Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

QUẢN TRỊ RỦI RO TÁC NGHIỆP THEO BASEL TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG VÀ THỰC TRẠNG VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.96 KB, 38 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: QUẢN TRỊ RỦI RO TÁC NGHIỆP THEO
BASEL TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG VÀ
THỰC TRẠNG VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TẠI
VIỆT NAM
MÔN : QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
KHÓA : 23 – LỚP: L3
GVHD : PGS.TS.TRẦN HUY HOÀNG
NHÓM 7:
1 Cao Thị Thanh Hà
2 Lê Nhật Huy
3 Lâm Trần Yến Nhi
4 Phạm Thị Hồng Trúc
5 Nguyễn Thị Thanh Trúc
6 Nguyễn Phương Thảo
7 Đỗ Thùy Dung
TP.HCM, THÁNG 11/2014
Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2007-2010 thế giới chứng kiến cuộc khủng hoảng bao gồm sự đổ vỡ hàng loạt hệ
thống ngân hàng, sụt giá chứng khoán và mất giá tiền tệ quy mô lớn ở nhiều nước trên
thế giới, các Ngân hàng thương mại Việt Nam (NHTM) không ngoại lệ, cũng nằm trong
cơn khủng hoảng tài chính đó. Một trong những giải pháp khôi phục và phát triển doanh
nghiệp nói chung và các NHTM nói riêng trong thời kỳ hậu suy thoái kinh tế là phải nâng
cao năng lực cạnh tranh, duy trì và mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh, tranh thủ cơ
hội và đối phó với những thách thức mới.
Để thực hiện thành công các giải pháp nói trên, các NHTM phải kịp thời cải cách thủ tục
hành chính, đổi mới về quy trình tác nghiệp, nâng cấp công nghệ xử lý nghiệp vụ và quan
trọng nhất là nâng cao hiệu quả của hệ thống quản trị rủi ro. Hiện tại một số NHTM lớn


đã chú tâm xây dựng và tiến tới hoàn thiện hệ thống quy định, quy trình quản lý rủi ro
như: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường và đặc biệt là hệ thống quản lý
rủi ro tác nghiệp (QLRRTN). QLRRTN đã được các ngân hàng trên thế giới ứng dụng từ
hàng chục năm nay. Tuy nhiên, đối với các NHTM Việt Nam, chỉ cách đây 5 năm,
QLRRTN vẫn là một khái niệm mới mẻ.
Mặc dù có nhiều nỗ lực song cho tới nay Việt Nam vẫn chưa thiết lập được khuôn khổ
pháp lý chính thức cho hoạt động QLRRTN. Song các NHTM vẫn đang mong đợi
NHNN sớm ban hành những quy định cụ thể hướng dẫn triển khai hoạt động QLRRTN
trên tất cả các mặt từ thiết lập chính sách, quy định, quy trình cho đến phương pháp đo
lường, yêu cầu vốn tối thiểu đối với RRTN và cơ chế trích lập dự phòng RRTN.
Để phát triển tương xứng với các ngân hàng khu vực và quốc tế, các NHTM Việt Nam
đang hội nhập ngày càng mạnh mẽ hơn, nhằm chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm quản trị
ngân hàng nói chung, QLRRTN nói riêng. Một số NHTM đang chủ động tiếp cận các
Hiệp hội quản lý rủi ro khác như RMA, ORX (Hiệp hội trao đổi dữ liệu RRTN)… nhằm
nghiên cứu ứng dụng các dữ liệu và kinh nghiệm RRTN bên ngoài vào công tác
QLRRTN tại ngân hàng mình. Các NHTM cũng tìm kiếm sự giúp đỡ, tư vấn từ các ngân
hàng đại lý, các đối tác nước ngoài, đặc biệt là các NHTM lớn với nhiều năm kinh
nghiệm QLRRTN như UOB, HSBC, Standard Chartered Bank…
Trang 2
MỤC LỤC
1. Quá trình ra đời của Hiệp ước vốn Basel 5
2. Sơ lược về Basel I &II 5
2.1. Basel I 5
2.2. Basel II 7
3. Rủi ro tác nghiệp 9
3.1. Phương pháp chỉ số BIA 15
3.2. Phương pháp chuẩn TSA 16
3.3. Phương pháp nâng cao 17
3.4. Ví dụ 18
4. Thực trạng công tác quản trị RRTN tại các NHTM Việt Nam 18

4.1. Các quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước 18
4.2. Tình hình tuân thủ của các Ngân hàng thương mại 18
4.3. Về cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro tác nghiệp 19
4.3.1 Về cơ cấu quản trị rủi ro 19
4.3.2 Về xây dựng khung pháp lý, quy định, quy trình quản trị RRTN 19
4.3.3 Về thu thập dữ liệu tổn thất quản lý rủi ro tác nghiệp 20
4.3.4 Về đo lường, giám sát rủi ro tác nghiệp 20
4.3.5 Về công nghệ hỗ trợ quản trị rủi ro tác nghiệp 21
4.4. Tự đánh giá kiểm soát rủi ro, xác định chỉ số rủi ro chính 21
4.5. Về đào tạo nguồn nhân lực làm công tác quản lý rủi ro tác nghiệp 21
4.6. Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng 21
4.7. Bảo hiểm tiền gửi 21
5. Đánh giá chung hoạt động QTRRTN tại các NHTM Việt Nam 22
5.1. Kết quả đạt được 22
Trang 3
5.2. Đánh giá hiệu quả QTRRTN tại các NHTM Việt Nam 22
5.2.1. Mặt tích cực 22
5.2.2. Hạn chế 23
5.2.3. Cơ hội 23
5.2.4. Thách thức 23
6. Nội dung thiết yếu khi triển khai hoạt động QLRRTN tại các NHTM ở Việt Nam
24
6.1. Thiết lập và hoàn thiện khung QLRRTN 24
6.2. Triển khai áp dụng khung QLRRTN 26
7. Basel III và khả năng đáp ứng tại hệ thống Ngân hàng Việt Nam 28
7.1 Basel III và lộ trình thực hiện 28
7.2. Khả năng đáp ứng của các ngân hàng Việt Nam đối với Basel III 29
8. Kết luận 30
8.1. Nguyên tắc quản trị rủi ro hoạt động 30
8.2. Giải pháp nâng cao quản trị rủi ro hoạt động 32

