Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ CHỨNG KHOÁN HOÁ CÁC KHOẢN NỢ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.55 KB, 25 trang )

1
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ CHỨNG KHOÁN HOÁ CÁC
KHOẢN NỢ
1. Khái niệm chứng khoán hóa (CKH)
Theo OECD (1995)- Tổ chức Hợp tác Phát triển kinh tế thì chứng khoán hóa là việc phát
hành các chứng khoán có tính khả mại được đảm bảo không phải từ khả năng thanh toán
của chủ thể phát hành mà bằng nguồn thu dự kiến có được từ các tài sản đặc biệt. Khái
niệm này cho thấy: Khả năng sinh lời của tài sản dùng làm đảm bảo sẽ quyết định thu
nhập và mức độ rủi ro của chứng khoán phát hành. Như vậy, chứng khoán hóa được bảo
đảm không phải bằng khả năng thanh toán của chủ thể phát hành.
Theo Ủy ban Chứng khoán của Mỹ (SEC), chứng khoán hóa là việc tạo ra các chứng
khoán dựa trên dòng tiền cố định hoặc mang tính tuần hoàn của một tập hợp cố định tách
biệt các khoản phải thu hoặc các tài sản tài chính. Các chứng khoán này tùy theo cấu trúc
thời hạn của chúng sẽ được chuyển đổi thành tiền trong khoảng thời gian nhất định kèm
theo những quyền hưởng lợi khác và quyền đối với tài sản được sử dụng nhằm đảm bảo
việc trả nợ hoặc phân phối định kỳ các khoản thu được cho người sở hữu chứng khoán.
Do chứng khoán hóa tài sản tài chính là cấu trúc phức tạp có thể dẫn đến phá sản nên cần
một tổ chức tài chính chuyên nghiệp (SPV) phân loại chứng khoán trong trường hợp nhà
khởi tạo phá sản, đem rao bán trên thị trường chứng khoán. Các chứng từ này vẫn nằm
trong bảng cân đối tài khoản của ngân hàng dùng để bảo đảm cho việc phát hành trái
phiếu.
2. Đặc tính các loại tài sản có thể được chứng khoán hóa
Như ta biết cứ doanh nghiệp nào từ doanh nghiệp sản xuất, dịch vụ cho tới doanh nghiệp
đặc biệt như ngân hàng đều nắm giữ rất nhiều các loại tài sản khác nhau. Tuy nhiên,
không phải bất cứ các loại tài sản nào cũng có thể được chứng khoán hóa. Muốn được
chứng khoán hóa tài sản phải có những đặc điểm sau:
- Tài sản phải được quy về dòng tiền
Một yếu tố cơ bản của loại tài sản đem chứng khoán hóa là phải phát sinh một
dòng tiền từ con nợ. Giá trị của mỗi dòng tiền lại phụ thuộc vào phương thức
thanh toán như đã thỏa thuận giữa các bên ban đầu, có thể theo phương thức thanh
toán gốc đều…Trong thực tế ta thấy các khoản vay có tài sản đảm bảo được thực


hiện bằng cách người đi vay sẽ đưungs ra đem tài sản của mình làm vật thế chấp
rồi đi vay tiền theo một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tài sản thế chấp. Sau đó theo
kỳ hạn người đó sẽ thanh toán gốc và lãi. Và nguyên tắc cơ bản của chứng khoán
2
hóa là phải luôn có một dòng tiền chảy qua giữa người đi vay, người cho vay,
trung gian đặc biệt rồi tới nhà đầu tư. Nếu trong điều kiện bình thường, hoạt động
diễn ra suôn sẽ thì chứng khoán hóa sẽ hoạt động về căn bản là như vậy. Tuy
nhiên, trong trường hợp lãi suất trên thị trường thấp, người đi vay sẽ tìm cách vay
tiền để thanh toán cho ngân hàng, và ngân hàng chịu rủi ro trả trước. Người ta
cũng có thể chứng khoán hóa khoản phải thu trên thẻ tín dụng vì nó chứa một
dòng tiền.
- Tính hợp pháp
Để đảm bảo cho các giao dịch chuyển nhượng, điều quan trọng và cần thiết là các
loại tài sản có liên quan tới giao dịch chứng khoán hóa phải hợp pháp. Tính hợp
pháp ở đây có nghĩa tài sản phải được chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp của chủ
sở hữu và không có bất cứ sự tranh chấp nào xảy ra khi nhượng bán. Và đặc biệt là
tài sản không phải nằm trong danh mục hàng cấm của Nhà nước.
- Tính nhượng bán
Những tài sản đem thế chấp phải là những tài sản có tính nhượng bán tương đối
cao trên thị trường. Những tài sản đảm bảo thường là nhà cửa, ô tô…Đặc tính này
nhằm đảm bảo cho các nhà đầu tư trong trường hợp người đi vay bị phá sản thì
vẫn có những thứ tài sản đảm bảo thanh toán.
- Tính phân tán rủi ro
Tài sản đồng thời cũng phải có tính phân tán rủi ro hoặc rủi ro được đảm bảo bởi
một tỷ lệ hỗ trợ tín dụng cần thiết. Ví dụ, với một khoản vay tiêu dung có giá trị
tương đối nhỏ, nếu phát hành chứng khoán trên khoản vay đó thì rủi ro quá lớn, do
vậy nếu ngân hàng tập hợp rất nhiều khoản vay lại để chứng khoán hóa thì hoạt
động thanh toán của một khoản vay sẽ không làm ảnh hưởng hay bóp méo toàn bộ
kết quả thanh toán của toàn bộ danh mục. Kết quả là toàn bộ danh mục tài sản có
thể coi là 1 tài sản có thể dự tính được khả năng thanh toán của nó. Trong trường

hợp một số tài sản có thể dự tính được khả năng thanh toán của nó. Trong trường
hợp một số tài sản trong danh mục hoạt động tốt, triển vọng thanh toán cao có ảnh
hưởng tích cực tới danh mục tài sản cho vay thì sẽ được phân tích theo hướng làm
hấp dẫn toàn bộ danh mục đem chứng khoán hóa.
- Tính độc lập với người khởi tạo
3
Đây là một đặc tính quan trọng có tác dụng làm tăng tính hấp dẫn của các chứng
khoán phát hành trên tài sản đó. Sự tồn tại hay khả năng sinh lời của tài sản hoàn
toàn độc lập với sự tồn tại của người khởi tạo, thậm chí ngay cả khi người khởi tạo
phá sản. Để đảm bảo điều này quá trình lập hợp đồng phải rõ rang, người khởi tạo
phải chuyển nhượng hoàn toàn các giấy tờ pháp lý cho trung gian đặc biệt và
không được dung tài sản thế chấp nhiều lần vào các mục đích khác. Một yếu tố
hấp dẫn cho các chứng khoán là trong lần đi vay ngân hàng đã có sự thẩm định tư
cách tín dụng của người đi vay, đồng thời mặc dù đã chuyển nhượng các chứng từ
liên quan cho SPV nhưng tổ chức khởi tạo vẫn giám sát hoạt động thanh toán của
người đi vay để hưởng phí dịch vụ.
- Tính đồng nhất của tài sản
Quá trình chứng khoán hóa được thực hiện khi người khởi tạo tập hợp các loại tài
sản khác nhau lại thành danh mục rồi bán cho SPV. Tiếp đó, SPV lại tập hợp các
danh mục từ các tổ chức khác nhau để phân tích, làm tăng tính hấp dẫn của tài sản
rồi từ đó phát hành chứng khoán ra công chúng. Tuy nhiên nguyên tắc tập hợp tài
sản là phải có tính đồng nhất. Ví dụ, không thể gộp các khoản phải thu từ thẻ tín
dụng với khoản phải thu từ vay mua nhà thế chấp vì chúng có sự khác biệt lớn về
dòng tiền. Đặc tính này cũng rất quan trọng. Nó yêu cầu bản than tổ chức khởi tạo
cũng như SPV phải phân tích, tính toán để tạo được một tập hợp tài sản hợp lý mà
đủ lớn.
3. Các thành viên liên quan
Mô hình chứng khoán hóa đơn giản:
- Khách hàng: Là những người có những hợp đồng tín dụng, khoản phải trả …từ các
định chế tài chính, ngân hàng thương mại

