới.
Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ vào lao động mà ý thức. Không có
hệ thống tín hiệu này – tức ngôn ngữ , thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được.
Ngôn ngữ, theo C. Mác là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư
tưởng, không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức.
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN
9
Phần 2:Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Trang
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động , là thực tiển xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách
quan vào trong bộ óc người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý
thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
2.2.3. Bản chất của ý thức
Ý thức là cái phản ảnh thế giới khách quan, nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ
quan, là thực tại chủ quan, không có tính vật chất. Ý thức là hình ảnh phi cảm tính của
các đối tượng vật chất có tồn tại cảm tính. Nếu coi ý thức cũng là một hiện tượng vật
chất thì sẽ lẫn lộn giữa vật chất và ý thức , làm mất ý nghĩa của sự đối lập giữa vật chất
và ý thức, từ đó dẫn đến làm mất đi sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm.
Tuy nhiên, ý thức không phải là bản sao giản đơn, thụ động máy móc của sự
vật. Ý thức là của con người, mà con người là một thực thể xã hội năng động sáng tạo.
Ý thức phản ảnh thế giới khách quan trong quá trình con người tác động cải tạo thế

giới. Do đó, ý thức con người là sự phản ảnh có tính năng động, sáng tạo. Ý thức là sự
phản ảnh sáng tạo lại hiện thực, theo nhu cầu thực tiển xã hội, vì vậy ý thức “Chẳng
qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người, và được cải biến đi ở
trong đó” (C. Mác và Ph. Ăngghen : Toàn tập, NXB. CTQG, HN, 1993, Trang 35).
Nói cách khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Bản tính phản ánh thể hiện về thế giới thông tin bên ngoài, là biểu thị nội dung
được từ vật gây ra tác động và được truyền đi trong quá trình phản ánh. Bản tính của
nó quy định mặt khách quan của ý thức, tức là phải lấy khách quan làm tiền đề, bị nó
quy định nội dung phản ánh là thế giới khách quan.
Ý thức ngay từ đầu đã gắn liền với lao động, trong hoạt động sáng tạo cải biến
và thống trị tự nhiên của con người và đã trở thành mặt không thể thiếu của họat động
đó. Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ nó không chụp lại một cách thụ động
nguyên xi mà gắn liền với cải biến, quá trình thu thập thông tin gắn liền với quá trình
xử lý thông tin. Tính sáng tạo của ý thức còn thể hiện ở khả năng gián tiếp khái quát
thế giới khách quan ở quá trình chủ động, tác động vào thế giới đó
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN
10
Phần 2:Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Trang
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, song đây là
sự phản ảnh đặc biệt – phản ảnh trong quá trình con người, cải tạo thế giới. Quá trình ý
thức là quá trình thống nhất của 3 mặt sau đây :
- Một là trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này
mang tính chất hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết.
- Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Thực chất đây là quá trình “Sáng tạo lại” hiện tượng của ý thức, theo nghĩa mã hóa các
đối tượng vật chất thành các ý thức tinh thần phi vật chất.
- Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện
thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiển biến cái quan niệm thành cái thực tại,
biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực.
Trong giai đoạn này con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công cụ để

tác động vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình. Điều đó càng
nói lên tính năng động sáng tạo của ý thức.
Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng tạo của ý
thức là sáng tạo của sự phản ảnh, theo qui luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh,
mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sự sáng tạo của ý thức không
đối lập , loại trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất với phản ánh, trên cơ
sở phản ánh. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức. Ý thức trong
bất cứ trường hợp nào - cũng là sự phản ánh và chính thực tiển xã hội của con người
tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ óc.
2.2.4. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Lênin đã chỉ ra rằng, sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối
trong phạm vi hạn chế: trong trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận
cơ bản là thừa nhận cái gì là cái có trước, cái gì là cái có sau. Ngoài giới hạn đó thì
không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó chỉ là tương đối. Như vậy để phân ranh
giới giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, để xác định bản tính và sự thống
nhất của thế giới cần có sự đối lập tuyệt đối giữa vật chất và ý thức trong khi trả lời cái
nào có trước cái nào quyết định cái nào. Không như vậy sẽ lẫn lộn hai đường lối cơ
bản trong triết học, lẫn giữa vật chất và ý thức và cuối cùng sẽ xa rời quan điểm duy
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN
11
Phần 2:Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Trang
vật. Song sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ là sự tương đối như những nhân tố,
những mặt không thể thiếu được trong hoạt động của con người, đặc biệt là trong hoạt
động thực tiễn của con người, ý thức có thức có thể cải biến được tự nhiên, thâm nhập
vào sự vật, hiện thực hóa những mục đích mà nó đề ra cho hoạt động của mình. Điều
này bắt nguồn từ chính ngay bản tính phản ánh sáng tạo và xã hội của ý thức, và chính
nhờ bản tính đó mà chỉ có con người có ý thức mới có khả năng cải biến và thống trị
tự nhiên, bắt nó phục vụ con người. Như vậy tính tương đối trong sự đối lập giữa vật
chất và ý thức thể hiện ở tính độc lập tương đối tính năng động của ý thức.
 Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức.