8.2.1. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả khuôn khổ pháp lý, thể chế tài chính trong quy trình
quản trị rủi ro tác nghiệp ở các NHTM Việt Nam 32
8.2.2. Nâng cao năng lực quản trị nội bộ của các NHTM 33
8.2.3. Cơ cấu lại mô hình tổ chức của ngân hàng 33
8.2.4. Nâng cao năng lực tài chính 34
8.2.5. Hoàn thiện các điều kiện, cơ sở thực hiện cho mô hình tổ chức quản lý rủi ro tác
nghiệp 34
Trang 4
1. Quá trình ra đời của Hiệp ước vốn Basel
Vào những năm 1980, hệ thống NHTM trên thế giới phát triển mạnh và có những dấu
hiệu cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. Nhằm củng cố hoạt động và tạo ra
một cơ chế cạnh tranh bình đẳng của hệ thống ngân hàng, Uỷ ban Basel về giám sát ngân
hàng (Basel Committee on Banking supervision - BCBS) được thành lập bởi một nhóm
các Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành
phố Basel, Thụy Sỹ. Ủy ban được nhóm họp 4 lần trong một năm. Hội đồng thư ký của
Ủy ban Basel được đề xuất bởi Ngân hàng Thanh toán Quốc tế ở Basel, gồm 15 thành
viên là những nhà giám sát hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp được biệt phái tạm thời
từ các tổ chức tín dụng tài chính thành viên.
Ủy ban Basel và các tiểu ban sẵn sàng đưa ra những lời tư vấn cho các cơ quan giám sát
hoạt động ngân hàng ở tất cả các nước. Ủy ban Basel không có bất kỳ một cơ quan giám
sát nào và những kết luận của Uỷ ban này không có tính pháp lý và yêu cầu tuân thủ đối
với việc giám sát hoạt động ngân hàng. Thay vào đó, Ủy ban Basel chỉ xây dựng và công
bố những tiêu chuẩn và những hướng dẫn giám sát rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo
cáo thực tiễn tốt nhất trong kỳ vọng rằng các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng rộng rãi thông
qua những sắp xếp chi tiết phù hợp nhất cho hệ thống quốc gia của chính họ. Theo cách
này, Ủy ban khuyến khích việc áp dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn chung mà không
cố gắng can thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các nước thành viên. Ủy ban báo cáo
thống đốc ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của nhóm
G10. Từ đó tìm kiếm sự hậu thuẫn cho những sáng kiến của Ủy ban. Những tiêu chuẩn
bao quát một dải rất rộng các vấn đề tài chính. Một mục tiêu quan trọng trong công việc

của Ủy ban là thu hẹp khoảng cách giám sát quốc tế trên hai nguyên lý cơ bản là: (1)
không ngân hàng nước ngoài nào được thành lập mà thoát khỏi sự giám sát; và (2) việc
giám sát phải tương xứng.
2. Sơ lược về Basel I &II
2.1. Basel I
Năm 1988, Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng Uỷ ban này đã phê duyệt một văn bản
đầu tiên lấy tên là Hiệp ước về vốn của Basel (the Basel Capital Accord hay Basel I), yêu
cầu các ngân hàng hoạt động quốc tế phải nắm giữ một mức vốn tối thiểu để có thể đối
phó với những rủi ro có thể xảy ra. Mức vốn tối thiểu này là một tỷ lệ phần trăm nhất
định trong tổng vốn của ngân hàng, do đó mức vốn này cũng được hiểu là mức vốn tối
thiểu tính theo trọng số rủi ro của ngân hàng đó. Basel I không chỉ được phổ biến trong
Trang 5
các quốc gia thành viên mà còn được phổ biến ở hầu hết các nước khác có các ngân hàng
hoạt động quốc tế. Thời đó, các nhà hoạch định chính sách của ngân hàng trung ương và
cơ quan giám sát của 10 nước mới chỉ nhìn nhận ra các nguy cơ từ rủi ro tín dụng, và vì
vậy, mức rủi ro tín dụng mà ngân hàng đối mặt được xác định là tài sản điều chỉnh theo
rủi ro của ngân hàng. Theo Basel I, tổng vốn của một ngân hàng cần ít nhất bằng 8% rủi
ro tín dụng của ngân hàng đó. Sau khi rủi ro tín dụng được thiết lập vào năm 1988, Uỷ
ban Basel đã chuyển sự chú ý của họ sang rủi ro thị trường để phản ứng lại các hoạt động
kinh doanh chuyên hữu ngày càng tăng của các ngân hàng thương mại và đến năm 1996,
Bsael I đã được sửa đổi với mục đích tính đến cả phí vốn đối với rủi ro thị trường.
Theo đó, rủi ro thị trường bao gồm cả rủi ro thị trường chung và rủi ro thị trường cụ thể.
Rủi ro thị trường chung đề cập đến những thay đổi về giá trị thị trường do có sự biến
động lớn trên thị trường. Rủi ro thị trường cụ thể là những thay đổi về giá trị của một loại
tài sản nhất định. Có 4 loại biến số kinh tế làm phát sinh rủi ro thị trường, đó là tỷ giá lãi
suất, ngoại hối, chứng khoán và hàng hóa. Rủi ro thị trường có thể được tính theo 2
phương thức hoặc là bằng mô hình Basel tiêu chuẩn hoặc là bằng các mô hình giá trị chịu
rủi ro nội bộ của các ngân hàng. Những mô hình nội bộ này chỉ có thể được sử dụng nếu
ngân hàng thoả mãn các tiêu chuẩn định tính và định lượng được quy định trong Basel.
Mục đích của Basel I:

Chuẩn mực hóa hoạt động ngân hàng trong trào lưu toàn cầu hóa nhằm củng cố sự ổn
định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế.
Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh tranh
không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
Thành tựu của Basel I:
 Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế chung
nhất về vốn của ngân hàng. Theo đó, vốn của ngân hàng được chia làm 2 loại: Vốn
cấp 1, Vốn cấp 2. Trong đó: Vốn tự có = Vốn cấp 1+Vốn cấp 2.
Vốn cấp 1 (vốn cơ bản) là lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được công bố,
như là khoản dự phòng cho các khoản vay, bao gồm: Vốn chủ sở hữu vĩnh viễn; Dự trữ
công bố (Lợi nhuận giữ lại); Lợi ích thiểu số (minority interest) tại các công ty con, có
hợp nhất báo cáo tài chính; Lợi thế kinh doanh (goodwill).
Vốn cấp 2 (Vốn bổ sung) gồm tất cả các vốn khác như: Lợi nhuận giữ lại không công
bố; Dự phòng đánh giá lại tài sản; Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung; Công cụ
vốn hỗn hợp; Vay với thời hạn ưu đãi; Đầu tư vào các công ty con tài chính và các tổ
chức tài chính khác.
Trang 6
 Đưa ra tỷ lệ vốn an toàn của ngân hàng: tỉ lệ này được phát triển bởi BCBS với mục
đích củng cố hệ thống ngân hàng quốc tế, đối tượng ban đầu là những ngân hàng hoạt
động quốc tế, nhưng sau này đã được thực thi trên hơn 100 quốc gia.
Tỉ lệ thoả đáng về vốn (CAR) = Vốn bắt buộc / Tài sản tính theo độ rủi ro gia quyền
(RWA)
Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức vốn thích hợp
khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi CAR < 6% và thiếu vốn
trầm trọng khi CAR < 2%.
Những hạn chế của Basel I:
Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm 1996 vẫn có
khá nhiều điểm hạn chế. Trong đó, điểm hạn chế cơ bản của Basel I là không đề cập đến
một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp với mức độ ngày càng tăng lên, đó là rủi
ro tác nghiệp (không có yêu cầu vốn dự phòng rủi ro tác nghiệp).

