Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN THEO BASEL VÀ THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.87 KB, 21 trang )

QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN THEO BASEL VÀ THỰC
TIỄN TẠI VIỆT NAM
1. Giới Thiệu Đề Tài
1.1 Lý do chọn đề tài
Thanh khoản là yếu tố sống còn đối với việc tồn tại của mọi ngân hàng, rủi ro thanh khoản thời
gian qua báo động hơn khi nợ xấu chung trong ngành ngân hàng tăng cao và nhiều trường hợp
sai phạm trong ngành làm tâm lý NDT gửi tiền ở kỳ hạn ngắn và hoạt đổng gởi rút NDT biến
động nhiều hơn. Bên cạnh đó các chuẩn mực đánh giá thanh khoản tại Việt Nam chưa cập nhật
theo thông lệ mới của quốc tế nên sẽ còn nhiều bất cập và đánh giá quản trị thanh khoản chưa
hợp lý.
Thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản của các Ngân hàng tại Việt Nam tuy có nhiều đề tài tham
gia tìm hiểu, nhưng vẫn ít đề tài cho cái nhìn bao quát, và so sánh theo từng chuẩn mực Basel.
Nhóm tác giả hi vọng qua tìm hiểu thực tế, sẽ có những kết luận khái quát, sát thực, và đưa ra
được những giải pháp thiết thực cho hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản sớm đạt được những
yêu cẩu theo các chuẩn mựa Basel mới của quốc tế.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Quản trị thanh khoản theo các chuẩn mực Basel. Sự cải tiến theo các chuẩn mực (So sánh điểm
khác nhau, tiến bộ theo từng nâng cấp lên các Basel).
Thực trạng quản trị thanh khoản các Ngân hàng tại Việt Nam.
Khả năng ứng dụng Basel II, và III tại Việt Nam.
1.3 Đối tượng
Quản trị thanh khoản theo chuẩn mực basel I, II, III, đối tượng áp dụng Các NH tại Việt Nam.
Tại Việt Nam các Ngân hàng cơ bản đã hoàn thiện được chuẩn mực theo Basel I, việc áp dụng
Basel đang được hoàn thiện và nằm trong lỗ trình chỉ đạo của Ngân hàng Nhà Nước. Bài nghiên
cứu tập trung nghiên cứu về chuẩn mực đánh giá thanh khoản của Basel II, và III, nhưng trong
phần thực trạng nhóm sẽ tập trung vào tìm hiểu thực trạng và khả năng áp dụng Basel II tại Việt
Nam.
1
2. Quản trị thanh khoản theo Chuẩn mực Basel
2.1. Hiệp ước Vốn Basel
Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision - BCBS) được


thành lập vào năm 1974 bởi một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10
nước phát triển (G10) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng
loạt của các ngân hàng vào thập kỷ 80. Hiện nay, các thành viên của Ủy ban gồm đại diện ngân
hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của các nước: Anh, Bỉ, Canada,
Đức, Hà Lan, Hoa Kỳ, Luxembourg, Nhật, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ và Ý. Ủy
ban được nhóm họp 4 lần trong một năm.
Ủy ban Basel không có bất kỳ một cơ quan giám sát nào và những kết luận của Uỷ ban này
không có tính pháp lý và yêu cầu tuân thủ đối với việc giám sát hoạt động ngân hàng. Thay vào
đó, Ủy ban Basel chỉ xây dựng và công bố những tiêu chuẩn và những hướng dẫn giám sát rộng
rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất trong kỳ vọng rằng các tổ chức riêng lẻ sẽ
áp dụng rộng rãi thông qua những sắp xếp chi tiết phù hợp nhất cho hệ thống quốc gia của chính
họ. Theo cách này, Ủy ban khuyến khích việc áp dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn chung mà
không cố gắng can thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các nước thành viên.
2.1.2 Basel 1
Năm 1988, Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng(BCBS) ở Basel, Thụy Sĩ, đã xuất bản một tập
hợp các yêu cầu về vốn tối thiểu đối với các ngân hàng. Còn được gọi là hiệp ước Basel 1988, và
được thi hành theo quy định của pháp luật trong nhóm G10, vòa năm 1992.
Mục đích của Basel I: Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế;
Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh tranh không
lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
Theo quy định của Basel I, các ngân hàng cần xác định tỷ lệ vốn tổi thiểu (Capital Adequacy
Ratio – CAR) đạt tối thiểu 8% để bù đắp cho rủi ro, đây là biện pháp dự phòng bắt buộc nhằm
đảm bảo khả năng phụ chổi tổn thất.
Tổng vốn gồm: Vốn cấp 1( tự có cơ bản) và vốn cấp 2 (vốn tự có bổ sung).
Tài sản có rủi ro (RWA) ở Basel I chỉ để cấp đến rủi ro tín dụng. RWA = Tài sản* Hệ số rủi ro.
Hạn chế Basel I: chưa tính đến lợi ích của đa dạng hóa hoạt động (Theo Basel I, quy định về vốn
tối thiểu không khác biệt giữa một ngân hàng có hoạt động kinh doanh đa dạng (ít rủi ro) và một
ngân hàng tập trung kinh doanh (thường nhiều rủi ro). Chưa tính đến rủi ro khác như rủi ro thị
trường, rủi ro hoạt động,…
2

2.1.2 Basel 2
Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng 6/1999, Uỷ ban Basel đã đề xuất khung đo lường
mới với 3 trụ cột chính. Đến ngày 26/6/2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn Basel mới (Basel II)
đã chính thức được ban hành.
Mục tiêu của Basel II: Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc tế; Tạo
lập và duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên bình diện quốc tế; Đẩy
mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản lý rủi ro.
Basel II gồm một loạt các chuẩn mực giám sát và được cấu trúc theo 3 trụ cột sau:
Trụ cốt thứ nhất: Quy định yêu cầu về vốn tối thiểu.
Trụ cột thứ hai: Hướng dẫn về công tác giám sát ngân hàng.
Trụ cột thứ ba: Yêu cầu các ngân hàng cần minh bạch thông tin liên quan đến vốn, rủi ro để đảm
bảo khuyến khích các nguyên tắc của thị trường.
Điểm mới Basel II so với Basell I:
Trong an toàn vốn tối thiểu xét đến rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, đưa ra nhiều quy định để
các ngân hàng tránh khỏi rủi ro về mặt dữ liệu và thông tin.
Phân loại về hạng mức tín nhiệm, và chặt chẽ hơn trong giám sát. Phạm vi Bael II rộng hơn gồm
các ngân hàng quốc tế và các công ty mẹ.
2.1. 1.3 Basel 3
Ra đời cuối năm 2010 với những quy định chặt chẽ hơn, sau khủng hoảng tài chính diễn ra năm
2008 đã bộc lỗ nhưng kẻ hỡ của Basel II.
Mục tiêu Basel III: nâng cao chất lượng vốn của Ngân hàng, và xét nhiều hơn đến rủi ro thị
trường, và rủi ro thanh khoản.
Một số điểm mới của Basel III
Thứ nhất, nâng cao chất lượng vốn. Theo Basel III những tài sản có chất lượng kém sẽ được
khấu trừ vào vốn cấp 1 và vốn cấp 2.
Thứ hai, yêu cầu các ngân hàng bổ sung thêm vốn. Tùy thuộc vào điều kiện kinh doanh, rủi ro
mà yêu cầu bổ xung thêm vốn. Nhằm đảm bảo năng lực tài chính.
Thứ ba, giới thiệu phương pháp giám sát an toàn vĩ mô hệ thống để các ngân hàng áp dụng. Yếu
tố quan trọng thứ 3 của quy định mới về vốn là phương pháp giám sát an toàn vĩ mô đề cập tới
rủi ro hệ thống. Theo BIS, có hai việc cần làm để hạn chế rủi ro hệ thống hiệu quả. Thứ nhất là