- Tổ chức khởi tạo
Người khởi tạo là các doanh nghiệp tài chính hoặc phi tài chính có những khoản
mục tài sản cần chứng khoán hóa. Những người khởi tạo vì những mục đích khác
nhau mà tiến hành chứng khoán hóa khoản mục tài sản trên bảng cân đối tài sản
của mình ví dụ như khoản phải thu, khoản cho vay dài hạn, đầu tư dự án…Một
đặc điểm nhận thấy rõ ở đây là bản thân tổ chức khởi tạo không phải là người chịu
trách nhiệm thanh toán khoản tiền khi đã chuyển quyền nhận các lợi ích từ tài sản
cho Trung gian đặc biệt. Do dó, lợi thế đặc biệt khi phát hành các ABS ( Assetss
Backed Security) là dù cho xếp hạng tín dụng cảu tổ chức khởi tạo thấp thì vẫn có
4
thể phát hành những chứng khoán có chất lượng cao. Đồng thời, do tài sản độc lập
với tổ chức khởi tạo nên cho dù tổ chức khởi tạo có vấn đề về tài chính hoặc lâm
vào tình trạng phá sản thì vẫn không ảnh hưởng tới sự dịch chuyển của dòng tiền.
Đây được coi là cơ chế phòng ngừa phá sản trong quá trình chứng khoán hóa.
Ngoài ra, việc xếp hạng chứng khoán cao không những giúp giảm chi phí nguồn
vốn mà còn cho phép các nhà đầu tư lớn như các công ty bảo hiểm, đối tượng
thường bị cấm đầu tư vào tài sản có tính lỏng hoặc xếp hạng thấp, có thể mua các
loại chứng khoán này.
- Trung gian đặc biệt ( SPV)
Là một tổ chức độc lập hợp pháp ( thường là các công ty tài chính, AMC, các quỹ
tín thác …) với các biện pháp đặc biệt nhằm tăng tính hấp dẫn của các loại chứng
khoán phát hành ( SPV). SPV mua lại quyền nhận các khoản phải thu từ tổ chức
khởi tạo. Trên cơ sở những nhận định về con nợ của người khởi tạo, đồng thời với
những phân tích về tư cachs tín dụng riêng đối với các tổ chức khởi tạo lẫn khách
hàng vay vốn SPV định ra một mức giá thích hợp cho khoản phải thu mà nó sẽ
mua lại. Ở đây, SPV sẽ phải quan tâm tới lãi suất khoản vay, các khoản phí liên
quan, phần bù rủi ro đối với khoản vay, tài sản thế chấp…Sau đó, trên cơ sở tính
toán về thu nhập dự tính và đánh giá rủi ro nó sẽ phát hành chứng khoán có thứ
hạng khác nhau ra công chúng đầu tư. SPV cũng phải đáp ứng những yêu cầu pháp
lý như vốn pháp định, điều lệ hoạt động.

Khi có một sự kiện rủi ro xảy ra dẫn tới sự phá sản của SPV thì những hợp đồng
đang thực hiện vẫn sẽ tiếp tục cho đến khi kết thúc nhưng do 1 SPV khác hoặc tổ
chức khởi tạo đảm nhận. Đây cũng là một lá chắn bảo vệ các nhà đầu tư tạo ra tính
hấp dẫn của chứng khoán.
- Nhà đầu tư
Trên thực tế thị trường chứng khoán hóa được phát hành hầu hết là các định chế
tài chính hoặc phi tài chính, chỉ một số lượng không lớn các nhà đầu tư cá nhân.
Các đối tượng này bao gồm: các quỹ hưu trí, quỹ tương trợ, công ty bảo hiểm,…
ABS cung cấp cho giới đầu tư một công cụ tài chính có tính an toàn tương đối cao
với lợi tực hợp lý mà khó có thể tìm được ở các loại chứng khoán do các tổ chức
có hạng thứ hạng tín dụng thấp phát hành. Ngoài ra, số lượng lớn các nhà đầu tư
đã tạo ra một vòng tuần hoàn ảo làm tăng tính lỏng cho thị trường ABS.
5
Mô hình chứng khoán hóa đơn giản được mô tả như sơ đồ trên:
- Nhà khởi tạo sẽ thực hiện một hợp đồng tín dụng với khách hàng của mình bằng
cách thức cấp một khoản tín dụng K với lãi suất là r1.
- SPV sẽ thu mua những hợp đồng tín dụng từ các nhà khởi tạo. Theo sự đánh giá
về mức độ rủi ro, SPV sẽ mua lại hợp đồng tín dụng với lãi suất r4 từ nhà khởi tạo.
Đồng thời SPV sẽ chịu trách nhiệm thu hồi khoản nợ từ khách hàng với lãi suất
thõa thuận là r3.
- SPV sẽ dùng những hợp đồng tín dụng làm tài sản đảm bảo để phát hành các trái
phiếu, với lãi suất trả cho các nhà đầu tư là r4.
- Tiền từ việc bán trái phiếu của nhà đầu tư sẽ được SPV mang đi đầu tư sinh lợi.
Chứng khoán hóa chính là quá trình đưa các tài sản thế chấp sang thị trường thứ cấp nơi
mà chúng có thể trao đổi qua lại. Nó đã biến các tài sản kém thanh khoản thành những
chứng khoán thanh khoản cao.
4. Điều kiện cần thiết để chứng khoán hóa các khoản nợ
Nhu cầu bán nợ - cung về chứng khoán hóa: Thực tiễn hoạt động của ngân hàng tất
yếu phát sinh nợ trong quá trình giao dịch với các chủ thể khác. Các khoản nợ này phát
Khách hàng

Nhà khởi tạo
SPV
Nhà đầu tư
(1) K, lãi suất
r1
(3) K, Lãi suất r3
(2) K, lãi suất r2
(4) Lãi suất r4 (tỷ
suất sinh lợi của
chứng khoán)
6
sinh và tổn tại rất đa dạng trong mọi lĩnh vực ngành nghề của nền kinh tế. Đồng thời nhu
cầu vốn của các tổ chức là rất lớn nên đòi hỏi phải bán nợ để đẩy nhanh vòng tuần hoàn
của vốn.
Nhu cầu mua nợ - cầu về chứng khoán hóa: sự xuất hiện nhu cầu mua nợ của các định
chế tài chính đã thay đổi, dần dần trở thành cơ hội kinh doanh của các định chế này. Sự
khan hiếm cơ hội đầu tư hấp dẫn, sự hạn chế của các định chế tài chế tài chính trong việc
đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro cao, đồng thời sự dư thừa tư bản đã khiến thị trường chứng
khoán ra đời.
5. Lợi ích và rủi ro của chứng khoán hóa các khoản nợ
5.1. Lợi ích của chứng khoán hóa
Chứng khoán hóa đem lại rất nhiều lợi ích đối với tổ chức khởi tạo.
Trong trường hợp ngân hàng cần tiền mặt thì giải pháp huy động thêm vốn trên thị
trường bằng trái phiếu sẽ có chi phí rất cao. Để giảm chi phí ngân hàng sẽ dung tài
sản mình nắm giữ đem thế chấp để vay từ các định chế tài chính khác.
Khi huy động vốn bằng trái phiếu thì sẽ hạch toán nội bảng và bị giới hạn bởi xếp
hạng tín dụng của ngân hàng. Khi đó việc huy động vốn sẽ có chi phí cao hơn
đồng thời tỷ số nợ/ vốn sẽ tăng, rủi ro cao hơn và ảnh hưởng tới xếp hạng của ngân
hàng. Chứng khoán hóa sẽ giúp hạn chế điều này.
- Nguồn tài trợ ngoại bảng tăng lên