Ngoài ra, còn một số điểm hạn chế khác, như: Không phân biệt theo loại rủi ro; Việc
phân loại rủi ro chưa chi tiết cho các khoản vay; Chưa tính đến lợi ích từ việc đa dạng
hóa hoạt động (theo lý thuyết thì rủi ro sẽ giảm thông qua đa dạng hóa danh mục đầu
tư…).
2.2. Basel II
Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng 6/1999, Uỷ ban Basel đã đề xuất khung
đo lường mới với 3 trụ cột chính. Đến ngày 26/6/2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn
Basel mới (Basel II) đã chính thức được ban hành.
 Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn bắt buộc tối
thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi ro được
tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro tác
nghiệp (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So với Basel I, cách tính chi phí
vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị trường có sự thay đổi
nhỏ, nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro tác nghiệp. Trọng số rủi ro của
Basel II bao gồm nhiều mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp hạng.
 Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel II cung cấp
cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Basel I. Trụ cột
này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như rủi
ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp lý,
mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk).
Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát: Thứ nhất, các ngân
hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn nội bộ theo danh
Trang 7
mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó. Thứ
hai, các giám sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội bộ và
chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ lệ vốn
tối thiểu; giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ
không hài lòng với kết quả của quy trình này. Thứ ba, Giám sát viên khuyến nghị các
ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định. Thứ tư, giám sát viên
nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng không giảm dưới

mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn
không được duy trì trên mức tối thiểu.
 Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo
nguyên tắc thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng
phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến
những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi
ro thị trường, rủi ro vận hành và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại
rủi ro này.
Như vậy, quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra, các
ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch hơn,
đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu
được rủi ro.
Mục tiêu của Basel II:
Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc tế; Tạo lập và duy trì
một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên bình diện quốc tế; Đẩy mạnh
việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản lý rủi ro.
Hai mục tiêu đầu của Basel II là những mục tiêu chủ chốt của Hiệp ước vốn Basel I. Mục
tiêu cuối cùng là mới, đó là dấu hiệu của việc bắt đầu chuyển dần từ cơ chế điều tiết dựa
trên tỷ lệ, mà đó chỉ là một phần của khung mới, hướng đến một sự điều tiết mà sẽ dựa
nhiều hơn vào các số liệu nội bộ, thông lệ và các mô hình.
Ư u điểm của Basel II so với Basel I:
- Về cấu trúc và nội dung: Basel I tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro duy nhất là
“yêu cầu vốn tối thiểu”. Trong khi, Basel II tập trung nhiều hơn vào các phương pháp nội
bộ của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và kỷ luật trên nguyên tắc
thị trường.
- Về tính linh động của ứng dụng: Basel I quy định chung một chọn lựa cho tất cả các
ngân hàng. Basel II linh hoạt hơn với một danh sách các phương pháp, các biện pháp
khuyến khích để các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn lựa.
Trang 8
- Về tính nhạy cảm với rủi ro: Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ. Basel II nhạy cảm hơn với

rủi ro thông qua độ nhạy cảm của yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro tăng lên và sự công
khai bắt buộc một cách chi tiết về độ nhạy cảm rủi ro và chính sách rủi ro.
- Về trọng số rủi ro: Basel I quy định từ 0 – 100 và ưu đãi hơn với các nước thuộc Tổ
chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD- Organisation for Economic Co-operation and
Development). Basel II quy định từ 0 - 150 hoặc hơn và không có đặc quyền nào, bao
gồm cả phân cấp bên trong và bên ngoài.
- Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng: Basel I chỉ hỗ trợ và đảm bảo. Basel II thừa nhận về
kỹ thuật giảm thiểu rủi ro tốt hơn, đưa ra nhiều kỹ thuật hơn như hỗ trợ, đảm bảo, phái
sinh tín dụng, lập mạng lưới vị thế (position netting).
Những hạn chế của Basel II:
Mặc dù được coi như một cơ chế quan trọng để đẩy mạnh cải cách và củng cố toàn bộ
công tác điều hành trong lĩnh vực tài chính, nhưng cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại đã
cho thấy những thiếu sót, bất cập của Basel II. Đó là:
- Việc áp dụng các phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến chưa có các tiêu chuẩn có
thể được chấp nhận rộng rãi.
- Các phương pháp giám sát, đánh giá rủi ro chưa tính đến các hoạt động của chu
lỳ kinh doanh.
- Các cơ quan quản lý chưa theo kịp tốc độ phát triển mạnh mẽ những sản phẩm
dịch vụ có khoa học công nghệ cũng như mức độ rủi ro cao.
3. Rủi ro tác nghiệp
Rủi ro tác nghiệp (rủi ro hoạt động) là rủi ro tổn thất xảy ra do các hoạt động quản lý nội
bộ, do con người, do hệ thống, hoặc do các sự cố bên ngoài không phù hợp hoặc bị hỏng:
bao gồm cả rủi ro pháp lý, nhưng không bao gồm rủi ro chiến lược và rủi ro thương hiệu.
 Nguyên nhân do các hoạt động quản lý nội bộ:
ACB bị đòi bổi thường 58 tỷ do lỗi giao dịch
Cho rằng việc nhầm lẫn “tai hại” và cách làm vi phạm pháp luật của Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Á Châu gây thiệt hại nặng nề cho mình, ông Trần đã khởi
kiện, yêu cầu được bồi thường hơn 58 tỷ đồng.
Theo đơn, ngày 1/12/2007, ông Trần có ký hợp đồng giao dịch vàng với ACB để kinh
doanh trên sàn vàng.

Trang 9
Đến sáng 24/12/2007, ông đặt lệnh bán 3.000 lượng vàng với giá 15,69 triệu
đồng/lượng và được nhân viên của ACB thông báo đã khớp được 150 lượng, còn
2.850 lượng chưa khớp. Sau đó, ông này đã đặt lệnh hủy số lượng vàng chưa khớp rồi
bán tiếp 2.850 lượng khác với giá chỉ còn 15,66 triệu đồng/lượng. Lần này, nhân viên
của ACB thông báo lệnh trên đã khớp.
Đến chiều cùng ngày, ông Trần nhận được điện thoại của nhân viên ACB cho biết, họ
đã nhầm khi báo kết quả giao dịch lần đầu cho ông. Cụ thể, khi ông Trần đặt lệnh bán
3.000 lượng vàng thì đã khớp lệnh bán 2.850 lượng chứ không phải 150 lượng như đã
thông báo. Như vậy, ông Trần cho rằng, sự nhầm lẫn này khiến ông đã bán khống tiếp
2.850 lượng vàng nên tài khoản của bị âm… 2.700 lượng vàng.
Cũng theo đơn kiện, ngày hôm sau, Sàn giao dịch vàng (SGDV) đã thừa nhận nhầm
lẫn trên và đồng ý bồi thường thiệt hại bằng cách bán cho ông Trần 2.700 lượng vàng
với giá 15,66 triệu đồng/lượng. Tuy nhiên, cho đến nay, SGDV vẫn chưa bán vàng để
thực hiện việc bồi thường thiệt hại cho ông. Nguyên đơn cho rằng, nếu tính giá vàng
vào thời điểm ngày khởi kiện (17/12) là 27 triệu đồng/lượng thì ông bị thiệt hại hơn
30,6 tỷ đồng.
Ngoài ra, ông Trần còn nêu, tháng 3/2008, ông nhận được điện thoại của ngân hàng
đề nghị phải ký lại hợp đồng về giao dịch vàng. Sau vài ngày chưa trả lời, ACB đã
đơn phương chấm dứt hợp đồng. Đến ngày 21/3/2008, ACB tự bán 3.000 lượng vàng
trên tài khoản của ông với giá 17,825 triệu đồng/lượng.
Như vậy, ông Trần cho rằng, với sự cố trên, ông tiếp tục bị thiệt hại thêm 27,5 tỷ
đồng.
(Nguồn: Vnexpress.net năm 2010 )
 Nguyên nhân do rủi ro con người
Vụ Agribank chi nhánh Tân Bình: 'Sếp' ngân hàng tiếp tay lừa đảo 120 tỷ
đồng
Cầm đầu nhóm người lừa đảo chiếm đoạt 120 tỷ đồng của ngân hàng Agribank Tân
Bình là Nguyễn Thị Phương Hoa (41 tuổi) hiện đã bỏ trốn. Chồng bà này là Huỳnh
Công Phúc cùng Trần Huỳnh Nghĩa (nguyên giám đốc công ty Cát Phương Nam, Chủ