Lê- Nin đã đưa ra một định nghĩa toàn diện sâu sắc và khoa học về phạm trù vật
chất “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại phản ánh và
được tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Từ định nghĩa của Lê Nin đã khẳng định
vật chất là thực tại khách quan vào bộ não của con người thông qua tri giác và cảm
giác. Thật vậy vật chất là nguồn gốc của ý thức và quyết định nội dung của ý thức.
Thứ nhất, phải có bộ óc của con người phát triển ở trình độ cao thì mới có sự
ra đời của ý thức. Phải có thể giới xung quanh là tự nhiên và xã hội bên ngoài con
người mới tạo ra được ý thức, hay nói cách khác ý thức là sự tương tác giữa bộ não
con người và thế giới khách quan. Ta cứ thử giả dụ, nếu một người nào đó sinh ra mà
bộ não không hoạt động được hay không có bộ não thì không thể có ý thức được.
Cũng như câu chuyện cậu bé sống trong rừng cùng bầy sói không được tiếp xúc với xã
hội loài người thì hành động của cậu ta sau khi trở về xã hội cũng chỉ giống như những
con sói. Tức là hoàn toàn không có ý thức.
Thứ hai, là phải có lao động và ngôn ngữ đây chính là nguồn gốc xã hội của ý
thức. Nhờ có lao động mà các giác quan của con người phát triển phản ánh tinh tế hơn
đối với hiện thực ngôn ngữ là cần nối để trao đổi kinh nghiệm tình cảm, hay là
phương tiện thể hiện ý thức. Ở đây ta cũng nhận thấy rằng nguồn gốc của xã hội có ý
nghĩa quyết định hơn cho sự ra đời của ý thức. Vật chất là tiền đề cho sự tồn tại và
phát triển của ý thức nên khi vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN
12
Phần 2:Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Trang
VD1: Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường trên cơ sở hoạt động sinh lý
thần kinh của bộ não người. Nhưng khi bộ não người bị tổn thương thì hoạt động của ý
thức cũng bị rối loạn.
VD2. Ở Việt Nam, nhận thức của các học sinh cấp 1, 2, 3 về công nghệ thông
tin là rất yếu kém sở dĩ như vậy là do về máy móc cũng như đội ngũ giáo viên giảng
dậy còn thiếu. Nhưng nếu vấn đề về cơ sở vật chất được đáp ứng thì trình độ công
nghệ thông tin của các em cấp 1, 2, 3 sẽ tốt hơn rất nhiều.

VD2 Đã khẳng định điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức chỉ là như thế đó.
 Ý thức tác động trở lại vật chất.
Trước hết ta đưa ra định nghĩa của ý thức: ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế
giới khách quan vào trong bộ não con người thông qua lao động mà ngôn ngữ. Nó là
toàn bộ hoạt động tinh thần của con người như: Tình cảm yêu thương, tâm trạng, cảm
súc, ý trí, tập quán, truyền thống, thói quen quan điểm, tư tưởng, lý luận, đường lối,
chính sách, mục đích, kế hoạch, biện pháp, phương hướng. Các yếu tố tinh thần trên
đều tác động trở lại vật chất cách mạng mẽ.
VD. Nếu tâm trạng của người công nhân mà không tốt thì làm giảm năng suất
của một dây chuyền sản xuất trong nhà máy. Nếu không có đường lối cách mạng đúng
đắn của đảng ta thì dân tộc ta cũng không thể giảng thắng lơị trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và Mĩ cũng như Lê - Nin đã nói “ Không có lý luận cách mạng thì
cũng không thể có phong trào cách mạng”.
Như vậy ý thức không hoàn toàn phụ thuộc vào vật chất mà ý thức có tính độc
lập tương đối vì nó có tính năng động cao nên ý thức có thể tác động trở lại. Vật chất
góp phần cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan có tác dụng thấy đẩy hoạt động
thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất. Khi phản ánh đúng
hiện thực khách quan thì chúng ta hiểu bản chất quy luật vận động của các sự vật hiện
tượng trong thế giới quan.
VD1. Hiểu tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở hơn 10000C thì con người
tạo ra các nhà máy gang thép để sản xuất cách loại thép với đủ các kích cỡ chủng loại,
chứ không phải bằng phương pháp thủ công xa xưa.
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN
13
Phần 2:Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Trang
VD2. Từ nhận thức đúng về thực tại nền kinh tế của đất nước. Tư sản đại hội
VI, đảng ta chuyển nền kinh tế từ trị cung, tự cấp quan liêu sang nền kinh tế thị trường,
nhờ đó mà sau gần 20 năm đất mới bộ mặt đất nước ta đã thay đổi hẳn.
Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan có thể kìm hãm hoạt động

thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới quan.
VD. Nhà máy sử lý rác thải của Đồng Tháp là một ví dụ điển hình, từ việc
không khảo sát thực tế khách quan hay đúng hơn nhận thức về việc sử lý rác vô cơ và
rác hữu cơ là chưa đầy đủ vì vậy khi vừa mới khai trương nhà máy này đã không sử lý
nổi và cho đến nay nó chỉ là một đống phế liệu cần được thanh lý.
2.3. Ý nghĩa phương pháp luận và một số vận dụng thực tế
2.3.1. Ý nghĩa phương pháp luận
Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải xuất
phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và tuân theo quy luật khách quan.
Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải
chú ý giáo dục và nâng cao nhận thức cho con người.
Mác nói: “Cố nhiên vũ khí phê phán không thể thay thế sự phê phán bằng vũ
khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất, nhưng lý luận một
khi thâm nhập được vào quần chúng thì sẽ trở thành lực lượng vật chất”.
Chống quan điểm duy ý chí: V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được
lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm
xuất phát cho chiến lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý
chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh duy ý chí.
Bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận thức nói chung và sự hạn
chế trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói riêng. Do đó, Lênin đã gọi căn
bệnh này "là sự mù quáng chủ quan", là sai lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy
tâm một cách không tự giác. Về lý luận, bệnh chủ quan duy ý chí có nhiều biến thể
phức tạp và trở thành mầm mống cho nhiều căn bệnh mới trong nhận thức. Song vẫn
có khả năng được ngăn ngừa và loại bỏ.
2.3.2. Một số vận dụng thực tế
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN
14
Phần 2:Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Trang
2.3.2.1. Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội “Đảng ta đã phạm sai lầm chủ quan

duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan” trong việc xác định mục tiêu, bước đi về xây
dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế… Căn bệnh
đó biểu hiện ở chỗ, chúng ta đã chủ quan trong việc đánh giá những khả năng hiện có,
vì thế mà sinh ra những ảo tưởng về tốc độ cải tạo, phát triển kinh tế, và do đó, dẫn
đến việc đề ra những chỉ tiêu quá cao trong xây dựng cơ bản và phát triền sản xuất.
Trong cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đổi mới, chúng ta đã không có được
một đường lối, chính sách phát triển kinh tế thận trọng và khoa học dẫn đường. Sai
lầm chủ quan duy ý chí đó là sự vi phạm nguyên tắc khách quan của sự xem xét, trái
với tinh thần của phép biện chứng duy vật.
Trước tình hình nền kinh tế miền Bắc còn bị phá hoại, nền kinh tế miền Nam bị
đảo lộn và suy sụp, lạm phát trầm trọng, Đại hội Đảng lần thứ IV lại đề ra những chỉ
tiêu kế hoạch năm 1976 - 1980 quá cao và phát triển sản xuất quá khả năng của nền
kinh tế, như: năm 1975, phấn đấu đạt 21 triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển,1 triệu
hecta khai hoang,1triệu 200 hecta rừng mới trồng ,10 triệu tấn than sạch, 2 triệu tấn xi
măng Đến hết năm 1980, nhiều chỉ tiêu kinh tế chỉ đạt khoảng 50-60% mức đề ra,
nền kinh tế tăng trưởng rất chậm chạp, tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân 1,5%,
công nghiệp tăng 2,6%, nông nghiệp giảm 0,15%. Đại hội Đảng lần thứ V, cũng chưa
tìm ra được đầy đủ những nguyên nhân đích thực sự trì trệ trong nền kinh tế của nước
ta và cũng chưa đề ra các chủ trương, chính sách và toàn diện về đổi mới, nhất là về
kinh tế. Tại Đại hội Đảng VI, Đảng đã tự phê bình một cách nghiêm khắc, đã phân tích
đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội, đề ra các định hướng và
xác định chủ trương đổi mới đặc biệt là đổi mới về kinh tế, thực hiện mục tiêu ba
chương trình kinh tế: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu Vì vậy,
từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và từ kinh nghiệm thành công và thất bại trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, Đại hội Đảng lần thứ VII chỉ ra những tồn tại lớn cần
giải quyết như vấn đề lạm phát, thiếu việc làm, trong điều hành quản lý còn nhiều sơ
hở, lúng túng Đặc biệt Đại hội cũng xác định: “Về quan hệ đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị phải tập trung sức đổi mới kinh tế, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của nhân
dân về đời sống và làm việc, các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN

15
Phần 2:Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Trang
của củ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới trong lĩnh vực
chính trị”. Đại hội đã rút ra bài học quan trọng là: ”Mọi đường lối,chủ trương của
Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan và hành động theo quy
luật khách quan”.
Đất nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa,
Đảng ta chủ trương “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững”, nâng cao trình độ dân trí, trình độ tri thức và tay nghề
cho người lao động. Muốn vậy “phải khơi dậy trong dân lòng yêu nước, ý chí quật
cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà khỏi nghèo nàn,
lạc hậu” - tức phát huy tính năng động của ý thức. Đẩy mạnh đấu tranh trên lĩnh vực tư
tưởng, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tiếp tục làm sang tỏ con đường đi lên
CNXH ở nước ta. Nâng cao công tác tuyên truyền giáo dục lí luận chính trị để tạo nên
sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong Nhân dân.
2.3.2.2. Sự vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Với việc học và hành
của sinh viên hiện nay
 Những mặt tích cực: Người Việt Nam ta cũng có truyền thống hiếu học, và
bản năng thông minh. Nền giáo dục Việt Nam ta mặc dù gặp nhiều khó khăn, thiếu
thốn về cơ sở vật chất trước, trong và sau chiến tranh,xong đến nay chúng ta đã đạt
được nhiều thành tựu đáng tự hào. Ta đã đào tạo được một đội ngũ nghiên cứu khoa
học khá,giỏi và có nhiều cống hiến quan trọng cho cộng đồng khoa học trong nước và
quốc tế, phát minh nhiều thành tựu công nghệ hiện đại. Nhờ những công nghệ mới
hiện đại ấy giúp chúng ta nắm bắt và tiếp cận nguồn tri thức mới và nhanh chóng vận
dụng một cách hiệu quả cho học tập và nghiên cứu phát huy sự thông minh, sáng tạo,
khả năng tiếp nhận tri thức tốt. Nhất là đối tượng học sinh, sinh viên nói riêng.
 Mặt hạn chế: Sinh viên ta mắc bệnh thụ động trong học tập, sinh viên
không chịu tìm tòi sách, tài liệu phụ lục cho chuyên môn của mình, mặc dù trong
phương pháp giảng dạy Đại học hiện nay thầy cô lên lớp chỉ hướng dẫn và đưa ra
những tư liệu đầu sách cần thiết cho sinh viên tìm kiếm tham khảo.