3
giảm mức độ khuyếch đại của khủng hoảng theo chu kỳ kinh tế. Đó là xu hướng hệ thống tài
chính có thể làm khuyếch đại giai đoạn thăng trầm của nền kinh tế thực. Việc thứ hai là mối quan
hệ phụ thuộc và những rủi ro chung của các tổ chức tài chính, đặc biệt đối với những ngân hàng
có vai trò quan trọng trong hệ thống.
Thứ tư, quy định về tiêu chuẩn thanh khoản. Đây là một điểm mới nổi trội mà các Basel trước
chưa đề cập rõ.
2.2 Quản trị rủi ro thanh khoản theo chuẩn mực Basel
2.2.1 Khái niệm cơ bản
Thanh khoản: Là khả năng tiếp cận các khoản tài sản hoặc nguồn vốn có thể dùng để chi trả với
chi phí hợp lý ngay khi nhu cầu vốn phát sinh.
Rủi ro thanh khoản: loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp ngân hàng thiếu khả năng chi trả,
không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền hoặc không có khả năng vay mượn để đáp ứng yêu
cầu của các hợp động thanh toán.
Cung thanh khoản: là các khoản vốn lằm tăng quỷ của ngân hàng, là nguồn cung cấp thanh
khoản cho NH: Các khoản tiền gởi đang đến (S1), thu nhập bán các khoản dịch vụ (S2), thu hồi
tín dụng đã cấp (S3), bán các tài sản đang kinh doanh và sử dụng (S4), Các khoản cung khác
(S5).
Cầu Thanh khoản: là nhu cầu vốn cho các mục đích của ngân hàng làm giảm quỷ của ngân
hàng đó: khách hàng rút các khoản tiền gởi (D1), yêu cầu cấp các khoản tín dụng (D2), hoàn trả
các khoản vay mựơn phi tiền gửi (D3), chi phí phát sinh ki kinh doanh các sản phẩm và dịch vụ
(D4), thanh toán cổ tức cho các cổ đông D(4).
2.2.2 Quản trị rủi ro theo Basel
Trạng thái thanh khoản ròng: (Net Liquidity Position) = Tổng cung thanh khoản – Tổng cầu
thanh khoản.
(NLP
t
) = (S1 + S2 + S3 +S4 + S5) – (D1 +D2 +D3 + D4 +D5)
: Thặng dư thanh khoản. Ngân hàng sẽ sử dụng thanh khoản thừa bằng cách mua các chứng
khoán dự trữ thứ cấp; Cho vay trên thị trường tiền tệ; Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng khác.

: thiếu thanh khoản. Ngân hàng sẽ áp dụng những biện pháp xử lý như sau: Sử dụng dự trữ bắt
buộc dư ra; Bán dự trữ thứ cấp; Vay qua đêm, Vay tái chiết khấu NHNN, phát hành chứng chỉ
tiền gửi có mệnh giá lớn để huy động vốn; Huy động từ thị trường tiền tệ.
Một số Nguyên nhân dẫn đến thanh khoản
4
Thứ nhất, mất cân xứng ngày đáo hạn của các khoản sử dụng vốn và ngày đáo hạn của các nguồn
huy động.
Thứ hai, do sự nhạy cảm của tiền gửi với sự thay đổi lã suất đầu tư. Khách hàng gởi tiền có thể
rút tiền và đầu tư kênh khác.
Thứ ba, do ngân hàng có chiến lược quản trị thanh khoản không phù hợp và kém hiệu quả (đầu
tư các chứng khoán, BĐS có thanh khoản thấp, dự trữ ngân hàng không đủ).
Thứ tư, do yếu tố tâm lý.
2.2.2.1 Tiêu chí đánh giá rủi ro thanh khoản theo Basel I Và II
Basel I đặt nền tảng đầu tiên về Vốn của ngân hàng, những phương pháp xác định rủi ro tín
dụng. Tuy có những thành tưu, nhưng Basel I vẫn chưa đề cập rõ đến rủi ro thanh khoản về cách
đo lường, các phương pháp quản trị rủi ro thanh khoản. Chúng ta có thể hiểu rủi ro thanh khoản
ở trong Basel I giới hạn ở tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
Basel II chưa có quy định cụ thể về cách tính và quản trị rủi ro thanh khoản mà xác định rủi ro
thanh khoản là 1 loại rủi ro nằm trong 1 tập “rủi ro còn lại” (residual risk) nằm ngoài rủi ro tín
dụng. Trụ cột 2 của basel cung cấp cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro còn lại này
(residual risk), theo đó, các ngân hàng thương mại có thể tự xây dựng cách tính và quy trình
quản trị rủi ro cho mình, các nhà giám sát sẽ kiểm tra và can thiệp khi thấy các ngân hàng thương
mại không tuân thủ quy trình này, ví dụ như : có biện pháp bắt buộc họ nâng tỷ lệ H3 lên.
Bốn nguyên tắc để xem xét giám sát trụ cốt 2 của Basel II
• Ngân hàng nên có một quy trình xác định mức độ vốn nội bộ theo mức rủi ro và chiến
lược duy trì mức vốn của họ.
• Các giám sát viên nên xem xét và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội bộ và chiến
lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ lệ vốn tối thiểu.
• Khuyến nghị rằng ngân hàng nên giữ mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định.
• Những người giám sát sẽ tìm cách thâm nhập vào những giai đoạn đầu tiên để ngăn cản

mức vốn giảm xuống dưới mức tối thiểu.
2.2.2.2 Tiêu chí đánh giá Thanh khoản theo Basel 3
Tháng 12 năm 2010, Uỷ ban Basel tiếp tục bổ sung những nguyên tắc mới nhằm tăng cường
khung pháp lý quản trị rủi ro thanh khoản thông qua hai tiêu chuẩn về tính thanh khoản với mục
tiêu cải thiện khả năng chống đỡ các cú sốc phát sinh từ áp lực nền kinh tế và áp lực tài chính,
hơn thế nữa ngăn chặn và giảm thiểu rủi ro lan truyền từ định chế tài chính sang nên kinh tế thực.
Các tiêu chuẩn này được phát triển dựa trên hai mục tiêu độc lập:
5
• Mục tiêu thứ nhất, cải thiện khả năng phục hồi trong ngắn hạn bằng cách đảm bảo yêu
cầu các loại tài sản có tính thanh khoản cao để phòng ngừa các trường hợp biến động
trong một tháng. Ủy ban đã xây dựng tỷ số đảm bảo khả năng thanh khoản (liquidity
coverage ratio )- LCR để đạt được mục tiêu này.
• Mục tiêu thứ hai, cải thiện khả năng phục hồi kéo dài hơn một tháng bằng cách khuyến
khích các ngân hàng hoạt động dựa trên nguồn vốn ổn định. Tỷ lệ quỹ bình ổn ròng (The
net stable funding ratio - NSFR) có thời gian một năm và được phát triển dựa trên cung
cấp cấu trúc ngày đáo hạn của các loại tài sản và nghĩa vụ nợ.
a) Chỉ số đảm bảo khả năng thanh khoản – LCR
Muc tiêu
Tiêu chuẩn này nhằm tiêu chí đảm bảo cho ngân hàng duy trì được mức độ an toàn khi các tài
sản chưa thế chấp, tài sản có tính thanh khoản cao là tài sản có khả năng chuyển đổi thành tiền để
đáp ứng nhu cầu thanh khoản trong vòng 30 ngày dưới áp lực thanh khoản đáng kể. Tối thiểu,
chứng khoán của các loại tài sản thanh khoản vẫn còn tồn tại chịu áp lực trong vòng một tháng
xảy ra áp lực thanh khoản.
Xác định
Chỉ số LCR cấu tạo từ hai thanh phần
• Giá trị của các loại chứng khoán của các loại tài sản có tính thanh khoản cao chịu được
áp lực
• Tổng giá trị dòng tiền ròng được tính toán dựa vào từng bối cảnh riêng
• Chứng khoán của các tài sản có tính thanh
khoản cao