Trang 10
tịch Hội đồng thành viên Công ty Trường Phát Đạt); Trần Thị Lệ Thu; Phạm Duy
Soạn bị truy tố về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” có mức án lên đến chung thân.
Theo cáo trạng, Nguyễn Thị Phương Hoa làm ở phòng kinh doanh công ty cổ phần
Cơ điện lạnh (Ree) từ 16 năm trước. Đầu năm 2005, Hoa được bổ nhiệm là phó giám
đốc Phát triển Reetech nhưng đến cuối năm thì bị sa thải do vi phạm nội quy.
Cũng trong thời gian này, Hoa nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của Agribank Tân
Bình nên đến gặp giám đốc Nguyễn Tám xin vay đầu tư góp vốn vào Ree. Hình thức
vay không có tài sản đảm bảo, vay vốn có thế chấp bằng cổ phiếu, việc giải ngân theo
phương thức đối ứng và được ông Tám "duyệt".
Sau đó Hoa đã bàn bạc với Trần Huỳnh Nghĩa dùng pháp nhân các công ty làm giả hồ
sơ góp vốn với công ty Ree, phiếu thu tiền, giấy giới thiệu, cổ phiếu của Ree để
Agribank Tân Bình cho vay không có tài sản đảm bảo và cho vay thế chấp cổ phiếu
giả.
Từ những việc làm trên, từ năm 2005 đến năm 2008, Nghĩa và Hoa thông qua công ty
Cát Phương Nam và Trường Phát Đạt đã được Agribank Tân Bình giải quyết cho vay
200 tỷ đồng theo 11 hợp đồng và phụ lục hợp đồng tín dụng. Trong đó, cặp đôi này đã
chiếm đoạt 120 tỷ đồng. Riêng vợ chồng Hoa "bỏ túi" hơn 111 tỷ.
Đối với Nguyễn Tám, cáo trạng xác định, dù biết rõ 2 công ty của Nghĩa không có
năng lực tài chính, phương án sản xuất kinh doanh không khả thi, không có tài sản
đảm bảo nhưng ông này vẫn đồng ý cho Nghĩa và Hoa vay vốn. Dưới sự chỉ đạo cuả
giám đốc, những hồ sơ giả này đã được cấp dưới xem và sửa chữa lại nội dung cho
phù hợp. Sau đó lập báo cáo thẩm định khống để hợp thức hoá việc đề xuất cho vay.
Khai với cơ quan điều tra, vị giám đốc này thừa nhận biết rõ 2 công ty này không đủ
điều kiện vay vốn nhưng vẫn quyết định cho vay vì ngân hàng dư vốn.
Sau khi bị cơ quan điều tra phát hiện, Nguyễn Thị Phương Hoa bỏ trốn qua Mỹ. Ngày
5/4/2010, Cơ quan CSĐT Công an TP HCM ra quyết định truy nã đặc biệt, Interpol
truy nã quốc tế, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.
(Nguồn: />120-ty-dong-sap-hau-toa/)
 Nguyên nhân do rủi ro hệ thống

Tin tặc xâm nhập dữ liệu ngân hàng MHB rút trộm tiền 2011
Trang 11
Được cử đến Trung tâm thẻ thuộc Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu
Long (MHB) để khắc phục sự cố máy tính, Toàn đã tìm ra mật mã hệ thống rồi truy
cập vào cơ sở dữ liệu của nhà băng.
Theo nhà chức trách, Toàn được Công ty Trans Infotech Việt Nam cử sang Trung tâm
thẻ thuộc MHB để khắc phục sự cố máy tính. Qua làm việc, Toàn đã tìm ra mật mã
của hệ thống rồi truy cập vào cơ sở dữ liệu của nhà băng.
Tháng 1, Toàn làm giả chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Nan bằng đồ họa.
Anh ta đăng ký mở thẻ ATM mang tên giả tại Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng
sông Cửu Long. Với dữ liệu ăn trộm được, Toàn bị cho là đã hơn 100 lần rút tiền từ
tài khoản này, chiếm đoạt gần 330 triệu đồng của ngân hàng.
Khám xét nơi ở của Toàn, cảnh sát thu được 1.500 USD, 4.000 đôla Singapore và gần
124 triệu đồng. Cảnh sát phát hiện, vào tháng 2 với thủ đoạn tương tự Toàn tiếp tục
ghi khống số tiền 1,5 tỷ đồng vào một tài khoản khác với mục đích rút tiền. Tuy
nhiên, việc làm này chưa kịp thực hiện đã bị MHB phát giác.
Một tháng trước đó cũng tại MHB, cơ quan điều tra đã phát hiện Lâm Nguyễn Minh
Tâm (28 tuổi ở Long An) có hành vi đột nhập vào tài khoản nội bộ của ngân hàng
trộm cắp hơn 500 triệu đồng. Tâm khai lấy trộm mật khẩu của hai người đang công
tác tại MHB để ghi khống tiền vào tài khoản, sau đó rút ra chiếm đoạt.
(Nguồn: />trom-tien/)
 Nguyên nhân do rủi ro bên ngoài
Maritime Bank bị cướp 2010 giữa ban ngày
(VnMedia) - Trưa 5/4/10, một vụ cướp ngân hàng táo tợn đã xảy ra trên địa bàn thành
phố Hà Nội. Mục tiêu lần này của bọn cướp là Phòng giao dịch chi nhánh ngân hàng
Thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam (Maritime Bank) tại số 29 Đê La Thành.
Thời điểm xảy ra vụ cướp là thời điểm giờ nghỉ trưa. Khi ấy, chi nhánh của Ngân
hàng này đã vãn khách. Một đối tượng bịt mặt, cầm dao và một vật giống như súng
ngắn chĩa thẳng về phía ba nhân viên ngân hàng đang ngồi tại quầy giao dịch. Đối
tượng bịt mặt đã đe doạ, khống chế và cướp đi số tiền khoảng 90 triệu đồng.