Phần lớn sinh viên Việt Nam chúng ta còn thiếu khả năng sáng tạo, thói ỉ nại.
Một kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy về tính sáng tạo của sinh viên ở một trường
đại học lớn ở Việt Nam cho biết trong một mẫu điều tra khá lớn gồm hàng ngàn sinh
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN
16
Phần 2:Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Trang
viên, chỉ có khoảng 20% sinh viên đạt hoặc vượt mức trung bình của tụ giới. Như vậy
có tới 80% sinh viên có tính sáng tạo thấp hơn mức trung bình, đây là một tin sét đánh
mà buộc các nhà giáo dục học phải nghiêm túc xem lại phương pháp, chương trình,
cách tổ chức dạy và học trong các trường Đại học của Việt Nam.
Lười đọc,ỉ nại là lời tự thú của nhiều sinh viên thời hiện đại. Khảo sát ngẫu
nhiên một số sinh viên các trường Đại học Cao đẳng về việc đọc sách của họ, số đông
đều lắc ngứ rằng “có đọc” nhưng chỉ đọc một cuốn theo phong trào và chỉ xem sách
chuyên ngành khi bị thúc bách về việc bài vở, có sinh viên sắp ra trường nhưng cũng
chưa một lần ghé thăm thư viện. Một số đông sinh viên ít đọc có nhiều nguyên nhân
chủ quan và khách quan nhưng nói chung họ rất thụ động trong việc học.
Có quá nhiều sinh viên vừa học, vừa chơi và cũng có quá nhiều sinh viên quên
mọi thứ trên đời để học. Cả hai kiểu học như vậy đều mang lại những kết quả tiêu cực
khác nhau. Một bên là sự hụt hẩng về kiến thức, thường xuyên đối mặt với nguy cơ bị
đuổi học còn bên kia lại là sự mệt mỏi, căng thẳng, những lo âu chồng chất trong
những năm học Đại học khiến sức khỏe suy sụp, lạc lõng với những diễn tiến xung
quanh xã hội, lạ lẫm với những điều đang tác động đến cuộc sống hàng ngày.
Đa phần sinh viên mới chỉ học theo kiểu học vẹt thiếu tính thực tiễn. nhìn vào
hiện trạng của các “sản phẩm” của nền giáo dục Đại học, Cao đẳng hiện nay có thể
thấy rằng hình như xã hội “không mê” các sản phẩm này, sở dĩ nói như vậy vì qua một
cuộc thống kê nho nhỏ về trình độ của những người tìm việc làm cho thấy trong 115
ứng viên tìm việc, có đến 62 người có trình độ Đại học (chiếm 54%), có 24 người trình
độ Cao đẳng (chiếm 21%), và số người có trình độ trung cấp là 29 người (chiếm 25%).
Thế nhưng những con số đó muốn nói với chúng ta điều gì? Đó là sản phẩm của
nền giáo dục “khoa cử”. Tại sao có nhiều người trình độ Đại học, Cao đẳng phải đi tìm

việc như thế: Theo lẽ thường tình người ta hay nghĩ rằng học vấn càng cao càng có cơ
hội có việc làm, thế nhưng hiện nay câu chuyện hoàn toàn ngược lại: học vấn càng cao
càng phải đi tìm việc nhiều, càng thất nghiệp. Tại sao vậy?.
Có nhiều lý do nhưng có một lý do đó là chất lượng của các lao động có trình
độ Đại học, Cao đẳng chưa đáp ứng được nhu cầu của nền sản xuất kinh tế công
nghiệp tiên tiến. Hiện nay, bởi họ chỉ là sản phẩm của nền giáo dục “khoa cử rất mạnh
về việc học để thi nhưng kém về “học để làm” và “học để sáng tạo”. Do đó mà từ lâu
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN
17
Phần 2:Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Trang
các sản phẩm của nền giáo dục Đại học của chúng ta thường xuyên bị kê ca là không
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
 Sự quan tâm của Đảng và nhà nước tới nền giáo dục Đại học
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định yêu cầu đổi mới
của nền giáo dục là: chuyển từ chủ trương giáo dục cho mọi người sang chủ trương
mọi người đều phải thực hiện việc học tập suốt đời. Vấn đề mấu chốt trong sự nghiệp
giáo dục Việt Nam mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng là khẳng định “
chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội
học tập với hệ thống học tập suốt đời đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học,
ngành học, xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những hình thức
học tập thực hành linh hoạt đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên, tạo nhiều khả
năng, cơ hội khác nhau cho người học đảm bảo sự công bằng xã hội trong giáo dục”.
 Giải pháp nâng cao việc học và hành của sinh viên hiện nay
Tự học tiếp cận với sáng tạo. Sinh viên phải luyện độ tìm tòi và kỹ năng ứng
biến, Đó là tiêu chí cần thiết để phân định sự thông thái của một chủ thể nhận thức
đồng thời là chủ thể sáng tạo. Trí thông minh và óc sáng tạo của mỗi người được thể
hiện chủ yếu bằng hành động, thay vì chỉ dừng lại ở ý thức được thể hiện chủ yếu
bằng sự đáp ứng những thử thách trong quá trình vận dụng kiến thức thức thay vì chỉ
quanh quẩn ở việc vun bồi kiến thức.
Để sinh viên dễ dàng hơn trong việc tiếp thu kiến thức, phương pháp học thì