Dựa trên tiêu chuẩn, các ngân hàng phải nắm giữ các loại chứng khoán chưa được thế chấp của
các tài sản có tính thanh khoản cao để đảm bảo chi dòng tiền ròng trong vòng 30 ngày dựa trên
những qui định trong bối cảnh xảy ra mất thanh khoản. Để đạt được tính thanh khoản cao, các tài
sản này phải thanh khoản trên các thị trường trong suốt quá trình mất thanh khoản đồng thời các
loại tài sản này phải mang tính pháp lý của ngân hàng trung ương. Các loại tài sản có tính thanh
khoản cao có những đặc tính thanh khoản đồng thời đáp ứng những qui đinh hoạt động ngân
hàng.
6
Những đặc tính của tài sản có tính thanh khoản cao:
• Đặc tính cơ bản: Rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng thấp , xác định giá trị dễ dàng và
chắc chắn, mối tương quan giữa các rủi ro của tài sản thấp, các tài sản này nằm trong
danh sách của thị trường phát triển.
• Đặc tính liên quan đến thị trường: thị trường qui mô và năng động, có sự cam kết đảm
bảo của những nhà tạo lập thị trường, mức độ tập trung thị trường thấp nhằm đa dạng hóa
người mua và người bán để gia tăng sự tín nhiệm của tính thanh khoản tài sản, thị trường
có xu hướng hoạt động trong thời kỳ khủng hoảng hệ thống.
Basel III phân chia tài sản có tính thanh khoản thành 2 loại, trong đó loại 1 không bị giới hạn dự
trữ, trong khi đó loại 2 bị giới hạn dữ trữ dưới 40% giá trị chứng khoán đó.
• Tổng giá trị dòng tiền ròng
Tổng giá trị dòng tiền ròng được định nghĩa như là tổng dòng tiền ra kỳ vọng vào trừ đi tổng
dòng tiền vào kỳ vọng trong những bối cảnh xảy ra áp lực thanh khoản cụ thể trong vòng 30
ngày. Tổng dòng tiền ra kỳ vọng được tính bằng cách nhân khoản nợ phải trả trong bảng cân đối
hoặc những cam kết của tài sản ngoại bảng mà họ kỳ vọng sẽ phải thanh toán hoặc rút khỏi hệ
thống ngân hàng. Tổng dòng tiền vào kỳ vọng được tính bằng cách nhân những khoản phải thu
trên bảng cân đối với một tỷ lệ kỳ vọng trong trường hợp gặp áp lực thanh khoản với tỷ lệ 75%
tổng giá trị dòng tiền ra kỳ vọng.
b) Tỷ lệ quỹ bình ổn ròng
Mục tiêu
Để cải thiện quỹ hoạt động trong trung và dài hạn, ủy ban đã phát triển chỉ số về tỷ lệ quỹ bình
ổn ròng.Tỉ lệ quỹ bình ổn ròng yêu cầu các ngân hàng phải có sẵn nguồn tài chính dưới dạng quĩ

bình ổn để có thể đối phó với thời kỳ khó khăn tối thiểu là 1 năm.
Cách xác định
• Qũy bình ổn thực tế
Nguồn quỹ bình ổn thực tế được xác định bởi tổng giá trị của ngân hàng dưới đây:
• Vốn
• Cổ phiếu ưu đãi có thời hạn trên một năm
• Nghĩa vụ nợ có thời gian đáo hạn từ một năm trở lên
7
• Các khoản tiền gửi không kỳ hạn hoặc các khoản tiền gửi có kỳ hạn dưới một năm mà
được kỳ vọng sẽ giữ nguyên trong thời kỳ áp lực thanh khoản ngân hàng xảy ra
• Nguồn vốn ngắn hạn khác (wholesale funding) với thời gian đáo hạn dưới một năm mà
được kỳ vọng sẽ giữ nguyên trong thời kỳ áp lực thanh khoản ngân hàng xảy ra.
Mục tiêu của tiêu chuẩn này là đảm bảo quỹ bình ổn được hoạt động liên tục và hoạt động khả
thi trên một năm trong trường hợp xảy ra áp lực từ các doanh nghiệp.
• Quỹ bình ổn bắt buộc
Các cơ quan giám sát yêu cầu dự trữ quỹ bình ổn bắt buộc tùy tuộc vào danh mục rủi ro thanh
khoản đối với các tổn thất của tài sản ,các tài khoản ở ngoại bảng của ngân hàng và một số hoạt
động có qui định. Quỹ bình ổn bắt buộc bằng tổng giá trị tài sản nắm giữ và tài trợ của một tổ
chức nhân cho tỷ số duy trì quỹ bình ổn bắt buộc phụ thuộc vào mỗi loại tài sản cộng cho tổng
khoản giá trị tổn thất hoạt động tài khoản ngoại bảng nhân cho hệ số RSF có liên quan.
Các công cụ kiểm soát
• Những hợp đồng kỳ hạn không tương ứng: công cụ này kiểm soát khoảng chênh lệch giữa
tính thanh khoản của các hợp đồng có dòng tiền vào và dòng tiền ra trong thời gian xác định ví
dụ như hợp đồng qua đêm, hợp đồng có thời hạn 7 ngày, 14 ngày, 1,2,3,4,… tháng. Khoảng
chênh lệch của các kỳ hạn hợp đồng chỉ ra mức độ thanh khoản cần thiết đối với một ngân hàng
có nhu cầu phát sinh trong mỗi phạm vi thời gian là bao nhiêu nếu xảy ra trường hợp khoản
phải trả thanh toán sớm trước hạn
• Quỹ tập trung: thước đo này có ý nghĩa xác định nguồn vốn tài trợ ngắn hạn khác mà khi xảy
ra hiện tượng rút tiền có thể gây ra vấn đề thanh khoản cho ngân hàng
• Các tài sản không bị thế chấp thực tế: thước đo này cung cấ cho cơ quan giám sát dữ liệu