Theo quy định thì tiền mặt thu từ bán tài sản được cộng vào tổng tài sản, đồng
thời tài sản đã được chuyển nhượng hoặc bán sẽ được hạch toán vào khoản
mục ngoại bảng. Như vậy, ta thấy khoản cho vay thế chấp chuyển sang tiền
mặt, đồng thời trên bảng cân đối vẫn xem khoản mục đầu tư chứng khoán từ
chính tài sản đã được chứng khoán hóa của mình.
- Tránh được sự suy giảm của thị trường
Trong điều kiện ban đầu ngân hàng có thể đem bán tài sản thế chấp trên thị
trường thứ cấp. Nhưng để tìm được khách hàng mua với mức giá đúng bằng
giá trị thực của tài sản không phải là dễ và ngân hàng sẽ mất một khoản chi phí
không phải nhỏ. Đặc biệt trong trường hợp thị trường của loại tài sản đó giảm
sút thì nguy cơ bán giá thấp là chắc chắn. Lúc đó, chứng khoán hóa là một giải
7
pháp hay để bảo toàn giá trị tài sản đợi khi thị trường cho tài sản đó đạt được
độ ổn định.
- Cải thiện được tỷ số tài chính
Một ưu điểm của chứng khoán hóa là giúp cho ngân hàng tìm kiếm nguồn vốn
với chi phí không cao mà vẫn duy trì được những chỉ số tài chính. Như đã
thấy, tỷ số nợ trên vốn cổ phần sẽ không thay đổi, đồng thời một loạt các chỉ số
liên quan khác sẽ không bị ảnh hưởng, thậm chí còn được cải thiện như chỉ số
phản ánh tính thanh khoản của bảng cân đối.
- Cải thiện thứ hạng tín dụng
Một trong những điều kiện cho cấu trúc của chứng khoán hóa là cô lập giữa tài
sản của chủ nợ và con nợ. Sự tách biệt giữa tài sản có chất lượng tín dụng tốt
với yếu tố rủi ro của bản thân doanh nghiệp đã làm cho các chứng khoán phát
hành trên cơ sở tài sản bảo đảm có chất lượng tín dụng cao hơn bản thân người
chủ sở hữu của nó. Sự cải thiện xếp hạng tín dụng đến từ hai nguồn : thứ nhất
là chứng khoán mới phát hành được tài trợ bằng dòng tiền độc lập từ tài sản mà
không chịu bất cứ sự can thiệp nào từ người nắm giữ tài sản, điều đó có nghĩa
thứ hạng của chứng khoán không hề bị ảnh hưởng bởi thứ hạng của người nắm
giữ mà phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng của tài sản; thứ hai, việc chuyển

nhượng tài sản từ tổ chức khởi tạo sang cho SPV là một giao dịch bán tài sản
thật sự và SPV có chức năng tăng cường tính hấp dẫn của chứng khoán làm
cho thứ hạng của chứng khoán tăng lên đáng kể.
- Quản lý rủi ro tốt hơn
Chứng khoán hóa là một công cụ quản trị rủi ro tiên tiến của ngân hàng. Nó
cho phép ngân hàng và doanh nghiệp tránh được nhiều rủi ro khác nhau từ rủi
ro tín dụng, rủi ro thanh khoản cho tới rủi ro hối đoái. Bằng cách loại 1 khoản
mục tài sản ra khỏi bảng cân đối, tổ chức khởi tạo có thể sẵn sang cho các công
cuộc đầu tư mới hoặc sẵn sang đương đầu với một thời kỳ đen tối trước mắt.
- Yêu cầu nguồn vốn thấp hơn
Theo nguyên tắc quản lý rủi ro thì các ngân hàng hoặc một số định chế tài
chính khác phải có những khoản dự trữ bắt buộc cho tài sản mà nó nắm giữ.
Mỗi loại tài sản phải được phân thành rủi ro theo thứ hạng và định lượng rủi ro
đó. Nói chung, các khoản cho vay thường có mức độ rủi ro lớn nhất.Những
8
khoản vay được xếp hạng cao thường được đánh giá có mức độ rủi ro thấp
hơn. Các tổ chức nắm trong tay càng nhiều loại tài sản rủi ro bao nhiêu thì yêu
cầu dự trữ vốn càng cao.
Việc ngân hàng nắm giữ dự trữ lớn đồng nghĩa với việc được an toàn hơn nhưng
lại mất đi các chi phí cơ hội khác.
Rõ ràng qua chứng khoán hóa, tổ chức khởi tạo có thể có rất nhiều lợi ích khác
nhau. Chứng khoán hóa có thể tạo ra hàng loạt các công cụ tài chính năng động từ
chứng khoán ngắn hạn, dài hạn cho tới chứng khoán coupon thấp, chứng khoán
coupon cao, từ kì hạn hoàn vốn âm hay dương cho tới rủi ro thanh toán trước thõa
mãn nhu cầu của giới đầu tư.
5.2. Một số rủi ro thường gặp trong chứng khoán hóa
Quá trình chứng khoán hóa nếu không tiến hành thận trọng không những không có
lợi cho tổ chức khởi tạo mà còn có thể để lại rủi ro cho tổ chức đó. Nếu tài sản
dùng để chứng khoán hóa chịu sự bóp méo của thị trường dẫn tới chất lượng
chứng khoán không như ý muốn thì sẽ có sự xung đột tiềm ẩn giữa tổ chức khởi

tạo, nhà cung cấp và người bảo lãnh.
- Rủi ro phải mua lại các chứng khoán đã phát hành
Một ngân hàng người khởi tạo quá trình chứng khoán hóa có thể sẽ chịu sức ép
mua lại các chứng khoán đã phát hành nếu tài sản ngừng hoạt động hoặc biểu
hiện không tốt. Chính quá trình phức tạp của chứng khoán hóa đã tạo ra sức ép
đối với tổ chức khởi tạo. Việc có khá nhiều thành viên tham gia cùng sự quan
tâm rất lớn của công chúng đầu tư đã gây ra sức ép tiềm ẩn. Nhưng vấn đề mà
tổ chức khởi tạo lo lắng nhất ở đây là rủi ro trong quá trình chứng khoán hóa
đối với các thành viên khác có thể làm ảnh hưởng tới danh tiếng của nó trên thị
trường, tạo ra những tiền lệ xấu về sau này.
- Rủi ro chất lượng danh mục giảm
Trên thị trường, tổ chức khởi tạo có xu hướng tìm kiếm những nguồn huy động
mới. Do vậy, đôi khi nó muốn bán đi những tài sản có chất lượng tốt và vị vậy
có xu hướng làm tăng rủi ro trung bình đối với những tài sản còn lại trong danh
mục. Các nhà đầu tư cùng cơ quan xếp hạng luôn yêu cầu tài sản có chất lượng
cao và khuyến khích các tổ chức bán đi những tài sản tốt của mình. Thêm vào
đó, trong quá trình chứng khoán hóa với thời gian tương đối dài, ngân hàng
9
phải chịu áp lực từ phía cổ đôn nên thường có xu hướng giảm nhẹ các tiêu
chuẩn cho vay để giữ mức độ tăng trưởng. Và khi đó, nhiều khoản tín dụng
mới đã được chấp nhận không những không làm cho chất lượng danh mục cao
hơn mà lại có xu hướng làm giảm chất lượng danh mục, từ đó ảnh hưởng tới
tăm tiếng của tổ chức.
- Rủi ro liên quan đến chứng khoán hóa các khoản tín dụng tuần hoàn
Việc chứng khoán hóa các khoản tín dụng tuần hoàn đặc biệt phức tạp vì nó
liên quan tới việc phát hành một lượng chứng khoán cố định nhưng tài sản đảm
cho nó lại luôn dao động và không có thời gian đáo hạn xác định. Vì thế việc
quản lý các luồng tiền vào từ khách hàng cho tới việc chuyển cho người nắm
giữ chứng khoán rất phức tạp, đòi hỏi phải có những công cụ quản lý cao cấp
đảm bảo việc chia sẻ rủi ro giữa các bên trong suốt quá trình chứng khoán hóa.

