Tải bản đầy đủ (.pdf) (308 trang)

Tri thức bản địa của người thái ở miền núi Thanh Hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.9 MB, 308 trang )


1
Đại học Quốc gia h Nội
Trờng Đại học khoa học x hội v nhân văn
------------
ế
------------




Vũ Trờng Giang





Tri thức bản địa của ngời Thái
ở miền núi thanh Hóa


Luận án tiến sĩ lịch sử
Chuyên ngành: Dân tộc học
M số: 62227001






Ngời hớng dẫn khoa học:


1. GS - TS Phan Hữu Dật
2. PGS - TS Hoàng Lơng






H Nội, 2009

2




Lời cam đoan


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và cha đợc ai công bố bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả




Vũ Trờng Giang

3

Lời cảm ơn

Hoàn thành bản luận án Tiến sĩ với đề tài: Tri thức bản địa của ngời
Thái ở miền núi Thanh Hóa, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn:
GS.TS Phan Hữu Dật và PGS.TS Hoàng Lơng, những ngời đã hớng
dẫn, đóng góp ý kiến cho tôi trong suốt qúa trình làm luận án. Đặc biệt, GS.TS
Phan Hữu Dật là ngời đã hớng dẫn tôi 3 lần làm luận án: Cử nhân, Thạc sĩ,
Tiến sĩ.
GS - NGND Đinh Xuân Lâm là ngời đã động viên, cung cấp nhiều tài
liệu, hớng dẫn cách xử lý t liệu và viết một bài nghiên cứu khoa học.
Tập thể các Giáo s, Tiến sĩ, giảng viên Bộ môn Nhân học và Khoa
Lịch sử của Trờng Đại học Khoa học xã hội & nhân văn (Đại học quốc gia
Hà Nội) đã tận tình giúp đỡ về chuyên môn, cả trong học tập và nghiên cứu
khoa học suốt qúa trình tôi học Đại học, học Thạc sĩ và làm NCS.
Phòng Khoa học và sau đại học của Trờng Đại học Khoa học xã hội
& nhân văn (Đại học quốc gia Hà Nội) đã giúp đỡ về các thủ tục hành chính
trong qúa trình tôi học, viết và bảo vệ luận án.
Cán bộ và nhân dân các huyện Thờng Xuân, Nh Xuân, Lang Chánh,
Bá Thớc, Quan Hóa, Quan Sơn, Mờng Lát; đặc biệt là cán bộ và nhân dân
các xã Xuân Lộc, Xuân Chinh, Xuân Lẹ (huyện Thờng Xuân), xã Yên
Khơng (huyện Lang Chánh), xã Kỳ Tân (huyện Bá Thớc), xã Hồi Xuân
(huyện Quan Hóa), xã Trung Lý (huyện Mờng Lát) đã giúp đỡ tôi trong các
chuyến đi điền dã ở các địa phơng này.
Cán bộ và nhân viên phòng t liệu khoa Lịch sử của Trờng Đại học
Khoa học xã hội & nhân văn, Th viện quốc gia, Th viện Viện thông tin khoa
học xã hội, Viện Dân tộc học, Viện nghiên cứu văn hóa, phòng lu trữ Uỷ ban
nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Ban dân tộc tỉnh Thanh Hóa đã cung cấp nhiều tài
liệu trong qúa trình tôi thực hiện bản luận án của mình.
Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất của tôi!
Hà Nội, tháng 6 - 2009


4
Mục lục

Trang

Mở đầu.....
5
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu. 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 7
3. Mục tiêu nghiên cứu..... 15
4. Phạm vi nghiên cứu...... 15
5. Phơng pháp nghiên cứu.. 16
6. Nguồn t liệu.... 16
7. Đóng góp của luận án... 17
8. Bố cục của luận án.... 17
Chơng 1: Tổng quan về địa bàn, tộc ngời và vấn đề nghiên cứu...
18
1.1. Khái quát về địa bàn miền núi Thanh Hóa.... 18
1.2. Ngời Thái ở miền núi Thanh Hóa 19
1.3. Tri thức bản địa.. 31
Chơng 2: Tri thức bản địa trong trong hoạt động sản xuất nông
nghiệp và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
50
2.1. Tri thức trong phân loại và bảo vệ đất trồng trọt... 50
2.2. Tri thức trong lựa chọn giống lúa...... 58
2.3. Tri thức trong kỹ thuật canh tác..... 59
2.4. Tri thức trong đoán định thời tiết... 61
2.5. Tri thức về lịch và nông lịch.. 63
2.6. Tri thức trong sử dụng và bảo vệ tài nguyên nớc..... 70

2.7. Tri thức trong khai thác và bảo vệ tài nguyên rừng... 79
Chơng 3: Tri thức bản địa về y học dân gian và chăm sóc sức
khoẻ cộng đồng
89
3.1. Quan niệm về ốm đau, bệnh tật. 89
3.2. Quan niệm về nghề thuốc và truyền nghề. 92
3.3. Tri thức về thuốc nam chữa bệnh.. 97
3.4. Ăn uống dới khía cạnh dinh dỡng và chữa bệnh... 113

5
Chơng 4: Tri thức bản địa trong tổ chức và quản lý xã hội..
118
4.1. Chế độ sở hữu ruộng đất 118
4.2 Thiết chế bản - mờng và bộ máy hành chính... 122
4.3. Tri thức về luật tục 132
4.4. Tri thức trong thông tin cộng đồng.... 155
Kết luận...
188
Khuyến nghị
192
Chú thích.
194
Danh mục các công trình công bố của tác giả..
196
Tài liệu tham khảo..
198
Phụ lục.
220
Bản đồ địa bàn nghiên cứu... 221
Một số hình ảnh về ngời Thái. 224

ảnh một số cây thuốc ......
245
Thống kê danh sách một số cây thuốc và bài thuốc. 262
Những nghi lễ và kiêng kỵ trong phòng bệnh.. 274
Chữa bệnh bằng ma thuật. 282
Nghi lễ cầu ma 293
Truyền thuyết về ta leo. 295
Bảng so sánh một số từ vựng của ngời Thái ở một vài địa phơng 297
Danh sách những ngời cung cấp t liệu.. 303


6
Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tri thức bản địa là một trong những thành tố quan trọng của văn hóa,
góp phần làm nên bản sắc tộc ngời. Tri thức bản địa có thể coi là tài sản của
mỗi tộc ngời trong qúa trình phát triển, phản ánh mối quan hệ của từng cộng
đồng đối với môi trờng tự nhiên và xã hội.
Kinh nghiệm phát triển của nhiều quốc gia châu á và châu Phi trong
những thập kỷ qua cho thấy cách tiếp cận khoa học và công nghệ phơng Tây
không đủ đáp ứng những quan niệm phức tạp và đa dạng của nông dân cũng
nh những thách thức về kinh tế, xã hội, môi trờng mà ngày nay chúng ta
đang phải đơng đầu. Ngợc lại, rất nhiều kỹ thuật truyền thống đã đa lại
hiệu quả cao, đợc thử thách và chọn lọc trong một thời gian dài, có sẵn tại
địa phơng, phù hợp với văn hóa và phong tục tập quán của tộc ngời.
Việt Nam là một quốc gia có đa tộc ngời, nên tri thức bản địa của các
tộc ngời rất phong phú và đa dạng. Mặc dù tri thức bản địa của các tộc ngời
mới chỉ dừng lại ở mức độ kinh nghiệm v cảm nhận, nhng nhờ đợc rút ra
từ hoạt động thực tiễn, nên nó có giá trị thiết thực trong xã hội hiện nay của