những đặc tính và số lượng của những loại tài sản không có thế chấp. Những tài sản này là
nguồn quỹ tiềm năng để các ngân hàng sử dụng khi cần thế chấp trong trường hợp phát sinh
nguồn quĩ chứng khoán trên thị trường thứ cấp hoặc ngân hàng trung ương để giải quyết tính
thanh khoản cho ngân hàng.
• LCR bằng ngoại tệ: trong khi các tiêu chuẩn được yêu cầu đều sử dụng chung một loại đồng
tiền, để nắm bắt rủi ro không tương ứng các loại tiền tệ khác nhau, ngân hàng và tổ chức giám
sát cần phải kiểm soát hệ số LCR đối với các loại tiền tệ. Điều này cho phép ngân hàng và các
tổchức giám sát theo dõi những vấn đề phát sinh do không tương ứng nguồn tiền tệ.
• Công cụ kiểm soát thị trường : với dữ liệu thị trường có tần suất liên tục với độ trễ ngắn có thể
được sử dụng để làm chỉ số cảnh báo những trường hợp xảy ra khó khăn trong thanh khoản của
ngân hàng.
8
3. Thực trạng và khả năng áp dụng chuẩn mực Basel vào quản trị
rủi ro Thanh Khoản của Ngân Hàng Việt Nam hiện nay
3.1 Thực trạng Ngân hàng Tại Việt Nam áp dụng chuẩn Mực Basel
3.1.1 Văn bản Pháp Lý Liên quan
Quyết định 457/2005 quy định về an toàn vốn tối thiểu cơ bản chỉ mới đáp ứng được chuẩn
mực an toàn vốn của Basel I, tập trung vào rủi ro tín dụng (Theo cách tính Basel I), chưa đề cập
đến rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường và cũng chưa ứng dụng đến các phương pháp của Basel II.
Quyết định 493/2005/QĐ- NHNN ngày 22/04/2005, được sữa đổi bổ xung bằng quyết định số
18/2007/QĐ – NHNN về việc các TCTD tại Việt Nam phải phân loại nợ và trích lập dự phòng
để bù đắp cho các khoản nợ xấu.
QĐ06/2008/QĐ-NHNN là một quyết định mới được xây dựng dựa trên các tiêu chí đánh giá
CAMEL nhằm đưa ra các thang điểm cho các chỉ tiêu xếp loại cụ thể. Trên cơ sở đó, các NHTM
cổ phần được xếp loại theo các hạng A, B, C, D với ý nghĩa từ tốt đến xấu. (Hệ thống đánh giá
CAMEL là hệ thống đánh giá tình trạng vững mạnh của các tổ chức tài chính. Việc đánh giá dựa
trên 5 tiêu chí: vốn, chất lượng tài sản, quản lý, doanh thu và mức thanh khoản của tổ chức tài
chính.
Thông tư 36/2014/TT-NHNN ban hành ngày 20 tháng 11 năm 2014. Thông tư 36 có hiệu lực từ
ngày 01/02/2015 và thay thế các thông tư 13, 19 trước đây.

Thông tư 36 với những quy định cụ thể và chặt chẽ, định hướng theo tiêu chuẩn của Basel II, và
III. Nếu Ngân hàng áp dụng đúng theo thông tư này sẽ tiến dần hơn đến đạt chuẩn mực Basel II,
và tạo nền
Một số điểm nổi bật thông 36/2014/TT-NHNN
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu nâng lên mức 9%.
Có hướng dẫn phương pháp tính khả năng chi trả trong 30 ngày. (Tương đồng LCR Basel III).
Chú thích:
Dòng tiền ròng trong 30 ngày tiếp theo là chênh lệch dương giữa dòng tiền ra của 30 ngày liên
tiếp kể từ ngày hôm sau và dòng tiền vào của 30 ngày liên tiếp kể từ ngày hôm sau.
9
Tỷ lệ duy trì khả năng chi trả trong 30 ngày:
• Ngân hàng thương mại: VND là 50%; Ngoại tệ LÀ 10%
• Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: VND là 50%; Ngoại tệ là 5%
• Tổ chức tín dụng phi ngân hàng: VND là 20%; Ngoại tệ là 5%.
• Ngân hàng hợp tác xã: VND là 50% và ngoại tệ là 5%.
Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn.
• A là tỷ lệ của nguồng vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn, dài hạn.
• B là tổng dư nợ cho vay trung hạn, dài hạn.
• C là nguồn vốn ngắn hạn.
• Với tỷ lệ tối đa NHTM là 60%; Chi nhánh NH nước ngoài là 60%; Tổ chức tín dụng phi
ngân hàng là 200%. Ngân hàng hợp tác xã là 60%.
Quy định cho vay đầu tư chứng khoán: Ngân hàng muốn được cho vay đầu tư cổ phiếu thì các
ngân hàng phải đáp ứng được điều kiện nợ xấu dưới 3%. Và Tỷ lệ cho vay cổ phiếu mức 5% vốn
điều lệ.
NHNN theo lô trình và đưa ra những văn bản hướng dẫn để hệ thống Ngân hàng chung tiến dần
hơn đến những chuẩn mực Basel II, và III. Với thông tư 36/2014/TT-NHNN đã có những nâng
cấp về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, những tiêu chí đo lường thanh khoản cụ thể. Tuy các tiêu chí
chưa đầy đủ và đạt được nhưng chuẩn mực như của Basel III, nhưng sẽ tạo cơ sở và giúp Ngân
hàng thương mại tại Việt Nam quản trị tốt hơn rủi ro thanh khoản và tiến dần đạt các chuẩn
mực Basle II, và III.

3.2.2 Nguyên nhân dẫn đến Rủi ro thanh khoản Ngân hàng Tại Việt Nam
Thứ nhất: tăng trưởng tín dụng quá nóng. Sự tăng trưởng tín dụng quá nóng của các ngân hàng
thương mại đi kèm với cơ cấu đầu tư không hợp lý, tập trung lớn vào đầu tư bất động sản chạy
theo lợi nhuận sẽ phát sinh rủi ro cao khi thị trường đóng băng, tạo sự mất cân đối về kỳ hạn giữa
tài sản có và tài sản nợ do ngân hàng đã sử dụng quá nhiều nguồn vốn ngắn hạn để cho vay dài
hạn. Chính điều này đã tạo ra sự rủi ro thanh khoản cao đối với ngân hàng thương mại”.
Thứ hai: công tác dự báo và phân tích thị trường của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt
Nam còn nhiều hạn chế. Các NHTM còn có tư tưởng ỷ lại quá nhiều vào cơ chế nhà nước, trong
khi các ngân hàng nước ngoài, ngoài việc chấp hành nghiêm túc các tỷ lệ an toàn còn thường
xuyên nghiên cứu, dự báo sát các diễn biến của thị trường nên đã dự phòng vốn thanh khoản và
điều chỉnh kịp thời, không bị động trước những tác động thị trường.
10
Thứ ba: tính liên kết hệ thống giữa các NHTM để đảm bảo an toàn thanh toán còn yếu, tạo sự
cạnh tranh không lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao tạo khe hở cho khách hàng gửi tiền “làm giá,
tăng lãi suất” hoặc rút tiền chuyển sang các NHTM khác dẫn đến làm suy yếu khả năng chống đỡ
thiếu hụt thanh khoản của hệ thống.
Thứ tư: vấn đề quản trị thanh khoản tại các NHTM chưa tốt. Do sự yếu kém từ quản trị tài sản
nợ, có của các NHTM và sự thiếu hụt của các công cụ quản lý hữu hiệu…Ngân hàng Nhà nước
cũng khó nắm bắt chắc chắn tình hình thanh khoản cũng như sự thay đổi lớn trong tài sản của
mỗi NHTM để điều chỉnh quy định của mình.
Thứ năm: xuất phát từ phía khách hàng, đây được đánh giá là nhóm nguyên nhân khiến các ngân
hàng khó có thể dùng công cụ thị trường để điều tiết có hiệu quả thanh khoản của các ngân hàng.
Trong điều kiện thông tin bất cân xứng, lại chưa minh bạch, một số khách hàng (kể cả pháp
nhân) đã rút tiền ra khỏi ngân hàng này và chuyển sang ngân hàng khác, dân cư rút tiền để mua
vàng, mua đô la Mỹ để tích trữ…đã làm tăng tính bất ổn của thị trường, nội và ngoại tệ, gây khó
khăn cho chính khách hàng đã và đang sử dụng dịch vụ gửi và vay tiền tại ngân hàng.
Ngoài những nguyên nhân trên, còn có nhiều nguyên nhân như: do các giao dịch bằng
ngoại tệ tại các NHTM Việt Nam chủ yếu tập trung vào một loại ngoại tệ là USD; những tác
động trực tiếp từ các loại rủi ro khác trong hoạt động ngân hàng cũng gây ảnh hưởng không nhỏ
tới rủi ro thanh khoản; hiện tượng một số tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước chuyển tiền hoặc rút