Với những ưu và nhược điểm như trên, chứng khoán hóa được coi như một công
cụ tài chính đặc biệt thõa mãn được yêu cầu của các ngân hàng. Nó sẽ là giải pháp
tốt cho ngân hàng trong quản lý.
10
II. THỰC TRẠNG VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TẠI VIỆT NAM
6. Sơ lược về tình hình hoạt động của các Ngân hàng thương mại (NHTM) Việt
Nam
NHTM ngày càng đóng góp rất nhiều vào quá trình đổi mới cũng như sự phát triển và
tăng trưởng của Việt Nam. Sau giai đoạn tăng trưởng nóng các ngân hàng hiện nay đang
phải đối mặt với nhiều thử thách và khó khăn khi nợ xấu tăng cao, tăng trưởng tín dụng
và tính thanh khoản thấp. Nguyên nhân của việc tín dụng tăng trưởng thấp là do sức cầu
của nền kinh tế yếu và tồn kho tăng cao. Trong những năm qua, Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) đã đưa ra nhiều biện pháp nhằm kích thích tăng trưởng như bất động sản (BĐS)
gần như là hoàn toàn được đưa ra khỏi nhóm tín dụng phi sản xuất – nhóm cần phải hạn
chế cho vay, hạ lãi suất, cho phép tổ chức tín dụng (TCTD) cơ cấu lại nợ cũ cho khách
hàng.
Về cơ cấu tài sản, ba loại tài sản tài chính của các TCTD là cho vay các tổ chức kinh tế
và cá nhân (chiếm tỷ trọng 51%), tiếp theo là tiền gửi và cho vay tại các TCTD khác
(chiếm 22%), và cuối cùng là chứng khoán kinh doanh và chứng khoán đầu tư (chiếm
12%). So với tỷ lệ trong khu vực, tỷ lệ cho vay khách hàng của VN thuộc loại thấp nhất
trong khu vực, trong khi tỷ lệ này ở Úc là 75%, Singapore 61%, Thái Lan 64% và Trung
Quốc là 50%.
Mặc dù trong thông tư 13 có hiệu lực từ tháng 10/2010 đã có những quy định về tỉ lệ cấp
tín dụng trên tổng huy động không được vượt quá 80% đối với ngân hàng và 85% đối với
các tổ chức tín dụng khác, song các tổ chức tín dụng đã không thực hiện được và cũng
không có chế tài nào xử lý nghiêm minh các tổ chức này.
Năm 2009, Việt Nam là nước có tỉ lệ cho vay/huy động tiền gửi trong khu vực cao thứ
hai, xấp xỉ Hàn Quốc, và cho đến năm 2010 thì con số này tăng cao đột biến lên trên
131%, cách khá xa so với mức quy định trong thông tư 13. Như vậy có thể nhận thấy hệ
thống ngân hàng thương mại Việt Nam tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn so với các quốc gia

khác và dễ bị tổn thương hơn nếu như cùng chịu tác động các cú sốc kinh tế từ bên ngoài.
Xuất hiện “sai lệch kép”. Theo nghiên cứu của Nguyễn Hồng Yến (2012, trang 2), sai
lệch kép được hiểu là trạng thái xảy ra đồng thời sai lệch về cơ cấu kỳ hạn và sai lệch về
cơ cấu tiền tệ giữa tài sản và nguồn vốn trên bảng cân đối tài sản của một tổ chức. Bất
kể sai lệch kép nằm ở đâu, NHTM vẫn là chủ thể sau cùng gánh chịu rủi ro gắn với sai
lệch kép.
11
Khi nền kinh tế có những biến động bất lợi nếu sai lêch kỳ hạn ở mức độ lớn sẽ gây ra
rủi ro đi kèm cho các ngân hàng như rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản và dễ dàng đẩy
hệ thống ngân hàng đến rủi ro mất khả năng thanh toán. Sai lệch kỳ hạn ở các quốc gia
mới nổi và các cuốc gia đang phát triển thường lớn hơn sai lệch kỳ hạn ở các quốc gia
đã phát triển.
Sự mất cân đối về cơ cấu tiền tệ một mặt gây ra rủi ro cho bảng cân đối do những biến
động của tỷ giá, mặt khác đem lại rủi ro quốc gia, rủi ro mất khả năng thanh toán, Sai
lệch tiền tệ cho dù ở bảng cân đối của ngân hàng hay khách hàng vay vốn thì chủ thể sau
cùng gánh chịu rủi ro vẫn là ngân hàng. Cũng như sai lệch kỳ hạn, sai lệch tiền tệ ở các
quốc gia mới nổi thường lớn hơn sai lệch tiền tệ ở các quốc gia đã phát triển.”
Tỷ trọng nguồn vốn huy động không kỳ hạn và ngắn hạn vẫn chiếm khoảng 75%, nguy
cơ sai lệch về cơ cấu thời hạn trong bảng cân đối tương đối lớn. Sai lệch về cơ cấu đồng
tiền tuy có giảm trong vài năm gần đây nhưng mức độ vẫn còn khá lớn và rất nhạy cảm
với biến động tỷ giá, lãi suất. Tài sản nước ngoài ròng trong NHTM cũng phản ánh rủi ro
của khu vực này khi sử dụng nguồn đi vay từ nước ngoài để tài trợ cho các khoản tín
dụng trong nước dẫn đến sai lệch tiền tệ.
Lợi nhuận năm 2013 của các NHTM nhìn chung giảm so với năm trước. ROA và ROE
của khối NHTM NN chỉ đạt 0.67% và 7.93%, giảm so với mức 0.79% và 10.34% năm
2012. Tương tự khối NHTM CP cũng chỉ đạt 0.31% và 3.6% (quý III/2012 là 0.49% và
5.1%) Nguyên nhân do tổng tài sản và vốn điều lệ của hệ thống các NHTM vẫn tăng
trưởng khá tốt trong năm 2013, trong khi đó tốc độ tăng trưởng lợi nhuận không theo kịp
do tín dụng tăng thấp, lãi suất cho vay giảm nhanh hơn lãi suất huy động khiến chênh
lệch lãi sau61t đầu ra-đầu vào giảm mạnh gây ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng.

Khả năng cạnh tranh của ngân hàng nước ta chưa cao so với các nước trong khu vực, quy
mô nhỏ, tổng tài sản ở mức thấp. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thấp so với khu vực, VTC
chủ yếu là vốn cấp 1. Ở các quốc gia khác trên thế giới kể cả những nền kinh tế mới nổi,
tỷ lệ an toàn vốn và tỷ lệ vốn cấp 1/tổng tài sản “có” rủi ro có một khoảng cách nhất định,
tức là vốn cấp 2 vẫn thể hiện được vai trò của mình trong việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn
chung. Tuy nhiên ở VN, hai tỷ lệ này gần như là không có khoảng cách (11.62% và
10.98%).
Ngoài sự có mặt của các ngân hàng nước ngoài cũng tăng sự cạnh tranh trong lĩnh vực
ngân hàng. Mặc dù ngân hàng nước ta có lợi thế về mạng lưới, khách hàng truyền thống
nhưng kém hơn về năng lực cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài về mức độ hiện đại
12
hoá công nghệ ngân hàng, về nguồn nhân lực, trình độ quản trị hoạt động và vấn đề quản
lý rủi ro.
Vần đề sở hữu chéo cũng dẩn đến nhiều hệ luỵ. Nguồn lực và khả năng chống đỡ của các
ngân hàng không được đánh giá đúng mức, làm sai lệch việc đánh giá rủi ro của hệ thống
ngân hàng, gia tăng việc cho vay thiếu kiểm soát, sai lệch tinh thần khi phân loại nợ và
trích lập dự phòng rủi ro (Khi doanh nghiệp không trả được nợ cho ngân hàng, thay vì
xếp khoản vay thành nợ xấu và trích lập dự phòng rủi ro thì ngân hàng này giấu nợ xấu
của mình bằng cách không khai báo nợ xấu mà nhờ ngân hàng B – ngân hàng có sở hữu
chéo - cho vay để đảo nợ).
Trích bài viết “Những mảng màu sáng tối hoạt động ngân hàng 2013” của TS.Trịnh
Thanh Huyền Trường Đào tạo & PTNNL
Hết năm 2013, bức tranh hệ thống ngân hàng đã được cải thiện đáng kể với không ít
những mảng màu tươi hơn nhưng vẫn chưa đủ để che lấp những mảng màu xám do
tích tụ từ những năm trước đây. Năm 2013 là quãng thời gian khó khăn nhất trong
nhiều năm qua đối với hệ thống ngân hàng. Một số điểm nghẽn của nền kinh tế vẫn
chưa thông. Thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán vẫn còn nhiều bất ổn nội
tại. Song, với những nỗ lực thường xuyên, liên tục, cả hệ thống đã bước đầu vượt qua
những khó khăn. Nhờ đó, không những rủi ro của hệ thống giảm bớt với những
chuyển biến tích cực như thanh khoản khả quan hơn, lãi suất huy động đã giảm 2-3%