phải đưa vào chương trình học của sinh viên những bài học từ thực tế. Thay đổi cách
học theo kiểu trả bài, rồi lịch học và lịch thi cứ dày đặc, đan xen nhau. Định hướng
cho việc học của sinh viên là một yêu cầu cực kỳ quan trọng, quan trọng không kém
nữa là việc thiết lập một thời gian biểu hợp lý cho sinh viên trong lúc học lẫn lúc thi.
Muốn học, muốn hiểu sâu một chủ đề nào điều quan trọng nhất là phải tự mình
chạm tới nó trước, tự mình khơi mở trước trong đầu, như gieo mầm cho việc tiếp thu,
thẩm thấu của mình. Bản chất của tự học là tự làm việc với chính mình trước, nghiên
cứu tài liệu, trao đổi với bạn bè theo cách học với nhóm và được thầy khởi gợi, hướng
dẫn. Có thể nói viết lại là cách tiếp thu tốt nhất và truyền đạt lại cho người khác là một
cách hiểu nắm vấn đề tốt nhất.
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN
18
Phần 2:Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Trang
Một trong những vấn đề thường gặp ở Việt Nam là sinh viên học ra trường
chưa đủ khả năng sẵn sàng để đảm nhận được các công tác, chức vụ mà đáng lẽ họ
phải có khả năng ứng xử độc lập. Vì vậy mà sinh viên phải phát triển cho mình khả
năng phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề có óc thực tế, không định kiến, không câu
nệ thành kiến. Muốn bắt kịp đà tiến của khoa học kỹ thuật thì sinh viên mình cần thay
đổi cách học. Muốn được như thế dĩ nhiên không chỉ cần có sự thay đổi tư duy của
người học mà còn phải có sự thay đổi phù hợp trong hệ thống giáo dục và đào tạo
nước ta.
Ngày nay công nghệ thông tin được công nhận là một bộ phận không thể thiếu
được trong giáo dục. Sinh viên tích cực tiếp cận, truy cập internet để có được những
thông tin khoa học mới nhất hay có cơ hội trao đổi ý kiến với bạn bè thế giới.
Phải biết vận dụng những tri thức lĩnh hội được vào thực tế, không chỉ toàn lý
thuyết, vận dụng chúng vào sản xuất, nghiên cứu…
Như vậy: Việc nghiên cứu quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, vận
dụng thúc đẩy việc học và hành của sinh viên hiện nay mang một ý nghĩa vô cùng to
lớn có ý nghĩa thực tiễn cao. Sinh vên phải có được phương pháp để tiếp thu tri thức
thời đại, rồi vận dụng những tri thức đó vào thực tế góp phần xây dựng một xã hội

ngày càng phồn vinh, tươi đẹp.
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN
19
Phần 2:Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Trang
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN
20
Phần 3: Kết luận Trang
Phần 3: KẾT LUẬN
Nói tóm lại, vật chất bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đối với ý thức, nó là
cái có trước ý thức, nhưng ý thức có tính lực năng động tác động trở lại vật chất. Mối
tác động qua lại này chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Chúng ta nâng cao vai trò của ý thức với vật chất chính là ở chỗ nâng cao năng
lực nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng các quy luật khách quan trong hoạt
động thực tiễn của con người.
Với những bién động trước tình hình kinh tế của nhiều nước trên thế giới đòi
hỏi Đảng và nhà nước phảI kiên trì ,giữ vững lòng tin ,quyết tâm khắc phục khó khăn,
đồng thời phải tỉnh táo ,nhạy bén thích ứng kịp thời với thực tế biến đổi từng ngày
từng giờ.
Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, vận dụng thành thạo phép BCDV vào việc nghiên cứu và quản lý kinh tế, phát
huy mạnh mẽ quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới nhằm tăng
trưởng nền kinh tế quốc dân, nhất định chúng ta sẽ trở thành những nhà quản lý giỏi
góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới của đất nước,tạo điều kiện để nền kinh tế
Việt Nam phát triển cao, từ đó nâng cao vị trí Việt Nam trên chính trường quốc tế, góp
phần củng cố sự ổn định về chính trị của đất nước. Đó là lương tâm của những người
làm công tác quản lý kinh tế chính trị.
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN
21
Phần 3: Kết luận Trang
SVTH: HOÀNG THỊ YẾN

22

×