tiền với khối lượng lớn; yếu kém trong công tác kế hoạch hóa và quản trị điều hành…
3.1.3 Thực Trạng Quản trị Thanh khoản các Ngân Hàng Tại Việt Nam
Các hệ số đánh giá tính thanh khoản được áp dụng tại Việt Nam:
Hệ số Nội dung Ghi chú
CAR vốn tự có/tổng tài sản “Có” rủi ro quy đổi
tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu
H1 Vốn tự có/Tổng nguồn vốn huy động.
H2 Vốn tự có/Tổng tài sản “Có”.
H3
(Tiền mặt+Tiền gửi tại các TCTD)/Tổng tài sản “Có”; hoặc:
(Tiền mặt+Tiền gửi thanh toán tại NHNN+Tiền gửi không kỳ
hạn tại các TCTD)/Tổng tài sản “Có”.
chỉ số trạng thái
tiền mặt
H4 Dư nợ/Tổng tài sản “Có”.
11
H5 Dư nợ/Tiền gửi khách hàng.
H6
(Chứng khoán kinh doanh+Chứng khoán sẵn sàng để
bán)/Tổng tài sản Có”.
H7 Tiền gửi và cho vay TCTD/Tiền gửi và vay từTCTD.
H8
(Tiền mặt+Tiền gửi tại TCTD)/Tiền gửi của khách hàng;
hoặc: (Tiền mặt+Tiền gửi không kỳ hạn tại các TCTD)/Tiền
gửi của khách hàng.
Tính đến thời điểm cuối quý 2 năm 2014, theo kết quả khảo sát được trong nhóm ngân
hàng nhà nước và ngân hàng tư nhân có hệ số H2: vốn tự có trên tài sản “có” từ 6% đến 8% và
hệ số H1: vốn tự có trên tổng huy động vốn từ 7% đến 9%. Cụ thể như sau:
Ngân hàng

H1: vốn tự có trên
tổng huy động
H2: vốn tự có trên
tài sản “có”
Ghi chú
ABC 9% 8%
BIDV 7% 6%
VietcomBank 7% 6%
Tuy nhiên chỉ số trạng thái tiền mặt của các ngân hàng rất khác biệt. Điều này thể hiện sự khó
khăn của một số ngân hàng trong việc đảm bảo tính thanh khoản khi lượng rút tiền tăng lên đột
biến.
Ngân hàng
H3: (Tiền mặt+Tiền gửi tại
các TCTD)/Tổng tài sản
“Có”
H8: (Tiền mặt+Tiền gửi
tại TCTD)/Tiền gửi của
khách hàng
Ghi chú
ABC 6% 7%
BIDV 9% 13%
VietcomBank 17% 22%
Một số NHTM Top đầu có quy mô lớn và có tiến trình chuẩn bị tốt cơ bản đã đáp ứng được tiêu
chuẩn Basel I về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và đang quá trình hoàn thiện chuẩn mựa Basel II.
12
Nhóm tác giả vẫn thiếu thông tin ở nhóm NHTM có quy mô vốn nhỏ. Nên chửa có đánh giá
quản lý thanh khoản.
Thực tế về mất thanh khoản hay phá sản trong giai đoạn tìm hiểu từ 2000 – 2014 có những vụ
việc xảy ra Tại Ngân Hàng ACB sau sự kiện Phó Chủ Tịch Hội đồng Sáng Lập Bầu Kiên và các
các nhân liên quan bị bắt giam điều tra sai phạm kinh tế. Hay vụ việc tại Ngân Hàng Nông

Nghiệp, và gần nhất là Nguyễn Công Danh chủ tịch NH TMCP Xây dựng Việt Nam bị bắt
giảm… Tuy có những biến động thanh khoản lớn tại thời điểm xảy ra sự kiện xấu nhưng với hỗ
trợ NHNN Các Ngân hàng đều vượt qua được tình trạng hụt thanh khoản.
Tăng trưởng tín dụng
Tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam vẫn mang nặng mục tiêu đặt ra của NHNN đề phủ hợp với
mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Tuy tỷ lệ tăng trưởng tín dụng không trực tiếp tác động lên thanh
khoản, nhưng về thời gian, và ảnh hưởng mức độ khác thì tăng trưởng tín dụng có tác động đến
Thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Nếu đặt tăng trưởng quá nóng sẽ dẫn đến canh tranh
không lành mạnh, các NH sẽ tìm cách kéo khách của nhau và nguồn vốn huy động cao có thể
dẫn đến đầu tư mạo hiểm do dư thừa, có thể dẫn đến thiếu hút thanh khoản trong tương lai.
Tăng trưởng tín dụng từ 2000 – 2013 (Từ 1 -14) (Dự báo 2014 và 2015)
Nguồn: Thống kê theo số liệu NH Vietcombank
Giai đoạn bùng nổ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng từ năm 2000 – 2010, trong giai
đoạn này do ngân hàng tăng trưởng mạnh về số lượng, và lượng huy động dẫn đến nguồn vốn dư
thừa dồi dào đã tạo điều kiện cho một số Ngân hàng đầu tư lĩnh vực mạo hiểm như BĐS, hay đầu
tư cổ phiếu. Giai đoạn tăng trưởng tín dụng nóng đã góp phần tạo nên bong bóng BDS. Rút kinh
nghiệm, và những điều kiện thực tại trong giai đoạn mới với chủ trường phát triển mang tính bền
vững từ năm 2011 đến nay 2014 tăng trưởng tín dụng đã giảm mạnh và ổn định mốc quoanh
10%. Với tăng trưởng tín dụng ở mức ổn định, sẽ không tạo ra rủi ro chung về thanh khoản cho
hệ thống Ngân hàng.
3.2 Khả năng áp dụng chuẩn Mực Basel II, Và II.
3.2.1 Lộ trình áp dụng Basel 2 tại Việt Nam
việc thực hiện các chuẩn mực quốc tế về đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng theo hiệp
ước Basel 2 đã được Ngân hàng Nhà nước thông qua. Theo đó, 10 Ngân hàng thương mại đã
13
được chọn triển khai thực hiện thí điểm hiệp ước Basel 2 trong giai đoạn từ cuối năm 2015 đến
năm 2018. Mục tiêu gồm 2 giai đoạn, cụ thể như sau:
Mục tiêu đến cuối năm 2015: Các NHTM cần phân loại các tài sản, trạng thái của mình thành
các loại khác nhau theo phương pháp tiêu chuẩn, để từ đó áp dụng hệ số rủi ro theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước, tính toán ra tài sản có rủi ro và mức vốn cần phải nắm giữ. Yêu cầu đặt ra