Sau khi tên cướp bỏ chạy ra đường, các nạn nhân mới hô hoán. Lực lượng bảo vệ ở
bên ngoài ngân hàng đã không kịp bắt giữ. Do hung thủ bịt mặt nên các nhân viên
cũng không thể nhận diện hay ước đoán tuổi tác của đối tượng.
Trang 12
Vụ cướp cho thấy tính nghiêm trọng của vụ án khi chi nhánh Ngân hàng thương mại
cổ phần Hàng hải nằm tại tầng 1 của tòa nhà trung tâm thương mại, chỉ cách trụ sở
Công an phường Ô Chợ Dừa khoảng 10 mét.
Nguồn: /> Nguyên nhân do rủi ro pháp lý
Agribank thua kiện vì thu phí sai 2010
Thu thêm hơn 1 tỷ đồng để tư vấn tài chính?
TAND TP. Hà Nội xét xử vụ án Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Hoa Phát (quận Ba
Đình, Hà Nội) kiện Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam chi
nhánh Thanh Xuân (NN&PTNT) về việc ngân hàng thu phí 1.052.480.000 đồng sai
với quy định.
Đây là trường hợp DN hy hữu dám kiện ngân hàng, trong khi nhiều DN khác đang
phải im lặng chịu thiệt hại. Phần thắng đã thuộc về DN.
Cụ thể, ngày 13/6/2008, Công ty Hoa Phát vay Ngân hàng NN&PTNT
13.285.536.000 đồng để thanh toán nhập khẩu 23 ôtô đầu kéo. Số tiền này được dùng
để mua ngoại tệ ngay tại ngân hàng. Theo đó, DN chỉ mua được 736.000 đô la Mỹ
(USD), với số tiền VND phải trả 12.233.056.000 đồng. Số tiền còn lại hơn 1 tỷ đồng
là DN phải trả cho ngân hàng với để thanh toán phí dịch vụ mua ngoại tệ.
Bức xúc trước khoản phí tiền tỷ, DN đã kiện ngân hàng ra tòa.
Tại tòa, Ngân hàng NN&PTNT cho rằng, số tiền 1.052.480.000 đồng là khoản phí tư
vấn đầu tư tài chính theo thỏa thuận hai bên. Tuy nhiên, gọi là hợp đồng tư tài chính
tiền tệ nhưng ngân hàng lại không nêu cụ thể công việc phải làm, thời gian bắt đầu,
kết thúc. Khi toà yêu cầu xuất trình các chứng cứ chứng minh cho phần việc tư vấn đã
làm, ngân hàng cũng không có, chỉ cung cấp hợp đồng tín dụng, thỏa thuận cung cấp
dịch vụ, hợp đồng mua bán ngoại tệ
Song, tất cả những tài liệu đó vẫn không chứng minh được việc mà ngân hàng đã tiến
hành tư vấn. Tại tòa án, đại diện ngân hàng khai, việc tư vấn là trao đổi trực tiếp bằng

miệng giữa hai bên, nhưng DN không thừa nhận.
Sau khi xem xét, TAND TP. Hà Nội nhận thấy các hợp đồng tín dụng, hợp đồng mua
bán ngoại tệ, thỏa thuận cung cấp dịch vụ, ủy nhiện chi giữa các bên ký kết đều diễn
ra cùng một ngày 13/6/2008. Trong các hợp đồng vay và mua bán ngoại tệ đều ghi số
Trang 13
tiền thanh toán mua ngoại tệ là 12.233.056.000 đồng + tiền trả phí 1.052.480.000
đồng bằng số tiền vay trong hợp đồng tín dụng là 13.285.536.000 đồng.
Như vậy, ngân hàng đã thu phí liên quan đến hoạt động cho vay, mua bán ngoại tệ,
điều này làm tăng chi phí vay vốn của khách hàng, chưa đảm bảo hài hòa lợi ích tổ
chức tín dụng và khách hàng vay. Mặt khác, Luật Ngân hàng, bộ luật Dân sự và Pháp
lệnh phí và Lệ phí không quy định cụ thể về phí liên quan đến hoạt động cho vay của
tổ chức tín dụng. Hơn nữa, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã có công văn
số5158/NHNN-VSTT ngày 10/6/2008 yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện việc
không thu phí liên quan đến hoạt động cho vay.
Như vậy, khoản tiền phí đã thu không hợp lý nên phải được hoàn trả cho Công ty Hoa
Phát theo quy định.
Vì thế, tòa đã yêu cầu Ngân hàng NN&PTNT phải hoàn trả Công ty TNHH XNK Hoa
Phát số tiền phí đã thu 1.052.480.000 đồng và số tiền 192.814.336 đồng là tiền lãi
phải trả của số tiền phí trên.
(Nguồn: />sainbspagribank-thua-kien.aspx)
Các ngân hàng được lựa chọn một trong ba cách tính nhu cầu vốn cần thiết dự phòng rủi
ro hoạt động với mức độ phức tạp và nhạy cảm với rủi ro tăng dần bao gồm: Phương
pháp chỉ số cơ bản ( BIA – The Basic Indicator Approach), Phương pháp chuẩn ( TSA –
The Standardized Approach), Phương pháp nâng cao (AMA – Advaned Measurement
Approach).
Khi hoạt động của ngân hàng càng phức tạp thì cần phải áp dụng phương pháp có độ
phức tạp cao hơn, đồng thời không cho phép các ngân hàng chuyển ngược trở lại phương
pháp đơn giản một khi đã được chấp thuận sử dụng phương pháp nâng cao. Ngược lại,
nếu các ngân hàng được đánh giá là không đủ điều kiện để tiếp tục sử dụng phương pháp
nâng cao thì cần phải quay trở về phương pháp cơ bản cho đến khi đáp ứng được những

yêu cầu này,
3.1. Phương pháp chỉ số BIA
Các ngân hàng sử dụng phương pháp này cần phải nắm giữ mức vốn để dự phòng rủi ro
hoạt động bằng mức bình quân tổng thu nhập hàng năm (>0) của thời kỳ ba năm trước đó
nhân với tỷ lệ phần trăm cố định (
Trang 14
Cách tính vốn dự phòng rủi ro hoạt động trong phương pháp chỉ số cơ bản:
Với điều kiện >0 và α = 15%
KBIA: vốn yêu cầu phải dự phòng rủi ro hoạt động theo phương pháp BIA
GI: thu nhập hàng năm (>0) của 3 năm trước đó
n: số năm có thu nhập hàng năm >0
3.2. Phương pháp chuẩn TSA
Áp dụng theo phương pháp chuẩn, hoạt động ngân hàng được chia làm 8 nhóm nghiệp
vụ, mỗi nhóm nghiệp vụ có hệ số β tương ứng.
Hệ số β trong phương pháp chuẩn đối với rủi ro hoạt động
Nghiệp vụ Hệ số β
Tài trợ doanh nghiệp (β1)
Giao dịch và bán hàng (β2)
Ngân hàng bán lẻ (β3)
Nghiệp vụ NHTM (β4)
Dịch vụ thanh toán (β5)
Dịch vụ đại lý (β6)
Quản trị tài sản (β7)
Môi giới (β8)
18%
18%
12%
15%
18%
15%