mỗi tộc ngời. Do đó, cần phải coi tri thức bản địa nh một nguồn ti nguyên
quan trọng v lập kế hoạch nghiên cứu, su tầm, phát huy chúng trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc nói chung, sự nghiệp phát triển
bền vững ở vùng miền núi v tộc ngời thiểu số nói riêng.
Miền núi Thanh Hóa là địa bàn c trú của các tộc ngời Mờng, Thái,
Thổ, Hmông, Dao, Khơ mú. Các tộc ngời này có số l
ợng dân c, đặc điểm
kinh tế - xã hội - văn hóa nói chung và tri thức bản địa nói riêng có nhiều
điểm khác biệt. Với riêng ngời Thái, việc nghiên cứu về tộc ngời này đã trở
thành một vấn đề mang ý nghĩa quốc tế và đợc nhiều nhà khoa học trên thế
giới quan tâm. ở Việt Nam, các Hội nghị về Thái học do Chơng trình Thái
học thuộc Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và giao lu văn hóa (nay là Viện

7
Việt Nam học và khoa học phát triển thuộc Đại học quốc gia Hà Nội) tổ chức
vào các năm 1991, 1998, 2002, 2006 và 2009; trên thế giới, các Hội nghị quốc
tế về Thái học đợc tổ chức trong những thập kỷ gần đây (năm 1981 ở ấn Độ,
năm 1984 ở Thái Lan, năm 1987 ở Ôxtrâylia, năm 1990 ở Trung Quốc, năm
1993 ở Anh, năm 1996 ở Thái Lan, năm 1999 ở Hà Lan, năm 2002 ở Thái
Lan, năm 2005 ở Mỹ và năm 2008 ở Thái Lan) đã chứng minh điều đó.
So với toàn bộ c dân Thái ở Đông Nam á và Nam Trung Quốc, ngời
Thái ở Việt Nam không nhiều: 1.328.725 ngời {212, tr 21}, nhng

do địa bàn
bị chia cắt, lại chịu ảnh hởng của nhiều luồng văn hóa từ nhiều hớng, cũng
nh văn hóa của các tộc ngời c trú xen kẽ, nên sự khác biệt giữa các nhóm
địa phơng là điều không tránh khỏi. Nhiệm vụ của giới nghiên cứu khoa học
nớc ta hiện nay là phải nghiên cứu một cách có hệ thống tất cả các nhóm c
dân Thái trên địa bàn cả nớc, cũng nh ở các địa phơng. So với toàn bộ c
dân Thái ở Việt Nam, ngời Thái ở miền núi Thanh Hóa có nhiều nét tơng

đồng nhng cũng có nhiều điểm khác biệt, nên việc nghiên cứu ngời Thái ở
đây vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn.
Là một ngời sinh ra và lớn lên ở miền núi Thanh Hóa và là cán bộ
giảng dạy, nghiên cứu Dân tộc học ở Học viện Chính trị - Hành chính khu vực
I, trong nhiều năm qua tôi đã tiến hành nghiên cứu về lịch sử tộc ngời, kinh
tế, xã hội và văn hóa của ngời Thái, và có nhiều dịp đi điền dã tại nhiều địa
bàn có ngời Thái sinh sống thuộc miền núi Thanh Hóa. Những vấn đề về tri
thức bản địa của ngời Thái trong đời sống tộc ngời truyền thống cũng nh
hiện nay đã thôi thúc tôi chọn đề tài: Tri thức bản địa của ngời Thái ở
miền núi Thanh Hóa làm luận án Tiến sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành
Dân tộc học.
Nghiên cứu đề tài này tôi muốn khái quát những tri thức bản địa của
ngời Thái ở miền núi Thanh Hóa, khai thác những giá trị lịch sử, văn hóa mà
ngời Thái đã sáng tạo ra trên chiếc nôi của nền văn hóa dân tộc. Qua đó, một
mặt phát huy những mặt tích cực, hữu ích của tri thức bản địa; mặt khác, chỉ

8
ra những hạn chế và việc kết hợp giữa tri thức bản địa với tri thức khoa học
hiện đại trong phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa... hiện nay. Qua đó giới thiệu
nguồn t liệu khảo sát từ thực tiễn và đề xuất một số ý kiến làm cơ sở bảo lu
các giá trị văn hóa tộc ngời, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nớc.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Về tri thức bản địa
Cho đến nay các, kết quả nghiên cứu lý thuyết về tri thức bản địa ở
Việt Nam mới chỉ là một phần, một chơng hoặc một bài của cuốn sách, một
bài đăng trên tạp chí chuyên ngành, tổ chức hội thảo khoa học về vấn đề
này Có thể kể đến các tác giả với những công trình nghiên cứu sau:
Hoàng Xuân Tý - Lê Trọng Cúc (chủ biên): "Kiến thức bản địa của
đồng bào vùng cao trong nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên"
(236). Nội dung của cuốn sách trình bày: 1. Các khái niệm và vai trò của kiến

thức bản địa; 2. Kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong một số lĩnh
vực cụ thể. Cuốn sách là một tài liệu tham khảo tốt trong nghiên cứu về tri
thức bản địa.
Ngô Đức Thịnh: "Tri thức dân gian và phát triển" (197). Bài viết trình
bày các nội dung: 1. Khái niệm tri thức dân gian; 2. Các loại tri thức dân gian
của các tộc ngời; 3. Vai trò của tri thức dân gian; 4. Bảo tồn tri thức dân gian.
Ngô Đức Thịnh: "Thế giới quan bản địa" (205). Bài viết trình bày các
nội dung: 1. Khái niệm tri thức bản địa; 2. Các lĩnh vực của tri thức bản địa; 3.
Những nghiên cứu trờng hợp
Dới góc nhìn nhân học - văn hóa, hai bài viết của tác giả Ngô Đức
Thịnh trình bày tơng đối đầy đủ về khái niệm, nội hàm và các lĩnh vực liên
quan của tri thức bản địa.
Hoàng Hữu Bình: "Tri thức địa phơng và vấn đề phát triển bền vững
miền núi Việt Nam" (17). Bài viết của tác giả trình bày các nội dung: 1. Khái
niệm tri thức địa phơng; 2. Tri thức địa phơng trong bảo vệ môi trờng và
khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên.