cho giai đoạn này là: các NHTM cần chuẩn bị sẵn dữ liệu, chương trình tính toán tài sản có rủi
ro. Đồng thời, NHNN cần ban hành các văn bản hướng dẫn quy tắc tính toán vốn.
Mục tiêu đến cuối năm 2018: Các NHTM được quyền tự quyết định mức vốn cần phải nắm giữ
theo phương pháp tiếp cận nội bộ, tùy theo hồ sơ rủi ro của mình. Ngân hàng nào kinh doanh với
nhiều rủi ro thì phải nắm giữ nhiều vốn, và ngược lại. Điều kiện cần thiết để các Ngân hàng
thương mại có thể nắm quyền tự quyết về mức vốn nắm giữ:
Về dữ liệu: dữ liệu yêu cầu cho việc tính toán vốn theo phương pháp nội bộ bao gồm dữ liệu cho
việc tính toán tài sản có rủi ro và dữ liệu để phục vụ cho các mô hình đo lường rủi ro, đặc biệt là
rủi ro tín dụng. Các dữ liệu này cần được lưu trữ ít nhất 5 năm và với chất lượng tốt để bảo đảm
các mô hình đo lường rủi ro được NHNN phê duyệt. Đối với phần rủi ro hoạt động, phần dữ liệu
về quản trị tài chính đóng vai cực kỳ quan trọng,các NHTM phải có đủ khả năng phân tách
doanh thu, chi phí hoạt động của mình thành 8 mảng hoạt động theo đúng yêu cầu của Basel II.
Về hệ thống quản lý rủi ro: Các yêu cầu của Basel II về hệ thống quản lý rủi ro xoay quanh việc
xây dựng, triển khai và ứng dụng các mô hình đo lường rủi ro. Đến thời điểm cuối năm 2018, các
NHTM sẽ phải xây dựng các mô hình để đo lường Xác suất khách hàng không trả được nợ và
Giá trị chịu rủi ro. Các mô hình này cần phải được triển khai trong hoạt động quản lý rủi ro và
phải được ứng dụng trong các hoạt động kinh doanh hàng ngày của ngân hàng.
Về hạ tầng công nghệ thông tin: hạ tầng công nghệ thông tin của các NHTM phải được bổ sung
để hỗ trợ hoạt động quản lý rủi ro tập trung.Các hệ thống công nghệ thông tin bao gồm việc ghi
nhận các giao dịch về kế toán (trạng thái tĩnh), giao dịch về các dữ liệu rủi ro và việc quản lý
luồng công việc (trạng thái động). Đây là nội dung cơ bản của các hệ thống như Hệ thống khởi
tạo khoản, Thu hồi, Quản lý tài sản bảo đảm…
3.2.2 Những thuận lợi và khó khăn khi triển khai Basel 2
Hiệp định Basel 2 có hiệu lực từ năm 2006 và đã được nhiều ngân hàng ở các nước phát triển,
Châu Á và Đông Nam Á áp dụng từ năm 2008. Với việc vừa triển khai, vừa rút kinh nghiệm, gắn
chuẩn mực quốc tế với hoàn cảnh đặc thù tại Việt Nam, đó sẽ là tiền đề để cả ngành ngân hàng
áp dụng Basel II một cách thống nhất trong tương lai gần.
Những thuận lợi khi áp dụng Basel 2 vào thời điểm hiện tại:
Thừa hưởng lợi thế của người đi sau: thực hiện Basel 2 sau các nước trên thế giới, các Ngân
hàng Việt Nam thừa hưởng những bài học kinh nghiệm quý báu của các nước đã đi qua quá trình

14
này. Từ đó, cơ quan quản lý có thể tham khảo và rút ra các giải pháp hợp lý nhất để thực hiện các
nguyên tắc, yêu cầu của Basel theo điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Nhận thức của các TCTD đối với công tác quản trị rủi ro: trải qua các cú sốc về kinh tế, sự đổ vỡ
của các tập đoàn tài chính lớn trên thế giới, sự sáp nhập của các TCTD trong nước trước những
rủi ro về thanh khoản và sự yếu kém trong nội lực, các Ngân hàng thương mại đã thay đổi tư duy
về công tác quản trị rủi ro, đánh giá đúng tầm quan trọng của việc quản trị rủi ro trong hoạt động
Ngân hàng.
Thuận lợi đến từ nền kinh tế vĩ mô: kinh tế vĩ mô vượt qua giai đoạn khủng hoảng và đi vào ổn
định, nhiều TCTD đã vượt qua khó khăn ngắn hạn, nâng cao được năng lực tài chính.
Các thuận lợi khác: nguồn nhân sự hoặc tư vấn có kinh nghiệm thực tiễn trên thế giới khá dồi
dào qua tích lũy từ quá trình triển khai Basel II ở các ngân hàng trên thế giới. Thêm vào đó, công
nghệ và các phương pháp, mô hình đo lường và quản trị rủi ro cũng không ngừng phát triển, cho
phép áp dụng ngay các công nghệ, mô hình tiên tiến mà không phải trải qua các bước cải tiến
hay chuyển đổi, giúp cho việc triển khai nhanh chóng và ít tốn kém hơn.
Những thách thức khi triển khai Basel 2:
Việc ban hành các quy định, văn bản hướng dẫn triển khai Basel 2: Việc ban hành các quy định
và các văn bản liên quan về hệ thống quản lý rủi ro, cách thức tính toán vốn, tiêu chuẩn đối với
các mô hình đo lường rủi ro, cách thức giám sát của NHNN đối với NHTM đòi hỏi phải có thời
gian khảo sát, chuẩn bị và ban hành. Với tiến độ thực hiện của các NHTM bắt đầu từ năm 2015
thì việc ban hành các văn bản cũng như hướng dẫn triển khai sớm là cần thiết. Tuy nhiên, việc
ban hành đúng thời hạn cũng là một thách thức.
4. Giải pháp để đẩy mạnh áp dụng Basel II Và III tại Việt Nam
Qua tổng quan về một số cuộc khủng hoảng thanh khoản lớn đã xảy ra và những phân tích thực
trạng quản trị rủi ro tại các ngân hàng thương mại hiện nay, chúng tôi nhận xét rằng : Hệ thống
ngân hàng của chúng ta đang cố gắng hòa nhập và tuân thủ các chuẩn mực của thế giới. Tuy
nhiên, con đường chúng ta đi chỉ là mới bắt đầu, cả về việc ban hành khung chuẩn mực pháp lý
chung và việc tuân thủ thực hiện của các NHTM.Như đã biết, chuẩn mực Basel chỉ mang tính
chất khuyến nghị, không bắt buộc, nên để buộc các NHTM thực hiện đúng chuẩn mực chung của
thế giới, tạo điều kiện nâng cao chất lượng quản trị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh với các

ngân hàng quốc tế, thì NHNN cần đưa những chuẩn mực này vào các văn bản pháp lý và có sự
giám sát chặt chẽ. Trong tình hình hiện nay, vẫn còn những hạn chế nhất định, có nhiều chuẩn
mực của Basel mà chúng ta chưa thể áp dụng, không phù hợp với hệ thống Ngân hàng Việt Nam
hoặc chưa thể đưa vào văn bản pháp lý ngay được, và đối với các NHTM cũng sẽ tốn kém nhiều
chi phí, không đồng bộ về trình độ khi thực hiện xây dựng quy trình giám sát rủi ro theo Basel.
Đứng trước các hạn chế còn tồn tại, nhóm có đề xuất một vài biện pháp như sau:
15
4.1Nhóm giải pháp cho toàn hệ thống ngân hàng
4.1.1 Tăng cường liên kết trong hệ thống liên ngân hàng.
Một trong những nguồn của ngân hàng để tăng tính thanh khoản cho mình là vay từ thị trường
liên ngân hàng. Do vậy, để tránh gặp rủi ro trong thanh khoản, chúng ta cũng cần thiết lập 1 thị
trường liên ngân hàng hiệu quả nhằm có thể linh hoạt vay vốn nhanh khi cần thiết. Cần xây dựng
mối quan hệ bền vững với các nguồn tài trợlà tổ chức chính phủ, NHNN và các ngân hàng lớn
trên thị trường liên ngân hàng. Trên cơ sở tiếp cận được với nguồn vay qua đêm nhanh chóng và
lãi suất cạnh tranh, đây sẽ là 1 công cụ nhằm hạn chế rủi ro hiệu quả khi ngân hàng gặp phải
nguy cơ rủi ro mất khả năng thanh khoản tạm thời.
4.1.2 Xây dựng một Ủy ban giám sát Basel riêng cho hệ thống ngân hàng Việt Nam
Chúng ta hoàn toàn có thể xây dựng một cơ quan giám sát riêng của ngành tài chính với thành
phần tham gia là đại diện của tất cả các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác như công ty bảo
hiểm, quỹ đầu tưv.v… Hằng năm cơ quan này cũng tiến hành những diễn đàn và ban hành những
văn bản như Hiệp định Basel 2 để làm cơ sở cho từng tổ chức, từng ngân hàng dựa vào đó mà
xây dựng một chiến lược phát triển cho riêng mình. Diễn đàn đó sẽ là một nơi chia sẻ những
thông tin và những kinh nghiệm hữu ích, cũng đồng thời là cơ hội để các TCTD nhìn lại mình,
nhìn lại diễn biến thị trường và đưa ra những dự báo sát thực hơn trong tương lai. Cơ quan này
có thể đặt dưới sự lãnh đạo chung của NHNN, nhưng cần tách bạch thành một cơ quan giám sát
mang tính chất ngành nghề nhiều hơn là một cơ quan hành chính nhà nước.
4.1.3 Tăng cường công tác kiểm tra và giám sát các hoạt động của NHTM
Công tác giám sát từ xa hiện nay vẫn được NHNN tại các tỉnh, thành phố thực hiện. Nhưng tính
xác thực của báo cáo giám sát này để phục vụ cho công tác quản lý vĩ mô chưa cao, chưa phản
ánh trung thực tình trạng hoạt động nói chung và tình trạng thanh khoản nói riêng của các