và lãi suất cho vay giảm 3-5% - ngang bằng mức 2006, mà quá trình tái cơ cấu và kết
quả hoạt động của hệ thống ngân hàng cũng đã có những cải thiện đáng kể.
6.1.1. Những mảng màu sáng
Thứ nhất, quá trình tái cơ cấu ngân hàng đã đạt được những kết quả ban đầu
đáng khích lệ
Được đánh giá là ngành nỗ lực nhất trong "bộ ba" tái cơ cấu nền kinh tế (ngân
hàng – doanh nghiệp Nhà nước - đầu tư công)
1
, ngành ngân hàng đã khá chủ
động triển khai tái cơ cấu hệ thống ngân hàng theo đúng mục tiêu đã được Chính
phủ cũng như Ngân hàng Nhà nước (NHNN) xác định. Không chỉ về vốn mà nhân
sự trong ngành ngân hàng cũng có sự xáo trộn lớn. Song nếu nhìn từ góc độ tích
cực thì đây là động thái cần thiết để sàng lọc lại đội ngũ nhân sự ngành ngân
hàng vốn được tuyển dụng quá nhiều tại thời điểm “ra ngõ gặp ngân hàng” cách
đây 6-7 năm. Hơn nữa, môi trường kinh doanh càng khó khăn thì những yêu cầu,
1
Phát biểu của ông Lê Đức Thúy - nguyên Thống đốc NHNN tại Hội thảo về cải cách thị trường tài chính do Ban
Kinh tế Trung ương và Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia tổ chức ngày 14/10/2013
13
đòi hỏi đối với đội ngũ nhân sự sẽ càng cao hơn, không chỉ về trình độ chuyên
môn nghiệp vụ mà cả về kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp, và chỉ qua sàng lọc,
ngành ngân hàng sẽ có được đội ngũ lao động tinh hơn để có thể phát triển một
cách bền vững.
Một tín hiệu đáng mừng là dấu hiệu cho thấy những “mảng sáng” trong hoạt
động ngân hàng ngày càng rộng hơn là tốc độ mở rộng mạng lưới đã và sẽ tiếp
tục tăng lên trong thời gian tới sau khi kế hoạch mở rộng mạng lưới của các ngân
hàng chính thức được “cởi trói”
2
, đồng thời sẽ có sự quản lý chặt chẽ hơn. Điều
này không chỉ giúp năng động hóa thị trường lao động ngành ngân hàng mà còn

giúp tránh được tình trạng phát triển cục bộ tại một số địa bàn lớn
Thứ hai, hiệu quả kinh doanh ngân hàng được cải thiện
INCLUDEPICTURE
" />/images/Buc-tranh-Ngan-hang-2013-Ls.jpg" \*
MERGEFORMATINET
Thời gian qua, dù lãi suất huy động liên tục giảm mạnh và không phải lúc nào
cũng “kịch trần” nhưng người dân vẫn tiếp tục gửi tiền vào các tổ chức tín dụng
(TCTD) với kỳ hạn dài bởi đây vẫn là kênh đầu tư an toàn và hiệu quả nhất so với
các kênh đầu tư khác hiện nay. Tính đến cuối tháng 12/2013, tiền gửi VND của
dân cư vẫn tăng 15,61% gần bằng mức tăng trưởng 16% năm 2012.
2
/>14
Giai đoạn 2011-2012, ngành ngân hàng lao đao vì hậu quả của tình trạng tăng
trưởng quá nóng với các điều kiện tín dụng được nới lỏng quá mức trước đó.
Hàng loạt các giải pháp đã được đưa ra để hạ nhiệt tín dụng, nhưng cũng bởi thế
tổng lợi nhuận toàn ngành ngân hàng năm 2012 đã sụt giảm gần 50% so với năm
2011
3
. Sang năm 2013, các giải pháp tín dụng tiếp tục được điều hành linh hoạt
hơn theo hướng “tái tạo” đường cong lãi suất, mở rộng tín dụng đi đôi với an
toàn hoạt động của TCTD, phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ,
đồng thời tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động
sản xuất, kinh doanh (SXKD) nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Nhờ
đó, cuối tháng 12/2013, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống gần sát mục tiêu 12%.
Điều này thể hiện nỗ lực rất lớn của ngành ngân hàng bởi nếu nhìn vào tốc độ
tăng tín dụng các tháng năm 2013 thì có thể thấy rằng, tín dụng mới chỉ bắt đầu
tăng trưởng dương từ quý II. Cơ cấu tín dụng đã từng bước hợp lý, hiệu quả và an
toàn hơn, đã tập trung được vốn vào lĩnh vực SXKD, nhất là tín dụng đối với các
lĩnh vực ưu tiên. Nhờ đó, tăng trưởng kinh tế vẫn ở mức hợp lý và các ngân hàng
đã bắt đầu có lãi trở lại, ngay cả những ngân hàng nhỏ.

INCLUDEPICTURE
" />4/images/Buc-tranh-Ngan-hang-2013-Td.jpg" \*
MERGEFORMATINET
Không chỉ có vậy, hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng đã có những biểu hiện
an toàn và hiệu quả hơn. Tính đến cuối tháng 31/10/2013, tỷ lệ an toàn vốn (CAR)
có giảm nhẹ, nhưng vẫn ở mức khá cao với 13,64%, cao hơn nhiều so với quy
3
/>20130118104615893ca34.chn
15
định tối thiểu 9% mà NHNN đang áp dụng; thanh khoản đang được cải thiện và
khá dồi dào so với giai đoạn trước; vốn điều lệ tăng 6,02%; vốn chủ sở hữu tăng
6,33% và ngày càng tiệm cận tới quy mô vốn điều lệ; tổng tài sản Có tăng 6,66%
so với cuối năm 2012.
Thứ ba, xử lý nợ xấu đã đạt được những thành công bước đầu
Tăng nợ xấu không chỉ ăn mòn lợi nhuận của các ngân hàng mà còn là nguyên
nhân căn bản gây nghẽn tín dụng trong suốt thời gian qua. Tuy chưa thực sự khả
quan nhưng theo báo cáo, tỷ lệ nợ xấu tính đến tháng 11/2013 là 4,55% - tiếp tục
giảm so với tháng 10 là 4,73%.
INCLUDEPICTURE
" />earch/14/images/Buc-tranh-Ngan-hang-2013-Nx.jpg" \*
MERGEFORMATINET
Việc xử lý nợ qua VAMC cũng đã có những tiến triển nhất định. Tính đến ngày
24/12, VAMC đã mua được gần 32.000 tỷ đồng dư nợ gốc của gần 30 TCTD. Dự
kiến, năm 2014 VAMC sẽ mua khoảng 100-150 nghìn tỷ đồng. Nhờ nỗ lực của
Chính phủ, NHNN cũng như sự quyết liệt của từng TCTD trong việc xử lý nợ xấu,
nên tỷ lệ nợ xấu đã giảm mạnh từ mức 8,86% tổng dư nợ cuối năm 2012 xuống
còn 4,55% đến tháng 11/2013.
6.1.2. Những mảng màu tối
Mặc dù đã vượt qua được những khó khăn bước đầu nhưng chặng đường đổi mới
trước mắt của hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn rất nhiều chông gai. Năng