9
Phạm Quang Hoan: Tri thức địa phơng của các dân tộc thiểu số ở
Việt Nam (97). Bài viết trình bày các nội dung: 1. Tầm quan trọng của tri
thức địa phơng; 2. Quan niệm về tri thức địa phơng; 3. Tri thức địa phơng
của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Phạm Quang Hoan: "Tri thức địa phơng (tri thức truyền thống) của các
dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong đời sống xã hội đơng đại (98). Bài viết trình
bày các nội dung: 1. Tại sao cần nghiên cứu tri thức địa phơng; 2. Tri thức địa
phơng là gì; 3. Tri thức địa phơng của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Phạm Quang Hoan: "Tri thức địa phơng về quản lý nguồn tài nguyên
thiên nhiên của các dân tộc ở các tỉnh miền núi Việt Nam" (99). Bài viết trình
bày các nội dung: 1. Quan niệm về tri thức địa phơng; 2. Tri thức địa phơng
về quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên của các dân tộc ở các tỉnh miền núi

phía Bắc.
Dới góc nhìn nhân học - văn hóa, ba bài viết của tác giả Phạm Quang
Hoan trình bày tơng đối đầy đủ về khái niệm, nội hàm và các lĩnh vực liên
quan của tri thức bản địa nói chung, tri thức bản địa của các tộc ngời thiểu số
ở Việt Nam.
Hà Đình Thành "Tác động của tri thức dân gian" (180). Bài viết của
tác giả trình bày các nội dung: 1. Khái niệm và vai trò của tri thức dân gian; 2.
Tri thức dân gian của các tộc ngời ở Việt Nam; 3. Tác động của tri thức dân
gian trong quản lý nhà nớc đối với tài nguyên môi trờng.
(Mông ký Slay chủ biên): "Cung cấp tri thức địa phơng một hớng
tiếp cận mới trong giáo dục cho học sinh dân tộc" (133). Bài viết của tác giả
trình bày các nội dung: 1. Quan niệm về tri thức địa phơng; 2. Tri thức địa
phơng với đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam; 3. Một số nguyên tắc lựa
chọn nội dung tri thức địa phơng; 4. Các môn học với việc chuyển tải kiến
thức địa phơng.
Trung tâm nghiên cứu và phát triển cây thuốc dân tộc cổ truyền tổ
chức Hội thảo tri thức bản địa (143). Các tham luận trình bày: phơng pháp

10
nghiên cứu, đánh giá tri thức bản địa; tài nguyên sinh vật và sự chia sẻ lợi ích;
ngăn ngừa việc chiếm dụng văn hóa vật thể, bảo vệ tri thức cổ truyền, tri thức
bản địa; y học dân gian và tri thức bản địa trong chăm sóc sức khoẻ cộng đồng
của một số tộc ngời thiểu số
Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam tổ chức hội thảo Vai trò của tri
thức bản địa trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trờng ở các cộng đồng dân tộc
thiểu số (144). Các tham luận trình bày: Mối quan hệ giữa văn hóa và môi
trờng; một đôi nét về khái niệm tri thức bản địa; tri thức bản địa - những
bớc thăng trầm; tri thức bản địa trong bảo vệ môi trờng, khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên của một số tộc ngời thiểu số
Trần Bình: Tri thức địa phơng, tiềm lực phát triển đất nớc (23).

Bài viết của tác giả trình bày các nội dung: 1. Quan niệm và nội hàm của tri
thức địa phơng; 2. Vai trò của tri thức địa phơng trong phát triển kinh tế -
xã hội.
Nguyễn Duy Thiệu: Tri thức bản địa nguồn lực quan trọng cho sự
phát triển (188). Bài viết của tác giả trình bày các nội dung: 1. Quan niệm về
tri thức bản địa; 2. Tri thức bản địa của một số tộc ngời trong khai thác
nguồn tài nguyên thiên nhiên, sản xuất nông nghiệp
Lê Văn Khoa: "Tri thức bản địa" (112). Bài viết của tác giả trình bày các
nội dung: 1. Quan niệm về tri thức bản địa; 2. Đặc điểm của tri thức bản địa.
Nguyễn Thanh Thự: "Một vài suy nghĩ về việc giảng dạy tri thức bản
địa" (208). Bài viết của tác giả trình bày các nội dung: 1. Suy nghĩ về khái
niệm tri thức bản địa; 2. Sự cần thiết phải giáo dục tri thức bản địa; 3. Nội
dung và phơng pháp giảng dạy.
Trần Hồng Hạnh: "Tri thức địa phơng - tiếp cận lý thuyết" (89). Bài
viết của tác giả trên cơ sở tổng hợp nhiều nguồn tài liệu ở trong và ngoài nớc,
trình bày đầy đủ và có hệ thống các nội dung: 1. Khái niệm tri thức địa
phơng; 2. Tri thức địa phơng và c dân địa ph
ơng; 3. Tri thức địa phơng
và bối cảnh; 4. Phân loại tri thức địa phơng.

11
Vũ Trờng Giang: Về tri thức bản địa và phát triển (67). Bài viết của
tác giả trình bày các nội dung: 1. Khái niệm tri thức bản địa; 2. Tầm quan
trọng của tri thức bản địa trong phát triển.
Nguyễn Thị Thu Hà: Tri thức bản địa - những bớc thăng trầm (85).
Bài viết của tác giả trình bày các nội dung: 1. Tri thức bản địa và những đặc
điểm chung; 2. Tri thức bản địa và những bớc thăng trầm.
Bùi Hoài Sơn: Một đôi nét về khái niệm trị thức bản địa (161). Bài
viết của tác giả trình bày các nội dung: 1. Sự phát triển khái niệm tri thức bản
địa; 2. Mối quan hệ giữa tri thức bản địa và khoa học.

2.2. Về ngời Thái
Cho đến nay có nhiều nhà khoa học quan tâm và có nhiều công trình
nghiên cứu về ngời Thái đã đợc xuất bản. Trong phạm vi của đề tài luận án,
kể các tác giả và những công trình nghiên cứu sau:
R. Robert: Notes sur les Tày dèng de Lang Chánh (Thanh Hóa - An
nam) (264). Nội dung của cuốn sách trình bày: 1. Điều kiện địa lý; 2. Hoàn
cảnh xã hội và vật chất; 3. Thần thánh ma quỷ; 4. Những trờng hợp chính của
cuộc sống; 5. Các thầy mo; 6. Tín ngỡng và các loại lễ; 7. Tinh thần nhân
dân; Phần cuối của cuốn sách là phụ lục về bản đồ, hình vẽ, truyền thuyết,
bảng thống kê Cuốn sách là một nguồn t liệu quý, một tài liệu tham khảo
có giá trị khi nghiên cứu về ngời Thái ở miền núi Thanh Hóa nói riêng, ở khu
vực Bắc Trung bộ nói chung.
Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên): T liệu về lịch sử và xã hội dân tộc
Thái (240). Nội dung của cuốn sách trình bày: 1. Truyện kể bản mờng; 2.
Lai lịch dòng họ Hà Công, Lệ mờng và luật mờng; Phần cuối của cuốn sách
là phụ lục đợc lập rất công phu, chú thích về địa danh, những khái niệm
chung về xã hội Thái, cách tính lịch của ngời Thái đen Cuốn sách là một
tài liệu tham khảo có giá trị khi nghiên cứu về ngời Thái.
Tô Sỹ Hòa: Đôi nét về nông nghiệp ruộng nớc của ngời Thái xã Vạn
Xuân - huyện Thờng Xuân - tỉnh Thanh Hóa (95). Đây là luận văn cử nhân

12
chuyên ngành dân tộc học, nội dung chính của luận văn trình bày về hoạt động
nông nghiệp ruộng nớc và những nghi lễ nông nghiệp của ngời Thái
Nguyễn Doãn Hơng: Truyền thống thuỷ lợi và những nghi lễ liên
quan đến thuỷ lợi của ngời Tày Dọ ở Vạn Xuân, Thờng Xuân, Thanh Hóa
(104). Đây là luận văn cử nhân chuyên ngành dân tộc học, nội dung chính của
luận văn, nội dung chính của luận văn trình bày về kỹ thuật xây dựng hệ thống
thuỷ lợi cổ truyền, vai trò của thuỷ lợi trong canh tác nông nghiệp, những nghi
lễ liên quan đến thuỷ lợi của ngời Thái