12%
12%
Nguồn : International convergence of capital measurement & Capital Standards p 140
Trong mỗi nhóm , tổng thu nhập là một chỉ số phổ biến coi như một thước đo cho hoạt
động và cũng là căn cứ xác định mức độ rủi ro hoạt động. Thu nhập hàng năm được đo
cho từng loại nghiệp vụ.
Cách tính vốn dự phòng rủi ro hoạt động trong phương pháp chuẩn :
=
KTSA là vốn yêu cầu dự phòng rủi ro hoạt động theo phương pháp chuẩn
GI là thu nhập hàng năm đối với từng nhóm nghiệp vụ trong số 8 nhóm
Trang 15
3.3. Phương pháp nâng cao
Sự lựa chọn hiện đại nhất cho đến ngày nay khi tính toán nhu cầu vốn dự phòng cho rủi
ro hoạt động chính là sử dụng phương pháp AMA. Theo phương pháp này, yêu cầu vốn
được tính dựa trên hệ thống nội bộ đánh giá rủi ro hoạt động cơ bản của ngân hàng. Hệ
thống không chỉ thống kê thiệt hại bên trong và bên ngoài thực tế mà còn phân tích theo
trình tự thời gian các yếu tố liên quan đến môi trường kinh doanh cũng như môi trường
kiểm soát nội bộ của ngân hàng. Ngân hàng muốn sử dụng phương pháp nâng cao AMA
cần phải được cơ quan giám sát chủ quản đồng ý và được sự hổ trợ của cơ quan này, nên
phương pháp AMA trở nên ít thông dụng hơn so với phương pháp chuẩn TSA.
3.4. Ví dụ
Trang 16
4.
Thực
trạng
công tác
quản trị
RRTN tại
các
NHTM Việt

Nam
4.1. Các
quy
định
hiện
hành của
Ngân
hàng Nhà
nước
Mặc dù có nhiều nỗ lực song cho tới nay Việt Nam vẫn chưa thiết lập được khuôn khổ
pháp lý chính thức cho hoạt động QTRRTN. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(NHNN) vẫn đang nghiên cứu để thiết lập lộ trình áp dụng Basel II cho ngành ngân hàng.
4.2. Tình hình tuân thủ của các Ngân hàng thương mại
Trong những năm gần đây, các NHTM cũng đã nghiêm chỉnh chấp hành các quy định,
văn bản quy phạm pháp luật mà Chính phủ, NHNN và các Bộ, Ban, Ngành đưa ra. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện các văn bản, một vài ngân hàng vẫn còn chưa nhận ra
tính nghiêm trọng trong việc chấp hành các quy định này nên vẫn tìm cách lách luật, cố ý
vi phạm. Những hành vi này đều được xử lý nghiêm túc, mang lại tính chuẩn mực và
đúng đắn, tạo lập lại tính nghiêm minh của pháp luật.
Trang 17
Trong quá trình tác nghiệp hàng ngày, các NHTM Việt Nam cũng đã chú ý đến việc hạn
chế các sai sót, sai phạm, kể cả từ bên trong lẫn bên ngoài. Tuy nhiên, việc xác định tầm
quan trọng của QTRRTN đối với các NHTM vẫn chưa tương xứng với vai trò thực sự
của nó, đặc biệt là so với mối quan tâm và những nỗ lực của ngân hàng trong quản lý rủi
ro tín dụng và rủi ro thị trường. Hệ thống quản lý rủi ro của các NHTM Việt Nam hầu
như vẫn đang bỏ ngỏ và chưa được đầu tư xây dựng một cách thỏa đáng và chuyên
nghiệp.
4.3. Về cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro tác nghiệp
4.3.1 Về cơ cấu quản trị rủi ro
Hầu hết các NHTM đều chưa hình thành được một cơ cấu QTRRTN hoàn chỉnh và đầy

đủ. Một số ngân hàng đi tiên phong như NHTMCP Công thương Việt Nam, Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam, NHTMCP Á Châu … đã có Ban quản lý rủi ro, Hội đồng
ALCO tại Trụ sở chính theo mô hình hiện đại, tuy nhiên hoạt động của Ban quản lý rủi
ro, Hội đồng ALCO vẫn chưa bao gồm đầy đủ các chức năng, và chưa thể hiện được vai
trò, ảnh hưởng đáng kể trong các quyết định kinh doanh của Ngân hàng.
Theo như báo cáo thống kê tới ngày 31/12/2011 thì chỉ có vài ngân hàng có bộ phận quản
trị rủi ro tác nghiệp tương đối hiệu quả, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng hoàn chỉnh.
Đó là ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam,
Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP Quân đội, Ngân hàng Đầu tư
và phát triển Việt Nam, Ngân hàng TMCP Á Châu và một số ngân hàng khác. Ngoài ra,
một số NHTM khác cũng có thành lập ra ban Quản trị rủi ro tác nghiệp nhưng hoạt động
chưa thực sự hiệu quả.
4.3.2 Về xây dựng khung pháp lý, quy định, quy trình quản trị RRTN
Có thể nói các NHTM Việt Nam đều chưa xây dựng được khung pháp lý hoàn chỉnh về
QTRRTN. NHTMCP Công thương Việt Nam và Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt
Nam đã có quy định tạm thời về QTRRTN, áp dụng cho toàn hệ thống. Tuy nhiên, Quy
định này mới xây dựng lần đầu, dựa trên tham khảo các nguồn tài liệu nước ngoài nên
chưa thể chuẩn hóa ngay và áp dụng vào thực tế cũng có những bất cập. Nội dung chính
Trang 18
của Quy định đề cập đến các vấn đề như: trách nhiệm và quyền hạn của các cấp điều
hành, các phòng ban, các cán bộ đối với QTRRTN; các loại RRTN; nội dung thực hiện
QTRRTN tại các bộ phận… Quy định cũng đưa ra các mẫu biểu báo cáo hàng quý, nhằm
thu thập và tổng hợp các lỗi, sai sót, tổn thất rủi ro tác nghiệp trong hệ thống, từng bước
xây dựng cơ sở dữ liệu RRTN.
4.3.3 Về thu thập dữ liệu tổn thất quản lý rủi ro tác nghiệp
Các NHTM Việt Nam hiện đang tiến hành thu thập dữ liệu tổn thất nội bộ theo nhiều
cách thức khác nhau, song về cơ bản vẫn chỉ dựa trên ghi chép và báo cáo thủ công từ các
Chi nhánh, đơn vị. Bên cạnh đó, các lỗi, sai sót hay chính xác hơn là các sự cố về hệ
thống công nghệ tuy xảy ra với tần suất nhỏ hơn, số tiền liên quan cũng có thể nhỏ hơn
nhiều, nhưng mức độ ảnh hưởng của nó đối với ngân hàng lại không hề nhỏ. Sở dĩ như