lực cạnh tranh của nền kinh tế tuy có tăng nhẹ, nhưng vẫn thấp so với khu vực
16
(xếp thứ 70/148 quốc gia). Lạm phát được kiềm chế. Tính thanh khoản của hệ
thống ngân hàng đã dồi dào hơn nhưng vẫn chưa ổn định, nợ xấu đã giảm nhưng
còn ở mức cao,… Vì thế, những chướng ngại vật phía trước đang đặt ra nhiều
thách thức không nhỏ đối với hệ thống ngân hàng trong giai đoạn tới. Cụ thể:
Một là, tổng cầu suy giảm gây khó khăn cho việc hấp thụ vốn.
Tuy tăng trưởng tín dụng từ quý II trở đi đã bắt đầu dương và tăng đều đặn qua
các tháng nhưng vẫn không thể đạt được mục tiêu đề ra do khả năng hấp thụ vốn
rất thấp nên dù hiện nay, lãi suất cho vay đã giảm rất nhiều, nhưng dòng vốn vẫn
chưa thể luân chuyển thông suốt. Một mặt là do nợ xấu tồn đọng, các DN không
dễ trả được, kể cả phát mại TSBĐ, khiến cho các ngân hàng cũng thận trọng hơn.
Mặt khác là do các DN gặp nhiều khó khăn nên nhu cầu vay vốn cũng giảm đi.
Thực tế cho thấy, lợi nhuận của các DN niêm yết ngành cao su quý III/2013 giảm
trên 30%, ngành khoáng sản giảm gần 60%,…
4
. Vì vậy, dù lãi suất đã hạ, nhiều
gói ưu đãi được thiết kế, song không thể giải quyết được nên việc mở rộng tín
dụng gắn với nâng cao chất lượng khoản vay vẫn rất khó khăn.
Hai là, nợ xấu vẫn là rào cản đối với hoạt động ngân hàng.
Dù nhìn vào các con số thì có thể thấy rằng nợ xấu đang giảm đi nhưng mức độ
giảm thực tế ra sao thì vẫn chưa thể đánh giá được, bởi việc xử lý nợ xấu phụ
thuộc nhiều vào các điều kiện kinh tế vĩ mô và thị trường, trong khi tiêu thụ hàng
hoá còn chậm, năng lực tài chính và khả năng trả nợ của DN còn thấp. Thị trường
BĐS chậm phục hồi, TTTC trì trệ càng gây khó khăn cho việc bán, xử lý TSBĐ
tiền vay để thu hồi nợ. Trong khi đó các giải pháp điều hành kinh tế vĩ mô, tháo
gỡ khó khăn cho SXKD, hỗ trợ thị trường BĐS luôn có độ trễ và cần phải có thời
gian phát huy tác dụng. Đã vậy, các giải pháp xử lý nợ xấu lại chưa được triển
khai đồng bộ mà chủ yếu vẫn là TCTD tự xử lý nợ xấu nên đã làm giảm mức độ
lành mạnh tài chính, hiệu quả kinh doanh của TCTD trong ngắn hạn. Cơ chế,

chính sách xử lý TSBĐ còn nhiều rất vướng mắc, phức tạp, chậm được khắc phục,
hoàn thiện để tạo điều kiện thuận lợi cho xử lý nợ xấu. VAMC đã được thành lập,
đã mua nợ, song việc giải quyết số nợ này ra sao là cả một vấn đề.
Ba là, khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thực hiện tái cơ cấu chậm.
Hơn 1 năm qua, tiến trình cổ phần hóa vẫn hết sức chậm chạp, năm 2012 cả nước
chỉ cổ phần hóa có 13 DN, bằng 14% kế hoạch. 7 tháng đầu năm nay, cũng chỉ có
thêm 16 DN được cổ phần hóa. Việc thoái vốn thì ì ạch vì thị trường BĐS, TTCK
4
Thời báo Kinh tế Sài gòn số 46-2013 ra ngày 14/11/2013, trang 53
17
đều đi xuống. Thoái vốn còn theo tư duy bán để cắt lỗ, chứ không phải là để phân
bổ lại nguồn lực. Vì thế, không những không thực hiện được chức năng là “lực
đẩy” cho phát triển kinh tế mà còn ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh ngân
hàng, bởi đây là đối tượng khách hàng rất lớn của các NHTM, là nơi hấp thụ vốn
của nền kinh tế và cũng là nơi tạo ra của cải vật chất cho xã hội nên tháo gỡ nút
thắt từ phía DNNN được coi mà giải pháp quan trọng để cải thiện hoạt động tín
dụng. Tái cơ cấu nền kinh tế thông qua cổ phần hóa DNNN là một nhiệm vụ cấp
bách trước bối cảnh suy thoái kinh tế gần đây. Không những thế, cần nâng cao
năng lực cạnh tranh cho những DN này để làm đầu tàu cho nền kinh tế những
năm tới. Muốn vậy, các DN này phải được định giá tài sản chính xác dựa trên tính
công khai, hiệu quả, có chế độ tài chính phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
7. Hoạt động cho vay tại các NHTM
Danh mục cho vay có dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro tập trung khá lớn. Những rủi ro này sẽ trở
thành tổn thất tài chính nghiêm trọng cho các ngân hàng khi nền kinh tế chuyển biến bất
lợi.
Nợ xấu: Vấn đề nợ xấu ngày càng được quan tâm hơn từ năm 2011. Hiện nay, phân loại
nợ xấu của VN được quy định chi tiết theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và được sửa
đổi theo Thông tư 15/2010/TT-NHNN. Tuy nhiên số liệu đưa ra từ các TCTD, NHNN và
các tổ chức quốc tế lại có sự khác nhau. Theo NHNN, tỷ lệ nợ xấu cuối năm 2010 là
2.16%, cuối năm 2011 là 3.10%, từ năm 2012 đến nay (số liệu Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư

nợ tín dụng từ 01/2012 – 12/2013 theo công bố của NHNN)
Điều đáng lo ngại là chiếm 1 nửa tổng số nợ xấu là nợ nhóm 4 và nhóm 5. Cho đến nay,
các NHTM đã đưa ra chính sách tập trung xử lý chủ yếu cho nợ nhóm 5 ra ngoài bảng,
xoá nợ nhóm 5 trên bảng cân đối tài sản của ngân hàng, có thể cả nhóm 4.
Rủi ro hệ thống tìm ẩn trong hoạt động tín dụng rất lớn. Việc các NHTM lách hạn mức
tín dụng, che giấu dư nợ cho vay BĐS, chứng khoán, nợ xấu…dẫn đến việc kiểm soát và
phát hiện rủi ro khó khăn hơn, gây tổn hại đến chính NHTM đó, tác động lan truyền và
ảnh hưởng xấu tời toàn hệ thống NHTM.
Phân loại nợ xấu của VN khác với các tổ chức quốc tế. Moody (8/8/2012) cho rằng mức
độ minh bạch của dữ liệu của VN còn thấp thì chất lượng sẽ thấp hơn nhiều so với con số
báo cáo tty3 lệ nợ xấu là 3.1% (cuối năm 2011). Theo Fitch, các NH Vn chỉ mới đề cập
18
đến tỷ lệ nợ đặc biệt (một bộ phận của nợ xấu), nếu theo chuẩn quốc tế thì tỷ lệ nợ này có
thể ở mức 13% (năm 2011). Sự khác nhau này là do khác nhau về cách phân loại nợ,
phương thức tính toán và chuẩn áp dụng khác nhau (chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS)
khác với quốc tế (IFRS)), thông tin khách hàng thiếu và không chuẩn xác, hoạt động thâu
tóm, mua bán, sáp nhập, các công ty sân sau, sở hữu chéo trong ngân hàng, đạo đức nghề
nghiệp của 1 số cán bộ ngân hàng và khách hàng.
Xử lý nợ xấu: xử lý các ngân hàng yếu kém, thành lập công ty mua bán nợ xấu, bơm tiền
giải quyết nợ xấu BĐS, yêu cầu TCTD trích lập đủ dự phòng, cơ cấu lại thời gian trả nợ
cho doanh nghiệp, xử lý TSĐB. Trong đó, xử lý các NH yếu kém và thành lập những cty
mua bán nợ xấu được dư luận quan tâm nhất. 7/2013 công ty Quản lý TS của các TCTD
VN (VAMC) ra đời. Tính đến cuối năm 2013, các NHTM đã bán trên 30.000 tỷ đồng nợ
xấu cho VAMC, tuy nhiên việc làm này cũng chỉ đưa nợ xấu ra ngoại bảng, làm sạch
bảng cân đối kế toán chứ chưa xử lý được triệt để các khoản nợ này. Về BĐS, điển hình
là gói hỗ trợ 30.000 tỷ đồng được NHNN và Bộ Xây dựng ban hành vào tháng 5/2013.
Ngoài ra còn có 1 số hỗ trợ khác nhưng chưa thấy hiệu quả rõ rệt.
8. Khả năng ứng dụng CKH các khoản cho vay của NHTM Việt Nam
8.1. Khó khăn
Cho đến nay, kỹ thuật CKH chưa được phổ biến ở nước ta, mặc dù đã có nhiều