Cầm Trọng: Ngời Thái ở Tây Bắc Việt Nam (217) là cuốn sách
nghiên cứu công phu, nghiêm túc và tơng đối toàn diện về ngời Thái. Nội
dung của cuốn sách trình bày: 1. Ngời Thái ở Tây Bắc Việt Nam; 2. Các loại
hình kinh tế; 3. Ruộng đất và xã hội; 4. Bản mờng; 5. Một số nét khái quát về
tôn giáo, nghệ thuật, văn học; 6. Dới sự lãnh đạo của Đảng, xã hội ngời
Thái không ngừng phát triển. Cuốn sách là một nguồn t liệu quý, một tài liệu
tham khảo có giá trị khi nghiên cứu về ngời Thái.
Cầm Trọng: Mấy vấn đề về lịch sử kinh tế xã hội cổ đại của ngời
Thái ở Tây Bắc Việt Nam (219). Nội dung của cuốn sách trình bày: 1. Sự
xuất hiện hình thái hôn nhân đầu tiên; 2. Hệ thống thân tộc và các hình thái xã
hội sơ khai; 3. Sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cổ truyền. Cuốn sách
là một nguồn t liệu quý, một tài liệu tham khảo có giá trị khi nghiên cứu về
ngời Thái.
Đặng Nghiêm Vạn và cộng sự: Tìm hiểu văn hóa cổ truyền của ngời
Thái Mai Châu (242). Nội dung của cuốn sách trình bày: 1. Lịch sử; 2. Bản
làng; 3. Phong tục; 4. Hội lễ; 5. Văn học; 6. Nghệ thuật; 7. Phần phụ lục trình
bày về lệ mờng, truyện cổ, tục ngữ
Hoàng Anh Nhân (chủ biên): Văn hóa truyền thống mờng Ca Da
(139). Nội dung của cuốn sách trình bày: 1. Truyền thuyết và cổ tích; 2.
Truyện thơ, trờng ca, trò diễn, dân ca; 3. Một số luật lệ của ngời Thái ở
mờng Ca Da (nay thuôc huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa).

13
Trong các kỷ yếu/sách (229, 230, 231, 247) của 5 Hội thảo khoa học
về Thái học có nhiều bài viết của nhiều tác giả cũng có đề cập đến các khía
cạnh khác nhau về tri thức bản địa của ngời Thái.
Cầm Trọng - Phan Hữu Dật: Văn hóa Thái Việt Nam (224). Nội
dung của cuốn sách trình bày: 1. Văn hóa của ngời Thái ở Việt Nam; 2. Văn
hóa Thái trong cội nguồn Việt Nam và Đông Nam á; 3. Văn hóa Thái - một
loại hình văn hóa thung lũng; 4. Văn hóa Thái - một loại hình văn hóa kỹ

thuật tiền công nghiệp; 5. Văn hóa thiết chế xã hội; 6. Hệ thống t tởng và tri
thức; 7. Mối quan hệ giữa văn hóa Thái với văn hóa các dân tộc nói ngôn ngữ
Môn - Khơ me ở Tây Bắc và một số dân tộc ở miền Bắc Việt Nam. Có thể nói
đây là một công trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc, trình bày văn hóa của
ngời Thái. Cuốn sách là một nguồn t liệu quý, một tài liệu tham khảo có giá
trị khi nghiên cứu về văn hóa của ngời Thái ở Tây Bắc.
Vi Văn An: Thiết chế xã hội truyền thống của ngời Thái ở miền Tây
Nghệ An (4). Đây là luận án Tiến sĩ Sử học, chuyên ngành Dân tộc học, nội
dung chính của luận án trình bày: 1. Ngời Thái ở Nghệ An; 2. Quan hệ xã
hội; 3. Chế độ ruộng đất; 4. Tổ chức hành chính và bộ máy quản lý bản
mờng; 5. Sự biến đổi của thiết chế xã hội bản mờng...
Ngô Đức Thịnh - Cầm Trọng: Luật tục của ngời Thái ở Việt Nam
(199). Nội dung của cuốn sách trình bày: 1. Ngời Thái và luật tục Thái; 2.
Các văn bản Luật tục Thái ở Tây Bắc. Cuốn sách là một nguồn t liệu quý,
một tài liệu tham khảo có giá trị khi nghiên cứu phơng thức tổ chức và quản
lý xã hội của ngời Thái.
Vũ Trờng Giang: Hệ thống truyền thông cổ truyền của ngời Thái ở
miền Tây Thanh Hóa (54). Đây là luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Dân tộc
học, nội dung chính của luận văn trình bày: 1. Truyền thông biểu tợng; 2.
Truyền thông âm thanh
ạttha nantachukra: Các giá trị văn hóa vật chất của ng
ời Thái ở
miền núi Nghệ An (11). Đây là luận án Tiến sĩ Sử học, chuyên ngành Dân tộc

14
học, nội dung chính của luận án trình bày: 1. Khái quát về ngời Thái ở Nghệ
An; 2. Hệ thống công cụ sản xuất; 3. Hệ thống thuỷ lợi; 4. Về ăn, mặc, ở; 5.
Các phơng tiện vận chuyển, đi lại; 6. So sánh về tính đồng nhất và khác biệt
trong văn hóa vật chất của ngời Thái ở Nghệ An và ngời Thái ở Thái Lan.
Vũ Thị Hoa: Lễ hội cầu mùa của ngời Thái Tây Bắc Việt Nam

(94). Nội dung của cuốn sách trình bày: 1. Khái quát về ngời Thái ở Tây Bắc;
2. Những lễ nghi và lễ hội liên quan đến nông nghiệp của ngời Thái; 3. Lễ
nghi và lễ hội nông nghiệp Thái với tín ngỡng và nghệ thuật truyền thống.
Nguyễn Nghĩa Thìn (chủ biên): Thực vật học dân tộc: cây thuốc của
đồng bào Thái Con Cuông, Nghệ An (193). Nội dung của cuốn sách trình
bày: 1. Hệ thống các cây thuốc; 2. Sử dụng cây thuốc; 3. Tính hiệu quả; 4. Các
bài thuốc truyền thống; 5. Những cây thuốc quý và những cây thuốc mới phát
hiện. Cuốn sách là một nguồn t liệu quý, một tài liệu tham khảo có giá trị khi
nghiên cứu y học cổ truyền và thực vật học dân tộc của ngời Thái.
Vơng Anh: Tiếp cận văn hóa bản Thái xứ Thanh (12). Nội dung
của cuốn sách trình bày: 1. Từ cội nguồn tộc ngời Thái, 2. Vào kho tàng văn
hóa phi vật thể, 3. Tiếp tục phát triển đời sống văn hóa, xây dựng môi trờng
xã hội - nhân văn ở bản Thái xứ Thanh.
Lê Huy Dũng: Tín ngỡng dân gian của ngời Thái ở Thờng Xuân,
Thanh Hóa (41). Đây là luận văn cử nhân chuyên ngành dân tộc học, nội
dung chính của luận văn trình bày về quan niệm và vai trò của các hình thức tín
ngỡng dân gian trong đời sống của ngời Thái
Hoàng Thị ánh: Tìm hiểu tục lệ cới xin của ngời Thái ở xã Xuân Lẹ,
huyện Thờng Xuân, tỉnh Thanh Hóa (15). Đây là luận văn cử nhân chuyên
ngành dân tộc học, nội dung chính của luận văn trình bày về quan niệm và các
nghi lễ trong hôn nhân của ngời Thái
Khổng Minh Hằng: Tìm hiểu tri thức về bảo vệ môi trờng của ngời
Thái ở xã Xuân Lẹ, huyện Thờng Xuân, tỉnh Thanh Hóa (90). Đây là luận
văn cử nhân chuyên ngành dân tộc học, nội dung chính của luận văn trình bày