vậy vì sự cố hệ thống gây ảnh hưởng trên diện rộng, cùng lúc ảnh hưởng đến rất nhiều
khách hàng, rất nhiều giao dịch. Rủi ro về tác nghiệp xoay quanh 4 nguyên nhân chính là
con người như, hệ thống thông tin, quy trình và do khách quan. Những rủi ro này trong
tình hình hiện nay càng trở nên phổ biến.
Nói tóm lại, việc thu thập dữ liệu nội bộ của các NHTM Việt Nam hiện nay chưa đầy đủ,
thiếu khoa học và còn nhiều bất cập. Điều này đặt ra cho các NHTM một nhiệm vụ là cần
phải xem xét và thực hiện sao cho đảm bảo độ chính xác, tin cậy thì mới có thể tạo nền
tảng đưa ra những nhận xét, đánh giá, đo lường chính xác RRTN.
4.3.4 Về đo lường, giám sát rủi ro tác nghiệp
Ngoại trừ một vài NHTM cũng đã trang bị phần mềm và triển khai quản trị RRTN trên
toàn hệ thống (NHTMCP Công thương Việt Nam, ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt
Nam,…) thì còn lại đa phần các NHTM khác đều chưa thể đi đến bước đo lường RRTN.
4.3.5 Về công nghệ hỗ trợ quản trị rủi ro tác nghiệp
Trang 19
Hiện nay một số ngân hàng đã tự xây dựng và đang triển khai việc QTRRTN theo các
phương pháp thủ công, sử dụng xác suất thống kê thông thường. Việc QTRRTN chỉ đang
ở giai đoạn bước đầu thu thập thủ công các dữ liệu về lỗi, sai sót của toàn hệ thống.
4.4. Tự đánh giá kiểm soát rủi ro, xác định chỉ số rủi ro chính
Một vài NHTM cũng đang từng bước xây dựng Bảng hỏi tự kiểm soát rủi ro, tuy nhiên
mới ở mức độ sơ khai, còn cần phải chỉnh sửa, bổ sung nhiều. Khó khăn chung là các
NHTM Việt Nam chưa có nguồn tham khảo, hướng dẫn đáng tin cậy cho việc QTRRTN.
4.5. Về đào tạo nguồn nhân lực làm công tác quản lý rủi ro tác nghiệp
Tại Việt Nam, nguồn nhân lực chuyên sâu về QTRRTN còn rất hiếm. Đa phần các cán bộ
làm công tác QTRRTN tại các NHTM Việt Nam hiện nay đều xuất phát từ các nghiệp vụ
khác, mới chuyển sang làm quản trị rủi ro nên kiến thức và kinh nghiệm chưa nhiều. Các
NHTM cũng thường xuyên tìm kiếm và cử cán bộ tham gia các khóa đào tạo, hội thảo
RRTN trong và ngoài nước, tuy nhiên nội dung đào tạo chưa thật bài bản, kỹ lưỡng. Chi
phí tham gia các khóa học về lĩnh vực này khá cao, vì vậy việc tham gia học hỏi còn gặp
nhiều khó khăn. Các tài liệu đào tạo RRTN tại Việt Nam cũng còn rất ít.
4.6. Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng

Hiện nay, Cơ quan thanh tra, giám sát chủ yếu vẫn sử dụng tiêu chí giám sát từ xa là chủ
yếu và đang tiến đến phương thức theo nhóm đối với thanh tra, giám sát các ngân hàng
riêng lẻ. Điều này có nghĩa là một nhóm các thanh tra, giám sát sẽ chịu trách nhiệm cho
một ngân hàng. Đây thường là bước đi cần thiết đầu tiên để đặt đúng chỗ khái niệm giám
sát liên tục các ngân hàng, một yếu tố cần thiết cho các cơ quan quản lý để hiểu và do đó
quản lý rủi ro cả đối với các ngân hàng riêng lẻ và cả hệ thống.
4.7. Bảo hiểm tiền gửi
Một hệ thống bảo hiểm tiền gửi hoạt động tốt đã được nhìn nhận như một yếu tố quan
trọng trong việc khuyến khích huy động tiền gửi bằng cách tăng cường lòng tin mà những
người gửi tiền, đặc biệt là những người gửi tiền nhỏ, sẽ được bảo vệ trong tình huống
ngân hàng phá sản. Một hệ thống tốt có thể tránh cho các ngân hàng khỏi bị rút tiền ồ ạt
và hỗn loạn (điều đã từng phổ biến) trong các thời gian chịu áp lực kinh tế và khu vực tài
chính. Nhưng mặt khác, bảo hiểm tiền gửi có thể dẫn tới tâm lý ỷ lại nếu như các ngân
hàng tham gia vào những hoạt động rủi ro khi biết rằng những người gửi tiền sẽ được bồi
hoàn toàn bộ bởi hệ thống bảo hiểm.
Trang 20
Việt Nam thành lập Cơ quan bảo hiểm tiền gửi (DIV) bằng Nghị định số 89 năm 1999.
Bảo hiểm tiền gửi là trách nhiệm đối với tất cả các định chế nhận tiền gửi, các ngân hàng
hoặc các định chế tài chính phi ngân hàng được cấp phép theo Luật Các TCTD. DIV đã
tiến hành một số biện pháp để củng cố và hiện đại hóa hoạt động của mình, tập trung vào
việc cải thiện các cơ chế chi trả của mình để bảo đảm cho các khoản thanh toán được
thực hiện chính xác và phù hợp, tập trung vào việc thiết lập nên một hệ thống cảnh báo
sớm mạnh.
5. Đánh giá chung hoạt động QTRRTN tại các NHTM Việt Nam
5.1. Kết quả đạt được
Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã phát triển nhanh cả về quy mô
và chất lượng. Không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, ngành ngân hàng rất chú trọng
trong việc đẩy mạnh các hoạt động liên quan đến thị trường và sản phẩm dịch vụ ngân
hàng hiện đại. Bên cạnh các dịch vụ truyền thống, các ngân hàng cũng rất cố gắng trong
việc đa dạng hóa các loại hình sản phẩm để cung cấp cho xã hội.

Cùng với đó thì công tác QTRR nói chung và QTRRTN nói riêng đã được các NHTM
chú trọng coi đây là một ưu thế trong cạnh tranh. Bằng chứng là việc trong bộ máy tổ
chức của các NHTM đã có sự hiện diện của uỷ ban quản lý rủi ro. Tuy còn nhiều hạn chế,
nhưng trong thời gian gần đây, với sự nỗ lực của các NHTM thì việc kiểm soát rủi ro nói
chung và RRTN nói riêng đã bước đầu thu được những kết quả đáng khích lệ: giảm thiểu
rủi ro do lỗi quy trình, công nghệ và con người
5.2. Đánh giá hiệu quả QTRRTN tại các NHTM Việt Nam
5.2.1. Mặt tích cực
- Giúp cho ngân hàng hạn chế được rủi ro, nâng cao chất lượng hoạt động.
- Giúp nhà quản trị nhìn ra sơ hở, hạn chế trong các nghiệp vụ và tập trung giải quyết
những tồn tại.
- Nâng cao chất lượng kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
- Bước đầu tạo lập được một hệ thống QTRRTN, đi sâu vào bản chất của việc tạo ra lợi
nhuận từ việc hạn chế rủi ro.