nghiên cứu về loại hình chứng khoán này. Nguyên nhân là do những khó khăn
sau:
- Chưa có hệ thống pháp luật phù hợp. Hiện hay nước ta chưa có văn bản pháp
luật cụ thể nào đưa ra các quy định cụ thể về hoạt động cũng như cách thức áp
dụng kỹ thuật CKH. Chính phủ cũng chưa có một chính sách hay chương trình
nào thúc đẩy thực hiện cam kết trong khuôn khổ ASEAN về phát triển thị
trường CKH.
- TTCK VN còn sơ khai, công cụ phái sinh chưa phát triển. Các tổ chức hỗ trợ
cũng như thị trường phi tập trung còn kém phát triển và hiện vẫn chưa có ngân
hàng đầu tư nào trong khi đây chính là những yếu tố quan trọng đối với CKH,
để các chứng khoán được phát hành và mua bán.
- Tiến trình cải cách của các NHTM còn chậm chạp mặc dùn các ngân hàng này
được xem là đóng vai trò đi tiên phong. Vấn đề về phát triển bền vững tài
chính luôn nhận được sự ưu tiên quan tâm của Nhà nước, NHNN và các
NHTM trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Thế nhưng năng lực tài
chính của nhiều NHTM còn yếu, nợ quá hạn cao và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Các
19
tỷ lệ về chi phí nghiệp vụ và khả năng sinh lời của các NHTM đều thua kém
các ngân hàng trong khu vực, khả năng thiết lập các quỹ dự phòng bị hạn chế
và khả năng thanh khoản thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu về năng lực quản
lý. Bản thân các NHTM cũng chưa thực sự nhận ra sự cần thiết của mô hình
CKH trong việc huy động và làm linh hoạt tài sản mà nó nắm giữ để hoạt động
hiệu quả hơn.
- Các sản phẩm phái sinh nói chung và CKH nói riêng vẫn còn rất mới mẻ đối
với các nhà đầu tư trong nước dẫn đến cầu không nhiều.
- Tấm gương khủng hoảng ở Mỹ bùng phát do hoạt động quá mức của CKH bất
động sản đã khiến cho các quốc gia khác thận trọng hơn đối với các sản phẩm
này. Và tại nước ta, với quan điểm là duy trì sự ổn định cho thị trường nên các
sản phẩm CKH vẫn chưa được phép thực hiện.
8.2. Thuận lợi

Chính những khó khăn trên đã ảnh hưởng đến việc kỹ thuật CKH được ứng dụng
vào Việt Nam. Tuy nhiên vẫn có những thuận lợi nhất định cho việc thực hiện kỹ
thuật này
- Thị trường trái phiếu của nước ta tương đối phát triển. Sự phát triển của thị
trườn trái phiếu có thể giúp đẩy nhanh tiến trình cải cách hệ thống ngân hàng
bằng việc cho phép hệ thống này cấu trúc lại bảng cân đối của mình thông qua
CKH các khoản nợ khó đòi. CKH đã và đang là kỹ thuật tài chính phát triển
nhất và được sử dụng rộng rãi tại nhiều thị trường trái phiếu trong khu vực và
quốc tế.
- Các sản phẩm phái sinh còn mới mẻ với các nhà đầu tư nhưng sau khi được
một số ngân hàng triển khai thì cũng thu hút được sự quan tâm. Một số sản
phẩm đã được các ngân hàng thí điểm như hoán đổi lãi suất, hoám đổi giá cả
hàng hoá, … Đây là tiền đề cho việc phát triển các sản phẩm phái sinh tín dụng
trong tương lai.
- Sự phát triển của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam dẫn tới việc các công
ty bảo hiểm của VN đang có xu hướng mở rộng các kênh đầu tư của mình. Các
công ty này sẽ là những nhà đầu tư tiềm năng nhất của các sản phẩm CKH.
- Vấn đề nợ xấu và hướng xử lý nợ xấu đang nhận được sự quan tâm chú ý của
xã hội. Bên cạnh đó cũng có những tài sản tài chính phù hợp cho CKH. Vì vậy
20
ứng dụng kỹ thuật này để giải quyết nợ xấu sẽ dễ nhận được sự đồng tình của
giới nhà đầu tư.
- Sự phát triển vũ bão của công nghệ thông tin cũng như những tiện ích mà công
nghệ thông tin mang lại sẽ là phương tiện hữu hiệu để ứng dụng, phổ cập và
phát triển kỹ thuật CKH.
8.3. Ứng dụng CKH các khoản cho vay của NHTM Việt Nam
Ứng dụng và Phát triển kỹ thuật chứng khoán hoá là cần thiết. S

cần thiết
này xuất phát t


chính đòi hỏi phát t
r
iển của thị t

ờng tài chính, của nền
kinh tế và gắn liền với các lợi ích cơ
b
ản
m
à kỹ thuật ch

ng khoán hoá
m
ang lại.
Đ
iều này thể hiện t
r
ên 04 ph
ư
ơng diện
s
au
:
-
Một là, t
h

c hiện ch


ng khoán hoá, cho phép khắc phục đ
ư
ợc nh

ng tồn
tại hạn chế về nguồn vốn cho vay t
r
ung dài hạn của các Ngân hàng
th
ư
ơng
m
ại.
Đ
ồng thời đả
m
bảo cho các N
HTM
hoạt động
h
iệu quả,
đúng bản chất
-
hoạt động t
r
ên thị t

ờng tiền tệ nhằ
m
đáp


ng vốn cho
hoạt động
s
ản xuất kinh doanh và vố
n
l
ư
u động của doanh nghiệp.
H
iện
nay các
N
gân hàng thương mại được
s
ử dụng nguồn vốn cho vay t
r
ung
dài hạn bao gồm: nguồn vốn huy động t
r
ung dài hạn; tỷ lệ vốn ngắn hạn
được
s
ử dụng cho vay t
r
ung dài hạn và vốn chủ
s
ở hữu. Tuy nhiên nguồn
vốn cho vay t
r

ung dài hạn của các
N
gân hàng hạn chế, chỉ đáp ứng được
khoảng 50
%

-
60
%
nhu cầu vay vốn t
r
ung dài hạn. Bộ phận vốn còn
lại
s
ử dụng nguồn ngắn hạn. Thực tế này tạo áp lực
r
ất lớn về nguồn
vốn cho vay t
r
ung dài hạn của các
N
gân hàng thương mại nói ch
u
ng và
cho vay bất động
s
ản nói
r
iêng, tạo
r

a khó khăn thực
s
ự về nguồn vốn
để đáp ứng nhu cầu tín dụng bất động
s
ản.
D
o vậy việc áp dụng, thực
hiện các giải pháp huy động về vốn có tính chiến lược và ý nghĩa căn
bản, với việc áp dụng kỹ thuật chứng khoán hoá các tài
s
ản tài chính nói
chung và các khoản tín dụng bất động
s
ản nói
r
iêng của các
N
gân hàng
thương mại t
r
ong điều kiện hiện nay là cần thiết và có ý nghĩa thực
hiện, thực thi cao. T
r
ong t
r
ường hợp đó các khoản nợ c
h
o vay bất động
s

ản
s
ẽ được các
N
gân hàng thương mại bán cho các tổ chức t
r
ung gian
đặc biệt
(
là cơ
s
ở để các tổ chức này phát hành t
r
ái phiếu – t
r
ái phiếu dựa
t
r
ên các khoản nợ cho vay bất động
s
ản
)
và do đó các
N
gân hàng thương
mại có thể mở
r
ộng khả năng cho vay thời hạn dài từ 20
-
30 năm.