NHTM. Để thực hiện việc này, cần nâng cao vai trò chức năng của Cơ quan Thanh tra, giám sát
ngân hàng. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có cơ cấu tổ chức gồm: Vụ thanh tra các
TCTD trong nước; Vụ Thanh tra các TCTD nước ngoài; Vụ Thanh tra hành chính, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; Vụ Giám sát ngân hàng; Vụ Chính an toàn hoạt
động ngân hàng; Vụ Quản lý cấp phép các TCTD và hoạt động ngân hàng; Cục Phòng, chống
rửa tiền. Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng có chức năng thanh tra hành chính, thanh tra
chuyên ngành và giám sát chuyên ngành về ngân hàng. Ngoài ra, cơ quan này còn giúp Thống
đốc NHNN quản lý nhà nước đối với các TCTD, tổ chức quy mô nhỏ, hoạt động ngân hàng của
các tổ chức khác; thực hiện phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật. Thực hiện cấp
phép hoạt động, chia tách, sáp nhập các tổ chức tín dụng; thành lập và mở các chi nhánh tại Việt
Nam đối với các tổ chức tín dụng nước ngoài.
16
4.1.4 Hoàn thiện khung pháp lý theo hướng áp dụng các chuẩn mực quốc tế.
Tuy các chuẩn mực Basel đã được công bố, nhưng hiện nay việc áp dụng vào hệ thống ngân
hàng Việt Nam còn khá hạn chế. Các ngân hàng khó có thể tự xây dựng hệ thống quản trị rủi ro
nói chung và rủi ro thanh khoản nói riêng, một phần đến từ việc phát sinh thêm chi phí quản lý,
tăng thêm sự cồng kềnh trong cơ cấu tổ chức và trình độ nhân lực còn hạn chế. Do vậy, sẽ rất
hữu ích nếu NHNN ban hành những văn bản pháp lý có chứa nội dung của các chuẩn mực Basel,
một phần sẽ hướng dẫn được NHTM đi theo 1 hướng quản trị chung, 1 phần sẽ mang tính chất
bắt buộc thực hiện hơn.
Trong giai đoạn tới, ta cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách QTRRTK vững chắctrên cơ
sở kết hợp các chuẩn mực an toàn của NHNN (thông tư 13/2010/TT-NHNN) với điềukiện và
định hướng cụ thể của ngân hàng. Hệ thống chinh sách này cần được ban hành theođúng trình tự
thẩm quyền.
4.2Nhóm giải pháp cho từng ngân hàng
4.2.1 Cải thiện cơ cấu tổ chức quản trị rủi ro trong nội bộ ngân hàng
Chú trọng công tác giám sát và báo cáo trong nội bộ :
Việc kiểm tra, giám sát và báo cáo trong nội bộ thường xuyên và kịp thời sẽ mang lại nguồn
thông tin quan trọng và cần thiết cho việc quản trị rủi rohiệu quả. Dòng thông tin giữa các bộ
phận liên quan như khối nguồn vốn, khối quản trị rủi ro,phải được lưu thông, trôi chảy và không

được đứt đoạn.
Nâng cao vai trò và sự tham gia của Kiểm toán nội bộ. Bộ phận kiểm soát đóng vai trò quan
trọng trong công tác quản trị rủi ro nói chung vàrủi ro thanh khoản nói riêng. Ban kiểm soát và
các bộ phận kiểm toán cần thực hiện kiểm tra,đánh giá thường xuyên và toàn diện về tính hiệu
quả của khung hoạt động quản trị rủi rothanh khoản, tính tuân thủ các chính sách QTRRTK và
hạn mức, khẩu vị rủi ro thanh khoản.Từ đó, kịp thời đề ra các biện pháp chỉnh đốn và sửa chữa
thích hợp cho khung quản trị, cácchính sách và các quy trình QTRRTK.
Lập phòng giám sát rủi ro thanh khoản.
Mỗi ngân hàng xây dựng cho mình hệ thống quản trị rủi ro nội bộ phù hợp với chuẩn mực
Basel.Đối với mỗi loại rủi ro cần thiết lập một bộ phận chuyên trách nhằm quản lý cụ thể, chính
xác và kịp thờ. Hiện nay, Basel đã công bố khuôn khổ, cách thức đo lường, chuẩn mực và giám
sát về rủi ro thanh khoản, nên chúng ta cần lập phòng quản lý rủi ro thanh khoản theo chuẩn mực
này nhằm đẩy mạnh công tác quản lý rủi ro hơn nữa khi các ngân hàng ở nước ta đang đứng
trước nhiều thách thức về hội nhập và xu hướng kinh tế nhiều biến động.
Rủi ro thanh khoản cũng bị tác động bởi những rủi ro khác, khi thành lập 1 phòng giám sát rủi ro
thanh khoản, chúng ta cũng cần liên kết với các bộ phận quản lý rủi ro khác như : rủi ro tín dụng,
hay rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất Những loại rủi ro này thường có mối quan hệ tác động lẫn
17
nhau, vì vậy, các bộ phận quản lýrủi ro cần phối hợp để thực hiện vai trò quản lý rủi ro chung
cho toàn ngân hàng.
4.2.2 Quản trị thanh khoản gắn với quản trị tài sản có và tài sản nợ
Ngân hàng nên sử dụng hỗn hợp hai biện pháp quản lý rủi ro thanh khoản bằng quản lýtài sản có
và quản lý tài sản nợ một cách linh hoạt. Như vậy ngân hàng có thể vừa tích trữ tàisản thanh
khoản để đáp ứng một phần nhu cầu thanh khoản, phần còn lại sẽ được đáp ứngbằng cách đi vay
trên thị trường tiền tệ hoặc phát hành kì phiếu ngắn hạn,trái phiếu dài hạn.
Để quản trị thanh khoản được tốt ngân hàng cần phải phân tích các yếu tố ảnh hưởng đếnchiến
lược thanh khoản hỗn hợp, từ đó rút ra được nên dự trữ tài sản có tính thanh khoảnnhiều hơn hay
tìm nguồn tài trợ từ bên ngoài nhiều hơn.
4.2.3 Chú trọng đầu tư vào các tài sản có tính thanh khoản cao
Lựa chọn đầu tư Chứng khoán thanh khoản tốt, tiềm năng để trong mọi trường hợp khi có rủi ro