15
quan niệm về môi trờng và các tri thức tộc ngời trong bảo vệ môi trờng của
ngời Thái.
Vũ Phơng Nga: Các phong tục tập quán về sinh đẻ và nuôi con cái
của ngời Thái ở xã Xuân Lẹ, huyện Thờng Xuân, tỉnh Thanh Hóa (146). Đây

là luận văn cử nhân chuyên ngành dân tộc học, nội dung chính của luận văn
trình bày về các phong tục tập quán về sinh đẻ và nuôi con cái của ngời Thái.
Cao Văn Thanh (chủ biên): Bảo tồn và phát triển văn hóa truyền
thống của ngời Thái vùng núi Bắc Trung bộ hiện nay (179). Nội dung của
cuốn sách trình bày: 1. Giới thiệu về ngời Thái và văn hóa truyền thống của
ngời Thái; 2. Thực trạng văn hóa truyền thống của ngời Thái; 3. Bảo tồn và
phát huy truyền thống của ngời Thái
Vi Văn Biên: Văn hóa vật chất của ngời Thái ở Thanh Hóa và Nghệ
An (16). Nội dung của cuốn sách trình bày: 1. Khái quát về tộc ngời Thái ở
Thanh Hóa và Nghệ An; 2. Văn hóa ẩm thực; 3. Làng bản - nhà cửa; 4. Trang
phục; 5. Công cụ lao động và phơng tiện vận chuyển; 6. Đôi nét về văn hóa
vật chất của ngời Thái ở Bắc Trung Bộ và ngời Thái ở Tây Bắc
Ngoài ra, trên các Tạp chí khoa học nh: Nghiên cứu lịch sử, Dân tộc
học, Văn hóa dân gian, Nghiên cứu Đông Nam á, Văn hóa nghệ thuật, Nguồn
sáng dân gian, Dân tộc và thời đại cũng đã đăng tải nhiều bài viết về kinh
tế, xã hội, văn hóa, phong tục tập quán của ngời Thái. Riêng trên Tạp chí
Dân tộc học, tôi đã thống kê đến nay có khoảng 80 bài viết về ngời Thái,
trong đó có một số bài đề cập tới tri thức bản địa của ngời Thái trên một số
lĩnh vực cụ thể của các tác giả: Vi Văn An (9); Hoàng Cầm (26); Lâm Minh
Châu (27); Vũ Trờng Giang (56), (57), (65), (68), (69)
Từ những cuốn sách, luận án, luận văn, bài viết về tri thức bản địa
và về ng
ời Thái vừa trình bày có thể rút ra một nhận xét sau:
Thứ nhất, nghiên cứu về tri thức bản địa là một nghiên cứu "trẻ" ở Việt
Nam nhng đã thu hút sự quan tâm của nhiều ngành khoa học thuộc các

16
chuyên môn khác nhau nh dân tộc học, văn hóa học, tài nguyên môi trờng,
sinh học, nông nghiệp, lâm nghiệp
Thứ hai, các kết quả nghiên cứu đã đạt đợc những thành công nhất

định về lý thuyết; đồng thời, khẳng định vai trò quan trong của tri thức bản địa
trong phát triển bền vững.
Thứ ba, những kết quả nghiên cứu thể hiện tinh thần làm việc nghiêm
túc của các tác giả, là tài liệu tham khảo tốt trong nghiên cứu, giảng dạy và
hoạch định chính sách.
Thứ t, nhiều nội dung trong tri thức bản địa của ngời Thái về hoạt
động sản xuất nông nghiệp, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, về cây thuốc, về
luật tục, về truyền tin đã đợc các nhà nghiên cứu tìm hiểu và trình bày
trong nhiều công trình.
Thứ năm, hiện nay cha có một công trình chuyên khảo nào nghiên
cứu có hệ thống và chuyên sâu về Tri thức bản địa của ngời Thái ở miền núi
Thanh Hóa nói riêng và Việt Nam nói chung.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Phác họa một cách tơng đối hệ thống về tri thức bản địa của
ngời Thái ở miền núi Thanh Hóa.
3.2. Phân tích giá trị và vai trò của tri thức bản địa trong đời sống của
ngời Thái dới góc nhìn bản sắc văn hóa tộc ngời.
3.3. Đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị của tri
thức bản địa của ngời Thái trong giai đoạn hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Tri thức bản địa của ngời Thái ở miền núi Thanh Hóa bao gồm rất
nhiều lĩnh vực, trong phạm vi của luận án, tôi nghiên cứu những tri thức bản
địa trong sản xuất nông nghiệp (tôi chỉ đề cập tới những tri thức trong trồng
trọt, mà cha đề cập tới những tri thức trong chăn nuôi, hái lợm, thủ công
nghiệp) và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên; tri thức bản địa về y học dân gian và
chăm sóc sức khỏe; tri thức bản địa trong tổ chức và quản lý xã hội.

17
Luận án tiến hành nghiên cứu diện tại nhiều xã có ngời Thái c trú ở
miền núi Thanh Hoá và nghiên cứu điểm là hai xã Yên Khơng (huyện Lang

Chánh) và Xuân Lẹ (huyện Thờng Xuân).
5. Phơng pháp nghiên cứu
Thực hiện luận án này, tôi đã dựa trên cơ sở phơng pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Trên nền tảng lý luận đó, sử dụng
phơng pháp điền dã Dân tộc học là điền dã, ghi chép, chụp ảnh, phỏng vấn,
thảo luận nhóm Trong chừng mực nào đó, chúng tôi còn áp dụng một số
phơng pháp nh: phơng pháp nghiên cứu tham dự (PR: Participating
Research), phơng pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của ngời dân
(PRA: Participatory Rural Appraisal) Khi áp dụng PRA, chúng tôi thực
hiện các yêu cầu:
- Thái độ làm việc: Tự nguyện, kiên nhẫn ngồi lắng nghe để ngời dân
đợc trình bày những điều họ làm hoặc cách thức mà họ lựa chọn, để từ đó
hiểu đợc tại sao họ lại làm nh vậy.
- Hình thức làm việc: Đa dạng, đơn giản, cụ thể để ngời dân có thể
trình bày những tri thức của họ một cách dễ dàng và đầy đủ.
- Đánh giá: Dùng những thông tin nhìn thấy đợc, công khai các thông
tin để đối tợng nghiên cứu tham gia thảo luận theo nhóm, giúp đa ra các
đóng góp tơng đối thống nhất của ngời dân địa phơng đối với các thông tin
mà ngời nghiên cứu muốn thu thập.
6. Nguồn t liệu
Thực hiện luận án này, tôi đã sử dụng các nguồn t liệu chính sau đây:
Thứ nhất, t
liệu điền dã về ngời Thái tôi thu thập đợc trong nhiều
năm qua ở các huyện Nh Xuân, Thờng Xuân, Lang Chánh, Bá Thớc, Quan
Hóa, Quan Sơn, Mờng Lát thuộc miền núi Thanh Hóa.
Thứ hai, kế thừa những thành tựu nghiên cứu về ngời Thái ở Việt
Nam nói chung, ở miền núi Thanh Hóa nói riêng của các nhà nghiên cứu đi
trớc ở trong và ngoài nớc.