Đ
ồng
thời tạo điều kiện cho các
N
gân hàng thương mại đẩy nhanh quá t
r
ình
21
tuần hoàn và chu chuyển vốn, khai thác và
s
ử dụng vốn hiệu quả.
-
Hai là, t
húc đẩy thị t

ờng tài chính phát t
r
iển
:

T
h

c tế hiện nay, thị
trường tài chính, thị trường chứng khoán phát triển n
ư
ớc ta
m
ới chỉ
phát t

r
iển ở mức độ thấp, mặc dù đạt được những kết quả nhất định về
tốc độ tăng t
r
ưởng của thị t
r
ường chứng khoán t
r
ong những năm qua
(
về
s
ố lượng nhà đầu tư; về giá; về các công ty chứng khoán
)
tuy nhiên
đánh giá chung, t
r
ình độ phát t
r
iển của thị t
r
ường vẫn chưa cao và chưa
đầy đủ.
S
ự phát t
r
iển của thị t
r
ường vốn, thị t
r

ường chứ
n
g khoán nước
ta mới ở t
r
ình độ thấp và giai đoạn đầu phát t
r
iển.
M
ột t
r
ong nguyên
nhân cơ bản đó là lượng hàng hoá
(
các loại chứng khoán: cổ phiếu; t
r
ái
phiếu; giấy tờ có giá
)
còn ít và chưa đa dạng.
S
ự phát t
r
iển của thị
t
r
ường vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề
đ
ặt
r

a cần quan tâm như tăng t
r
ưởng
thiếu ổn định;
s
ự hạn chế về công nghệ và hạ tầng thông tin; tính chuyên
nghiệp của các công ty chứng khoán còn hạn chế; nhà đầu tư thiếu
t
r
ình độ và mang nặng yếu tố tâm lý, bầy đàn Chính vì lẽ đó việc
thực hiện chứng khoán hoá các khoản tín dụng bất động
s
ản
s
ẽ là
nguồn cung cấp hàng hoá cho thị t
r
ường, góp phần kích thích thị
t
r
ường phát t
r
iển.
Đ
ồng thời đa dạng hoá danh mục hàng hoá, tạo
r
a
nhiều
s
ự lựa chọn cho các nhà đầu tư.

-
Ba là, c
h

ng khoán hoá tạo điều kiện phát t
r
iển hoàn thiện các loại thị
t

ờng có liên quan
:
tín dụng; chứng khoán và thị t
r
ường bất động
s
ản.
V
iệc chứng khoán hoá các khoản tín dụng bất động
s
ản
s
ẽ cho phép đáp
ứng tốt nhất nhu cầu về các
s
ản phẩm bất động
s
ản của người dân, của
nền kinh tế. T
r
ên cơ

s
ở tạo
r
a ngu

n vốn lớn để đáp ứng nhu cầu phát
t
r
iển bất động
s
ản; phát t
r
iển nhà ở cũng như tạo
r
a ngu

n vốn cho các
N
gân hàng thương mại để tiếp tục cho vay mở
r
ộng và tăng t
r
ưởng tín
dụng bất động
s
ản.
-
Bốn là, t
ạo điều kiện
sử

dụng hiệu quả các nguồn l

c của nền kinh tế
-
xã hội
:
Chứng khoán hoá các khoản tín dụng bất động sản của các
Ngân hàng thương mại tạo điều kiện khai thác và
s
ử dụng hiệu quả mọi
nguồn lực t
r
ong xã hội, t
r
ong nền kinh tế. Theo đó các khoản vốn nhàn
r
ỗi t
r
ong dân cư được thu hút thông qua việc người dân đầu tư, mua
các chứng khoán hoá dựa t
r
ên các khoản cho vay bất động
s
ản. T
r
ên cơ
s
ở đó cùng với các hình thức đầu tư k
h
ác như gửi tiền ngân hàng; mua

22
vàng tích luỹ; kinh doanh người dân có thêm
s
ự lựa chọn các chứng
khoán hoá từ các khoản cho vay bất động
s
ản để đầu tư.
D
ưới góc độ
vĩ mô, việc
r
a đời của loại chứng khoán mới
(
chứng khoán hoá t
r
ên cơ
s
ở các khoản tín dụng bất động
s
ản
)

s
ẽ thu hút, khai thác mọi nguồn vốn
nhỏ lẽ, nhàn
r
ỗi t
r
ong nền kinh tế để
s

ử dụng đầu tư vào lĩnh vực
s
ản
xuất kinh doanh, tạo khả năng
s
inh lợi cao, góp phần thúc đẩy nền kinh
tế tiếp tục tăng t
r
ưởng và phát t
r
iển.
Tuy nhiên để phát t
r
iển và ứng dụng kỹ thuật chứng khoán hoá tại
V
iệt
N
am,
không chỉ cần một quá t
r
ình
(
về chuẩn bị cơ
s
ở hạ tầng kỹ thuật: luật pháp; các
tổ chức tài chính liên quan; cơ chế chính
s
ách
)
mà cần có đánh giá nhìn nhận

đầy đủ hơn về lợi ích cũng như những tác động không tích cực của công cụ này
t
r
ong tương lai mà hậu quả của cuộc khủng hoảng thị t
r
ường tín dụng bất động
s
ản đã và đang diễn
r
a tại
M
ỹ như là bài học kinh nghiệm thực tiễn quý báu đối
với quá t
r
ình ứng dụng và phát t
r
iển kỹ thuật này tại
V
iệt
N
am.
23
III. GIẢI PHÁP CHO CHỨNG KHOÁN HÓA
9. Giai đoạn chuẩn bị
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật và thủ tục pháp lý chuẩn bị cho
quá trình CKH
- Cần có riêng một bộ luật quy định về CKH:, quy trình CKH, cơ chế về chuyển
nhượng, xác định các dòng tiền thu nhập trong tương lai, xác định rõ vai trò và
trách nhiệm của các chủ thể tham gia, các quy định về chuẩn mực cho vay, những
điều kiện để một khoản nợ được CKH.

- Cần có quy định, biện pháp xử lý những trường hợp cố tình vi phạm, gian lận
trong việc CKH.
Thứ hai, thành lập một cơ quan chuyên giám sát, quản lý hoạt động CKH.
Thứ ba, đưa ra quy trình CKH chuẩn để các chủ thể tham gia có sơ sở để thực hiện.
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống NHTM: thông tin minh bạch, công khai, thống nhất về các
khoản nợ được CKH.
Thứ năm, thành lập các tổ chức xác định mức tín nhiệm độc lập để xếp hạng các loại CK
được CKH nhằm đánh giá thị trường, cung cấp thông tin cho thị trường.
Thứ sáu, hoàn thiện các hoạt động phát hành CK để quá trình CKH diễn ra thuận lợi.
Thứ bảy, tích cực nghiên cứu các phương án, giải pháp tuyên truyền, hỗ trợ để CKH phát
triển.
10.Giải pháp hạn chế những rủi ro và hoàn thiện quy trình CKH
10.1. Về phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền:
- Đóng vai trò quan trọng trong quá trình CKH, thành lập các cơ quan giám sát, hỗ
trợ, giúp đỡ các chủ thể tham gia CKH, tạo lập môi trường để các đơn vị tham gia.
- Xây dựng hệ thống pháp lý vê CKH hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế.
- Chủ động rà soát lại các thủ tục hành chính nhằm giúp người đi vay có thể dễ dang
tiếp cận vốn, để hoạt động CKH dễ thực hiện
10.2. Về phía NH:
- Tuân thủ các chuẩn mực do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định
- Thực hiện đúng các quyết định thẩm định tín dụng, cho vay, quản lý các khoản
vay và thu hồi nợ
24
- Tăng cường công tác đào tạo, nâng cao năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo
đức của đội ngũ nhân viên ngân hàng nhằm giảm rủi ro về đạo đức.
- Tăng cường công khai, minh bạch về tình hình các khoản nợ đã được CKH.
10.3. Về phía SPV
- Cần có quy trình thẩm định các khoản nợ mua từ NH, chỉ mua những khoản nợ
nào đạt chuẩn.
- Cần phải tuân thủ các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong quá trình hoạt động như

việc trích lập quỹ dự phòng,…
- Cập nhật thông tin về tình hình các khoản nợ đã mua từ các NH.
- Tăng cường các hoạt động bảo hiểm, bảo đảm để giảm rủi ro cho các nhà đầu tư
nhằm thu hút sự tham gia đầu tư của thị trường.
25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Hồng Yến, 2012. Rủi ro gắn với sai lệch kép của hệ thống ngân hàng thương
mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Luận án Tiến sĩ. Học viện Ngân
hàng.
Nguyễn Thị Hoà, 2014. Ứng dụng mô hình chứng khoán hoá khoản cho vay của ngân
hàng thương mại Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Trịnh Thanh Huyền, 2014. Những mảng màu sáng tối hoạt động ngân hàng 2013.
< />dong-ngan-hang-2013.html>. [Ngày truy cập: 27/10/2014]

×