xảy ra ngân hàng có thể bán chứng khoán thanh khoản để thanh toán ngaycác khoản nợ đến hạn
một cách nhanh chóng. Đặc biệt nên chú trọng vào đầu tư chứng khoánthị trường nhiều vì hiện
nay ngân hàng chỉ có chứng khoán chính phủ mà không có chứngkhoán thị trường(Chứng khoán
sẵn sàng để bán), trong khi đó chứng khoán thị trường có tỷsuất sinh lợi cao hơn so với chứng
khoán chính phủ và được giao dịch trên sàn giao dịch nêntính thanh khoản rất cao.
4.2.3 Nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý
Cần liên tục hướng dẫn và đào tạo đội ngũ nhân viên trực tiếptham gia vào quá trình QTRRTK
về tầm quan trọng cũng như các quy trình quản trị theo cácchuẩn mực và thông lệ mới nhất.
Yêu cầu ban quản lý lãnh đạo đặc biệt là những người có trách nhiệm trong ngân hàngtự nâng
cao kiến thức của bản thân về QTRRTK qua khóa đào tạo và các hội thảo về quản trị rủi ro nói
chung và quản trị rủi ro thanh khoản ngân hàng nói riêng.
Ngoài ra hiện nay các Ngân hàng đang sử dụng một số Phương pháp quản lý rủi ro thanh
khoản
A) Phương pháp tiếp cận nguồn và sử dụng vốn.
B) Phương pháp tiếp cận cấu trúc vốn.
C) Phương pháp xác định xác suất mỗi tình huống.
Các ngân hàng có thể tiếp tục các phương pháp quản lý rủi ro với việc giám sát liên tục, và kết
hợp với những quy định thông tư 36/2014/TT-NHNN.
18
5 Kết Luận
Để quản trị thanh khoản có hiệu quả tốt, một số nguyên tắc cần thiết phải được tuân thủ, gồm:
Thường xuyên bám sát hoạt động của các bộ phận chịu trách nhiệm huy động vốn và sử dụng
vốn trong phạm vi ngân hàng và điều phối hoạt động các bộ phận này với nhau.
Cần phải có kế hoạch dự trữ thanh khoản cho trường hợp khách hàng rút tiền gửi hoặc nhận thêm
tiền vays. Điều này cho phép người quản trị thanh khoản hoạch định đón đầu để xử lý hiệu quả
hơn phần thanh khoản thặng dư hay thâm hụt đang xuất hiện.
Nhu cầu thanh khoản của ngân hàng và các quyết định liên quan đến vấn đề thanh khoản phải
được phân tích trên cơ sở liên tục để tránh kéo dài một trong hai trạng thái: thặng dư hoặc thâm
hụt thanh khoản phải được xử lý nhanh chóng nhằm tránh sự khẩn trương gây gắt trong việc phải
vay mượn hay bán tài sản.

Để giảm thiểu rủi ro và ngăn chặn sự đổ vỡ của các ngân hàng, Ủy ban Basel về giám sát ngân
hàng đã ban hành các hiệp ước Basel I, II, III với các yêu cầu về vốn và thanh khoản cao hơn, tạo
ra những tác động đáng kể đối với nền kinh tế nói chung và ngân hàng nói riêng.
Lợi ích kinh tế vĩ mô của việc tăng cường các quy định về vốn và thanh khoản theo Basel được
phản ánh chủ yếu qua thông qua một hệ thống ngân hàng lành mạnh sẽ ít bị khủng hoảng hơn.
Việc giảm các cuộc khủng hoảng ngân hàng giúp giảm tổn thất lớn cho nền kinh tế mà các cuộc
khủng hoảng này gây ra. Từ đó, góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế.
Đồng thời. việc áp dụng các chuẩn mực Basel, cụ thể trong thời gian tới là Basel 2 và nâng dần
lên Basel 3 giúp các ngân hàng hoạt động an toàn hơn, lành mạnh hơn do trình độ quản trị rủi ro
được tăng cường, các biện pháp quản trị rủi ro được chủ động áp dụng, và các nguồn vốn được
quản lý một cách hiệu quả hơn. Trong lĩnh vực tín dụng, các NHTM sẽ phải chuyển hướng tập
trung vào đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng, thay vì dựa chủ yếu vào tài sản đảm bảo.
Đồng thời, sau khi áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn vốn và thanh khoản, ngân hàng sẽ
thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài hơn do ngân hàng hoạt động kinh doanh trong môi trường
đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Tuy nhiên, việc nâng dần chuẩn mực Basel cũng khiến cho các NHTM phải đối mặt với
nhiều thử thách như:
19
Với tính thanh khoản thấp và mức độ biến động thị trường cao như tại Việt Nam thì sẽ khó đáp
ứng được các giả thuyết trong Hiệp ước Basel 2 – 3. Do vậy, các chính sách phải chi tiết và kế
hoạch hành động khả thi, việc này sẽ mất rất nhiều thời gian, công sức và tốn kém
Việc triển khai Basel 2, 3 đòi hỏi độ chính xác, tin cậy và chất lượng của nguồn dữ liệu. Vì vậy,
cần phải áp dụng hệ thống báo cáo tin cậy, kịp thời . Do vậy, khi đưa vào thị trường đang phát
triển phải chuyển thành các chính sách chi tiết và kế hoạch hành động khả thi, việc này sẽ mất rất
nhiều thời gian, công sức và tốn kém.
Do đó, để áp dụng thành công chuẩn mực Basel 2 – 3 trong thời gian tới, cần sự nỗ lực của
phía các NHTM và khung chính sách phù hợp với tình hình thực tế Việt Nam, cụ thể:
Các cơ quan quản lý cần xây dựng lộ trình triển khai Basel II và các chính sách hướng dẫn cụ thể
và phù hợp với điều kiện Việt Nam để giảm những tác động bất lợi trong quá trình triển khai;
xây dựng khung hướng dẫn cụ thể về quản trị rủi ro và việc kiểm định các mô hình rủi ro.

Các NHTM cần có kế hoạch sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, nguồn tài chính hiện có để giảm
chi phí hoạt động.
Đa dạng hóa nguồn thu thông qua việc tăng tỷ trọng thu nhập từ các hoạt động phi tín dụng như
phí, hoa hồng…
Học hỏi kinh nghiệm triển khai Basel II từ các ngân hàng và các chi nhánh NHTM nước ngoài
tại Việt Nam đã thực hiện Basel II, sử dụng một cách tối ưu đồng thời tích cực phát triển các
chương trình hỗ trợ kỹ thuật của các tổ chức quốc tế để phát triển nguồn nhân lực, hệ thống cơ sở
dữ liệu và hệ thống công nghệ thông tin.
Giải quyết nợ xấu một cách tích cực và hiệu quả hơn để hoạt động hệ thống ngân hàng thực sự
lành mạnh, tăng khả năng chịu đựng đối với những thay đổi lớn về chính sách
20
Tài Liệu Tham Khảo
1. Basel III: Internaonal framework for liquidity risk measurement, standards and monitoring.
2. Giáo trình :Quản trị ngân hàng thương mai- Chủ biên: PGS.TS. Trần Huy Hoàng
3. Liu Y, Gong CL (2010) Liquidity risk rang for commercial banks and its empirical study. Syst Eng
28(12):10–17
4. Luận văn THS. Ứng Dụng Hiệp Ước Basel II vào Hệ thống quản trị rủi ro Tại Các NHTM Việt Nam.(2009).
Chu Thị Hương Giang.
5. Thông tư 36/2014/TT-NHNN
6. Thông tư 13/2010/TT-NHNN
21

×