18

Thứ ba, khai thác các tài liệu lu trữ tại phòng T liệu khoa Lịch sử -
Trờng Đại học KHXH & nhân văn Hà Nội, th viện Viện Dân tộc học, Viện
Nghiên cứu văn hóa, Viện Thông tin khoa học xã hội, Th viện quốc gia,
phòng lu trữ thuộc Văn phòng UBND tỉnh, Ban Dân tộc tỉnh Thanh Hóa
7. Đóng góp của luận án
7.1. Bổ sung tài liệu thành văn về tri thức bản địa của ngời Thái ở
miền núi Thanh Hóa.
7.2. Xác định giá trị và vai trò của tri thức bản địa của ngời Thái đối
với việc phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi Thanh Hóa, góp phần hoạch
định và thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội trong vùng.
7.3. Những kết quả nghiên cứu của luận án trong một chừng mực nhất
định sẽ bổ ích cho các nhà quản lý về công tác dân tộc và văn hóa...
8. Bố cục của luận án
Luận án có 305 trang, bao gồm cả phần phụ lục, bản đồ, ảnh, bảng
thống kê, danh sách ngời cung cấp t liệu
Ngoài phần mở đầu 13 trang, phần kết luận 4 trang, nội dung chính
của luận đợc chia thành 4 chơng.
Chơng I. Tổng quan về địa bàn, tộc ngời và vấn đề nghiên cứu.
Chơng II. Tri thức bản địa trong hoạt động sản xuất nông nghiệp và
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Chơng III. Tri thức bản địa về y học dân gian và chăm sóc sức khoẻ
cộng đồng.
Chơng IV. Tri thức bản địa trong tổ chức và quản lý xã hội.

19
Chơng 1
Tổng quan về địa bn, tộc ngời v vấn đề nghiên cứu

1.1. Khái quát về địa bàn miền núi Thanh Hóa
Miền núi Thanh Hóa là một khu vực rộng lớn với diện tích 7.893 km

2

(chiếm 3/4 diện tích toàn tỉnh), có địa thế núi non hiểm trở với hệ thống bắc
sông Mã là núi đá vôi tiếp nối của dãy Hoàng Liên Sơn và kết thúc bằng dãy
Tam Điệp, có độ cao giảm dần từ 1.500 mét đến 100 mét, đỉnh cao nhất là Bù
Luông (1.667 m) thuộc địa giới 2 xã Thanh Sơn (huyện Bá Thớc) và Phú
Xuân (huyện Quan Hóa); hệ thống nam sông Mã gồm các dãy phiến thạch,
grannít chạy từ Mờng Lát, Quan Hóa, Quan Sơn, Thờng Xuân sang Nh
Xuân có độ cao trên dới 1000 mét, đỉnh cao nhất là Bù Chó (1.122 m)
thuộc xã Xuân Mỹ (huyện Thờng Xuân). Nếu xét dới góc độ sinh thái thì
đây cũng là khu vực của vùng rừng ma nhiệt đới với hệ sinh thái phổ tạp. Vì
vậy, thảm thực vật và quần động vật ở đây rất phong phú, tạo điều kiện cho
cuộc sống định c với sự xuất hiện sớm của nghề nông, đặc biệt là ở các thung
lũng đầu nguồn hoặc phụ lu các sông lớn nh mờng Ca Da (huyện Quan
Hóa), mờng Khoòng, mờng ống (huyện Bá Thớc), mờng Đèng (huyện
Lang Chánh), mờng Chiếng Ván (huyện Thờng Xuân).
Miền núi Thanh Hóa có hai hệ thống sông chính là sông Mã và sông
Chu. Sông Mã bắt nguồn từ huyện Tuần Giáo (tỉnh Điện Biên), qua huyện
Sông Mã (tỉnh Sơn La), huyện Xiềng Khọ (tỉnh Hủa Phăn, Lào) và chảy vào
huyện Mờng Lát, Quan Hóa, Bá Thớc, Cẩm Thuỷ (tỉnh Thanh Hóa).
Sông Mã có chiều dài 512 km (phần chảy trên đất Thanh Hóa dài 242 km),
lu vực rộng 28.400 km
2
(thuộc Thanh Hóa là 9.000 km
2
), có các nhánh chính
tại miền núi là sông Luồng, Sông Lò, Suối Sim, Suối Quanh và Sông Chu.
Sông Chu bắt nguồn từ Lào, qua huyện Quế Phong (tỉnh Nghệ An) và chảy
vào huyện Thờng Xuân (tỉnh Thanh Hóa). Sông Chu dài 300 km và có các
nhánh chính là sông Khao, sông Đặt, sông Đằn và sông Âm.


20
Hai hệ thống sông Mã và sông Chu qua đất Lào và Việt Nam đã tạo ra
những thung lũng với những cánh đồng màu mỡ thuận lợi cho việc trồng lúa
nớc, là con đờng chuyển c chính của ngời Thái từ Việt Nam sang Lào và
ngợc lại, đồng thời là cầu nối cho qúa trình giao lu văn hóa, trao đổi kinh tế
của các tộc ngời c trú ở vùng lu vực trong lịch sử cũng nh hiện tại.
Rừng vốn là thế mạnh của miền núi, nhờ có điều kiện nhiệt đới ẩm
thuận lợi, rừng cây xanh tốt quanh năm với hệ sinh thái phổ tạp. Trong rừng
chứa đựng một tiềm năng lớn về kinh tế với các loại gỗ quý nh Đinh, Lim,
Sến, Lát, Pơ mu Một loại cây khác phổ biến và có giá trị kinh tế cao là cây
luồng cùng bạt ngàn nứa, vầu, song, mấy. Núi rừng ở đây còn hội tụ một quần
thể động vật nh voi, hổ, gấu và một kho tài nguyên trong lòng đất nh
vàng, chì, thiếc
Miền núi Thanh Hóa có 11 huyện với 220 xã, trong đó có 102 xã đặc
biệt khó khăn (diện chơng trình 135), hai huyện vùng cao biên giới Mờng
Lát, Quan Sơn có 23 xã thì 100% số xã trong diện chơng trình 135. Đây cũng
là khu vực giữ vị thế quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, an ninh -
quốc phòng, giữ gìn môi trờng sinh thái, bảo đảm sự ổn định, phát triển
không chỉ riêng cho vùng mà còn cho cả tỉnh; là vùng giàu tiềm năng, có
nhiều thế mạnh: đất đai phát triển nông nghiệp, nghề rừng, khoáng sản, thuỷ
điện, thơng mại cửa khẩu, du lịch
1.2. Ngời Thái ở miền núi Thanh Hoá
Theo tổng điều tra dân số ngày 1 - 4 - 1999, miền núi Thanh Hoá có
các tộc ngời thiểu số là Mờng, Thái, Thổ, Hmông, Dao, Khơ mú c trú. Dân
số của tộc Thái là 210.908 ngời, c trú tập trung ở 8 huyện miền núi và một
số xã miền núi, trung du của các huyện đồng bằng.
Bảng 1
.1: Dân số các tộc ngời thiểu số ở miền núi Thanh Hóa
Dân tộc

TT Huyện
Mờng Thái Thổ Hmông Dao Khơ mú
1 Mờng Lát 681 13.621 11.562 546 607
2 Quan Hóa 9.618 26.719 1.444