5.2.2. Hạn chế
Trang 21
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong công tác QTRRTN của các NHTM Việt Nam
vẫn còn nhiều hạn chế (Khả năng quản trị rủi ro còn yếu kém; Chính sách quản trị rủi ro
còn nhiều bất cập; Quy trình quản trị rủi ro chưa hoàn thiện; Công nghệ lỗi thời; Con
người chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao).
(*) Nguyên nhân
a. Nguyên nhân chủ quan
+ Công tác đào tạo nguồn nhân lực của các NHTM.
+ Chưa ứng dụng, hoặc chưa vận dụng hết tính năng của công nghệ hiện đại.
+ Công tác dự đoán rủi ro còn nhiều hạn chế.
+ Hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện quy trình giao dịch của các NHTM còn nhiều
hạn chế.
+ Chưa chủ động trong phòng ngừa các rủi ro do các yếu tố khách quan mang lại.
b. Nguyên nhân khách quan

Hiện nay, Basel II là công cụ hữu hiệu nhất để định hướng cho việc phòng ngừa, giám sát
và kiểm soát rủi ro tác nghiệp. Nhưng tại Việt Nam, việc triển khai thực hiện Basel II còn
nhiều khó khăn do thiếu các văn bản hướng dẫn thực hiện của Ngân hàng nhà nước.
Môi trường kinh doanh tại Việt Nam còn nhiều bất cập nên còn tiềm ẩn nhiều rủi ro cho
các NHTM trong quá trình hoạt động, như hệ thống văn bản pháp luật
5.2.3. Cơ hội
- Hệ thống ngân hàng có sự quan tâm đúng mức hơn đối với quản trị rủi ro nói chung và
quản trị rủi ro tác nghiệp nói riêng.
- Tiếp cận với mô hình QTRRTN mới và tiên tiến hơn.
- Đào tạo nguồn nhân lực dồi dào cho lĩnh vực quản trị.
5.2.4. Thách thức
- Dễ bị ảnh hưởng bởi các tác động từ bên ngoài.
- Sự ổn định hệ thống bị đe dọa khi chưa xây dựng đầy đủ cơ sở pháp lý và thực thi quản
trị ngân hàng thận trọng.
- Cạnh tranh mạnh mẽ và khốc liệt dễ dẫn đến thất bại và sụp đổ hệ thống.
Trang 22
- Công nghệ phải tương thích.
- Các ngân hàng liên tục phải điều chỉnh để đáp ứng với sự thay đổi của hệ thống pháp lý.
- Tư duy văn hóa quản trị rủi ro.
- Chất lượng nguồn nhân lực không theo kịp tốc độ phát triển và yêu cầu hội nhập.
Qua việc nghiên cứu thực trạng quản trị rủi ro nói chung và quản trị rủi ro tác nghiệp tại
các Ngân hàng thương mại Việt Nam, có thể nhận thấy rằng công tác quản trị rủi ro tại
các Ngân hàng thương mại vẫn chưa được hoàn thiện và còn nhiều bất cập, nhất là với rủi
ro tác nghiệp. Điều này đòi hỏi cần có những giải pháp cụ thể từ phía Ngân hàng Nhà
nước và các Ngân hàng thương mại nhằm tăng cường công tác quản trị rủi ro nói chung
và rủi ro tác nghiệp nói riêng để đảm bảo an toàn hoạt động và nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngân hàng. bớt thiệt hại gây ra do những sự kiện, thời tiết không lường trước
được và các áp lực khác nằm ngoài khả năng kiểm soát của ngân hàng. Các ngân hàng
công khai mô tả về việc sử dụng bảo hiểm của ngân hàng đối với mục đích giảm thiểu
RRTN. Để tăng cường công tác quản trị rủi ro tác nghiệp đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ

nhiều giải pháp từ phía Ngân hàng nhà nước và các Ngân hàng thương mại, trong đó thì
việc vận dụng những chuẩn mực của Uỷ ban Basel trong Basel II là vô cùng quan trọng,
mang tính định hướng cho việc thực hiện quản trị rủi ro tác nghiệp.
6. Nội dung thiết yếu khi triển khai hoạt động QLRRTN tại các NHTM ở Việt Nam
6.1. Thiết lập và hoàn thiện khung QLRRTN
Nền móng cơ sở vững chắc cho hoạt động QLRRTN tại các NHTM ở Việt Nam chính là
khung QLRRTN hướng theo chuẩn quốc tế, bao gồm: chính sách, cơ cấu tổ chức, quy
Trang 23
Khung QLRRTN hiệu quả.
trình và giải pháp phần mềm QLRRTN trong nội bộ NHTM. Trong bối cảnh hiện tại, các
NHTM hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của NHNN,
do vậy các NHTM cần xem xét kỹ lưỡng để quyết định lựa chọn khung QLRRTN sao
cho đáp ứng được những yêu cầu cơ bản theo chuẩn mực quốc tế như:
• Chiến lược của ngân hàng và phương pháp QLRRTN phải ăn khớp với nhau;
• Xác định được các phương pháp thực hành quản lý và đo lường RRTN;
• Đưa ra các công cụ chuẩn mực về xác định, đo lường, kiểm tra, giám sát, báo cáo trong
toàn hệ thống nhằm đưa vào chương trình QLRRTN.
Để đáp ứng được các yêu cầu cơ bản trên, các NHTM cần phải xác định chiến lược và
phương pháp quản lý rủi ro đúng đắn; xác định vai trò, chức năng và trách nhiệm, quyền
hạn của các bộ phận trong tổng thể bộ máy cơ cấu tổ chức; đưa ra các yêu cầu về thực
hành quản lý rủi ro; phổ biến rộng rãi trong toàn hệ thống, nhất quán việc QLRRTN;
quan trọng hơn là ứng dụng các công cụ quản lý như: kiểm tra hạ tầng, tự đánh giá và
kiểm soát rủi ro thông qua bảng hỏi (RCSA – Risk Control Self Assessment), thu thập dữ
liệu sự kiện RRTN/ phân tích, dữ liệu tổn thất khác ngoài hệ thống, chỉ số rủi ro chính
(KRI – Key Risk Indicator), phân tích kịch bản, phân tích rủi ro, đo lường rủi ro (VaR –
Value at Risk) và báo cáo, phân bổ vốn chịu rủi ro; từ đó có các phương án phòng tránh
RRTN như: mua bảo hiểm/chuyển rủi ro.
Mô hình tổ chức QLRRTN ở nhiều NHTM trên thế giới
6.2. Triển khai áp dụng khung QLRRTN
Trang 24

Sau khi xây dựng được khung QLRRTN, các NHTM thực hiện các bước theo quy trình
chuẩn của thông lệ quốc tế nhằm xác định RRTN trong chính sách, quy định, quy trình và
cả văn hóa, thói quen làm việc của cán bộ trong nội bộ ngân hàng.
Quy trình QLRRTN hiệu quả.
Công việc có vai trò quan trọng trong quy trình QLRRTN là giai đoạn thu thập các dữ
liệu rủi ro trong quá khứ và hiện tại của NHTM theo các nguồn khác nhau:
• Từ các hoạt động nghiệp vụ, các phòng/ban/đơn vị trong hệ thống (ở đây các trưởng
phòng/ban/đơn vị có trách nhiệm khai báo và lưu trữ các rủi ro phát sinh trong quá trình
tác nghiệp);
• Các bộ phận giám sát, kiểm soát có trách nhiệm khai báo và lưu trữ các rủi ro phát sinh
trong quá trình kiểm tra, kiểm soát;
• Chiết xuất lỗi, sự cố và tổn thất từ các hệ thống khác trong ngân hàng như: core
banking, các module: internet banking, thẻ, treasury,
• Ngoài ra còn từ các nguồn cung cấp dữ liệu tổn thất bên ngoài như: ORX – Operational
Riskdata eXchange, BIS – Bank of International Settlement… hoặc từ các sự kiện rủi ro
đã được báo chí đăng tải, sử dụng các nguồn dữ liệu bên ngoài và giả sử các sự kiện rủi
Trang 25

×