21
3 Quan Sơn 1.046 27.321 832
4 Bá Thớc 49.958 31.444 7 9 8
5 Lang Chánh 13.087 22.578
6 Ngọc Lạc 83.927 246 1.246
7 Thờng Xuân 3.075 47.496 10 2 1
8 Nh Xuân 3.568 22.505 9.251
9 Nh Thanh 17.259 12.204 189
10 Cẩm Thuỷ 56.306 3.213
11 Thạch Thành 68.342 25 2 14 17
12 Tĩnh Gia 725
13 Triệu Sơn 4.563 4.510
14 Thọ Xuân 8.485 407 5
15 Hà Trung 1.774
16 Yên Định 1.190 5
Tổng cộng 328.744 210.908 8.980 13.325 5.077 642
Nguồn: Số liệu của Ban dân tộc Thanh Hóa (2002)
1.2.1. Tộc danh và lịch sử c trú
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng các ngành Thái ở Tây Bắc nói riêng và
Việt Nam nói chung đều chung một gốc với các nhóm Thái ở Nam Trung
Quốc, Lào, Thái Lan, Mianma. Tổ tiên ngời Tày - Thái xa xa bắt nguồn từ
các nhóm Bách Việt, trong khối ngôn ngữ tiền Thái, sinh sống ở vùng Quảng
Tây, Quảng Đông, Quý Châu và Đông Bắc Việt Nam.
Đến thiên niên kỷ thứ I trớc công nguyên, do bị sức ép của ngời
Hán, một bộ phận ngời Thái thiên di nhiều đợt theo nhiều hớng dọc theo

các con sông lớn xuống vùng Đông Nam á lục địa. Cùng lúc đó, họ gặp phải
cuộc thiên di của những nhóm tổ tiên các tộc ngời ngôn ngữ Tạng - Miến từ
Tây Nam Trung Quốc tràn về. Đến đây các nhóm Thái ngành phía Tây cộng
c với tổ tiên các tộc ngời ngôn ngữ Môn - Khơ me đã làm chủ miền này từ
trớc. Tuy ở một thế yếu kém hơn, đến những thế kỷ đầu sau Công nguyên, tổ
tiên ngời Thái cũng đã lập đợc một loạt các tiểu quốc ở thợng lu sông
Mêkông, ở vùng thợng Đông Dơng tới vùng giáp ranh tỉnh Vân Nam, vùng
thợng Lào và Tây Bắc Việt Nam. Trong giai đoạn này, Tây Bắc nói chung và
Điện Biên Phủ nói riêng là đờng chuyển tải văn hóa từ ấn Độ qua Việt Nam
với những ảnh hởng của đạo Bà La Môn và Phật giáo. Ngợc lại, cũng qua

22
đây các c dân bản địa ở Đông Dơng đã chuyển sang ấn Độ và Tây Nam
Trung Quốc những thành tựu văn hóa truyền thống của mình {241, tr 17}.
Cuộc thiên di lớn thứ hai của tổ tiên ngời Thái diễn ra bắt đầu vào
cuối thiên niên kỷ I sau Công nguyên cùng sự lớn mạnh của nhà nớc Nam
Chiếu, Đại Lý và phát triển kéo dài suốt những thế kỷ XII - XIII - XIV, kết
thúc vào thế kỷ XV, nhờ sự suy yếu của những nhà nớc Môn - Khơ me tại
Đông Dơng và sự suy yếu hay thất bại trớc quân Mông - Nguyên của những
nhà nớc Tạng - Miến. Kết quả là một loạt quốc gia Thái đợc thiết lập ở Tây
Đông Dơng, thay thế các quốc gia Môn - Khơ me ở vùng Lào, Thái Lan
Chiếm lĩnh Tây Bắc, các lãnh chúa Thái thần phục triều đình phong
kiến Việt Nam (Lý, Trần, Lê sơ) và đợc phép cai quản các lãnh địa cát cứ
của mình. Mỗi vùng thờng có một mờng trung tâm và các mờng phụ thuộc
do một lãnh chúa lớn, là bồi thần trực tiếp của triều đình trung ơng đứng đầu.
Đến đời Lý Thánh Tông, ảnh hởng của nhà Lý đối với vùng này đã rất lớn:
năm 1067, vào tháng 2 mùa xuân, Ngu Hống (có thể phiên âm từ Ngu Háu
(Rắn Hổ mang - biểu tợng của ngời Thái đen) và Ai Lao đều vào triều cống.
Lễ vật gồm có vàng, bạc, trầm hơng, sừng tê, ngà voi {46, tr 247}.
Cộng đồng ngời Thái ở Việt Nam có sự phân chia thành hai ngành

Thái trắng (Tay khao) và Thái đen (Tay đăm) rất độc đáo mà không thấy có ở
các nhóm Tai khác của miền Nam Trung Quốc một số quốc gia ở khu vực
Đông Nam á lục địa.
ở miền núi Thanh Hóa, ngời Thái có hai nhóm tự gọi là Tày và Tày
Dọ. Nhóm tự gọi là Tày phân bố chủ yếu ở các huyện Quan Hoá, Quan Sơn,
Mờng Lát, Bá Thớc, Lang Chánh; nhóm tự gọi là Tày Dọ tập trung chủ
yếu ở các huyện Th
ờng Xuân, Nh Xuân, Nh Thanh. PGS - TS Lê Sỹ Giáo
cho rằng Danh xng Tày Dọ có thể có mối liên hệ với các địa danh Mờng
Xo (Lai Châu), Mờng Do (Vân Nam - Trung Quốc) xa kia {74, tr 41}. TS
Vi Văn An cho rằng Dọ có nghĩa là tạm, chẳng hạn dú dọ (ở tạm). Rất có
thể Dọ là để chỉ những bộ phận Thái mới chuyển c đến, lúc đầu chỉ xin ở

23
tạm, sau đó mới định c lâu dài {2, tr 53}. Sau ny, TS Vi Văn An đính
chính lại: "Dọ" là cố định, "Nhài" là di chuyển
(1)
.
Lý giải về tên gọi của các nhóm Thái ở hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ
An, nhà dân tộc học Mạc Đờng cho rằng:
Sau khi thiên di vào Việt Nam, nhiều nhánh ngời Thái đã phân chia c
trú ở các vùng rừng núi Bắc Trung bộ theo từng khu vực nhỏ ngăn cách
khác nhau, họ đã dùng tên địa phơng, tên sông núi nơi họ c trú và
những đặc điểm trang sức để gọi thành những tộc danh phức tạp khác
nhau. Đó là nguyên nhân tồn tại nhiều tộc danh trong các chi tộc Thái ở
miền núi Bắc Trung bộ {51, tr 24}.
Cùng với tên gọi, nguồn gốc và lịch sử c trú của ngời Thái ở miền
núi Thanh Hóa cũng đợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, PGS - TS Lê Sỹ
Giáo cho rằng:
Ngời Thái ở mờng Ca Da đã từ Tây Bắc Việt Nam, từ Lào đi dọc

sông Mã mà xuống vùng Quan Hóa. Khi đã định c vững chắc, ngời
Thái Ca Da lại tiếp nhận nhiều đợt di c sau này của những ngời đồng
tộc theo con đờng truyền thống mà cha ông họ đã đi {79, tr 16}.
Theo nghiên cứu của TS Khăm Pheng Thíp muntaly: Ngời Phu Thay
ở Hủa Phăn hiện nay có nguồn gốc chủ yếu và trực tiếp là từ Tây Bắc Việt
Nam và miền Tây Thanh Hóa di c đến và trải qua nhiều đợt, đông nhất là
thời kỳ thế kỷ XVIII và XIX {111, tr 28 - 31}.
Ngời Phu Thay dọc sông Nặm Má (sông Mã) xung quanh thị xã Xăm
Nửa, huyện Hủa Mơng, vùng Nặm Nơn cho biết cách đây 8 - 9 đời (khoảng
200 năm) những ngời Thái đen từ mờng Muổi (Thuận Châu - Sơn La) đã
đến vùng mờng ẹt, mờng Xòn. Một bộ phận khác ở Mờng Xăm, Mờng
Pua, Xiềng Khọ, Mờng Xòn lại nói tổ tiên họ vốn từ mờng Ca Da (Quan
Hóa - Thanh Hóa) chạy giặc sang Lào.
Ngời Thay Đeng (Thái Đỏ) ở mờng
ó, huyện Hủa Mơng cho biết
nguồn gốc của họ ở Việt Nam sang. Theo họ một số từ mờng Ca Da (Quan

24
Hóa - Thanh Hóa) đầu tiên đến vùng Xiêng Men, sau đó đi vào mờng ó.
Ngời Thay Đeng (Thái Đỏ) ở Sốp Hao huyện Xiêng Khọ lại có nguồn gốc từ
mờng Khoòng (Bá Thớc - Thanh Hóa), mờng Ca Da (Quan Hóa - Thanh
Hóa) và mờng Mun (Mai Châu - Hòa Bình) đến.
Nói hầu hết ngời Phu Thay ở tỉnh Hủa Phăn đều là ngời Thái ở Việt
Nam di chuyển sang, nhng trong qúa trình thiên di của tộc ngời này đã có
một bộ phận theo con đờng ngợc lại. PGS - TS Lê Sỹ Giáo cho biết:
ở mờng Ca Da (nay là đất các xã Hồi Xuân, Phú Nghiêm huyện
Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa), dòng họ quý tộc Lò Khăm cũng có nguồn
gốc từ mờng Bua, mờng Xà của đất Lào thiên c đến. Dòng họ này
khi cúng ngời chết đều đa linh hồn về Lào. Đặc biệt hơn, xa kia
trong dịp Tết Nguyên đán dòng họ Lò Khăm vẫn phải cho ngời con

dâu cả ăn mặc, búi tóc theo kiểu ngời Lào. Phạm vi bảo lu tập tục ở
đây tuy chỉ còn ở ngời con dâu đầu nhng nó lại là chi tiết rất lý thú
nhắc nhở về nguồn gốc của một dòng họ lớn ở vùng này {75, tr 34}.
Ngời Thái ở mờng Khoòng, cụ thể là dòng họ Hà Công đã từ Mai
Châu (Hòa Bình) di c vào đã đợc 5 - 6 đời. Ngời Thái các vùng trên đều
thừa nhận tổ tiên chung với Thái - Mai Đà (Mai Châu, Đà Bắc), thờng hay đi
đám ma, nhận họ hàng ở Hòa Bình.
Ngời Thái ở mờng Chiếng Ván (nay là đất các xã Vạn Xuân, Xuân
Chinh, Xuân Lẹ của huyện Thờng Xuân), cụ thể là dòng họ Cầm Bá đã từ
Lai Châu di c vào ở rể cho một chi họ chuyên về tế lễ đền từ (gọi là chi ông
Đăm; còn một chi nữa chuyên lo lễ nghi thờ trời gọi là ông Mờng) đã sống ở
đây từ trớc. Hai chi ông Đăm và ông Mờng thấy rể có chữ nghĩa lại tháo vát
mới đoàn kết lại cùng nhau tổ chức mờng. ít nhất dòng họ Cầm Bá đã ở
Chiếng Ván là 14 đời {79, tr 16}.
Ngời Thái ở mờng Đèng có nguồn gốc rất phức tạp. Khảo sát thực tế
của chúng tôi (tháng 8/1995, tháng 7 - 8/2006) tại vùng này đã đợc đại diện
một số dòng họ cho biết về con đờng di c của tổ tiên nh sau:

25
Ông Lò Văn Piêng (78 tuổi, nông dân ở bản Tứ Chiềng, xã Yên
Khơng) kể: tổ tiên là ngời Kinh ở vùng Lợc (huyện Thọ Xuân), cách đây
khoảng 6 - 7 đời do túng thiếu nên di c đến mờng Đèng sinh sống, rồi di c
sang Lào đợc tạo mờng Quyên do không có con trai nên gả con gái, cho ở
rể và hởng toàn bộ tài sản. Sau đó lại trở về sinh sống tại mờng Đèng. Tạo
mờng Đèng chặt cây đè chết ngời nên bị phạt vạ rất nặng đã đợc tổ tiên
của ông Lò Văn Piêng giúp đỡ tiền bạc để nộp phạt. Vì việc này nên đợc tạo
mờng Đèng cấp ruộng, đày tớ và cho mang họ Lò của tạo.
Ông Lò Văn May (50 tuổi, thầy thuốc ở bản Tứ Chiềng, xã Yên
Khơng kể: tổ tiên ở mờng Lò (Nghĩa Lộ), cách đây 5 - 6 đời do chạy giặc
Cờ Vàng đã di c vào mờng Khoòng, sau đó mới đến định c ở mờng Đèng.

Ông Ngân Văn Ninh 65 tuổi, thầy cúng ở bản Tứ Chiềng, xã Yên
Khơng) kể: tổ tiên ở mờng Kỳ (huyện Bá Thớc) di c đến mờng Đèng đã
đợc 4 đời.
Ông Lò Văn Thanh (53 tuổi, nông dân ở bản Bôn, xã Yên Khơng) kể:
tổ tiên từ Quỳ Châu (Nghệ An) di c đến mờng Đèng đã đợc 5 đời.
Ông Hà Đức Thiện (50 tuổi, Bí th Đảng uỷ xã Yên Khơng) kể: tổ
tiên là ngời Kinh ở huyện Tĩnh Gia di c sang Lào, rồi sau đó mới đến
m
ờng Đèng đã đợc 4 - 5 đời và đã bị Thái hoá hoàn toàn.
Ông Vi Văn Thông (50 tuổi, Chủ tịch UBND xã Yên Khơng) kể: tổ
tiên từ huyện Con Cuông (Nghệ An) di c đến mờng Đèng đã 4 - 5 đời.
Đối với ngời Thái ở miền núi Thanh Hóa (và cả miền núi Nghệ An),
sự phân biệt Thái trắng, Thái đen không rõ ràng nh ở Tây Bắc. Do vậy, việc
xác định nhóm Thái nào ở Thanh Hóa và Nghệ An tơng đồng với Thái trắng
và nhóm Thái nào tơng đồng với Thái đen ở Tây Bắc là một việc làm cần
thiết và có ý nghĩa khoa học. Có hai ý kiến khác nhau về vấn đề này:
1. PGS - TS Lê Sỹ Giáo cho rằng:
Bộ phận tự nhận là Tày Dọ ở Thanh Hóa và Tày Mờng ở Nghệ An chỉ
là một và bộ phận này tơng đồng Thái trắng ở Tây Bắc; các nhóm Tày,

×