Hồ Chí Minh để lại cho Đảng và dân tộc một di sản tư tưởng to lớn và vô cùng
quý giá. Trong đó những nội dung tư tưởng của Người về nông dân Việt Nam, về
vận động nông dân có một vị trí rất quan trọng và còn nguyên giá trị trong giai đoạn
hiện nay.
!"#$%&'&'(#)*!+#!
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng ta mãi mãi soi đường
cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”
(1)
,)-*#)./'&'(#)*!+#!
- Chủ nghĩa Mác - Lênin
- Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
- Tinh hoa văn hóa nhân loại
- Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
0123
4#)56#$&7%&89#)&!:;!9#)<=#
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nho giáo yêu nước sống ở nông thôn
vào buổi chiều hoàng hôn của chế độ phong kiến Việt Nam. Ngay từ nhỏ, Người đã
gắn bó với xóm làng và người nông dân, vì vậy sớm có tình cảm và hiểu biết về
người nông dân. Lớn lên, Hồ Chí Minh ra nước ngoài tìm đường cứu dân, cứu nước.
Người đi khắp bốn châu lục, gặp gỡ nông dân ở nhiều nước thuộc địa và tư bản,
Người càng thấu hiểu và thương xót người nông dân ở xứ mình.
Việt Nam trải qua hàng nghìn năm dưới thời phong kiến, chủ thể đông đảo
nhất quyết định sự hưng thịnh trong lịch sử của dân tộc là nông dân. Do điều kiện
địa lý tự nhiên và địa vị chính trị mà người nông dân Việt Nam đã nảy sinh và định
hình tính cộng đồng mạnh mẽ. Công xã nông thôn Việt Nam thời phong kiến được
tổ chức trên cơ sở những quan hệ huyết thống và chế độ công hữu về ruộng đất càng
làm tăng tính cố kết cộng đồng của nông dân. Theo Hồ Chí Minh, chế độ công điền,
công thổ, chế độ phong kiến Việt Nam đã làm cho cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta
1
ng C ng s n Vi t Nam: V n ki n i h i i bi u tòan qu c l n th XI, Nxb. Chính tr qu c gia – SĐả ộ ả ệ ă ệ Đạ ộ đạ ể ố ầ ứ ị ố ự
th t, H N i, 2011, tr. 88.ậ à ộ
không quyết liệt như các nước phương Tây.
Đến thế kỷ XVIII, chiến tranh nông dân ở nước ta bùng phát mạnh mẽ tác
động tới mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó mô hình công xã chịu sự tác động
nhiều nhất. Từ đây, các triều đại phong kiến tiếp tục duy trì tổ chức công xã bằng
việc hủy bỏ chế độ phong cấp ruộng đất cho đại thần và hoàng tộc, thay vào đó là
ban cấp bổng lộc dưới hình thức thu tô, thuế làng xã. Suốt mấy thế kỷ bị bóc lột tô,
thuế nặng nề làm cho người nông dân vô cùng khổ ải. Vì vậy, Hồ Chí Minh nhận
xét “Chế độ phong kiến tức là chế độ địa chủ bóc lột nông dân. Địa chủ chiếm tư
liệu sản xuất, tức là ruộng đất, nông cụ làm của riêng, nhưng họ không cày cấy.
Nông dân buộc phải mướn ruộng của địa chủ, phải nộp tô cho địa chủ, lại còn phải
hầu hạ và lễ lạt địa chủ. Nông dân không khác gì nô lệ, nông dân quanh năm chân
lấm, tay bùn, đầu tắt, mặt tối, nhưng vẫn nghèo khổ. Địa chủ thì không nhắc chân
động tay, mà lại nhà cao, cửa rộng, phú quý phong lưu. Đó là một chế độ cực kỳ
không công bằng. Nông dân vì nghèo khó, không thể nâng cao mức sản xuất. Địa
chủ thì chỉ lo lấy địa tô, không lo cải thiện sản xuất. Vì vậy, sản xuất không thể
nâng cao. Đặc điểm của chế độ phong kiến là: nông dân sản xuất một cách rời rạc,
địa chủ bóc lột một cách tàn tệ. Nhà nước phong kiến là Nhà nước của giai cấp địa
chủ. Nó lấy vua chúa làm trung tâm. Nó dùng mồ hôi, nước mắt của nông dân để
nuôi một bầy quan lại và quân lính, áp bức bóc lột nông dân. Trải qua mấy nghìn
năm, nông dân nhiều phen nổi lên chống chế độ phong kiến địa chủ, nhưng kết quả
thất bại vì họ không biết tổ chức chặt chẽ. Nông dân cần có một giai cấp tiên tiến
lãnh đạo - tức là giai cấp công nhân, thì mới chắc chắn được giải phóng”
(3)
.
Đầu thế kỷ XX, Người viết: “An Nam chưa bao giờ có tăng lữ và thuế mười
phần trăm. Hoàng đế trị vì nhưng chẳng lo cai trị gì. Tất nhiên là đã có quan lại
rồi. Nhưng có thể so sánh với chúa phong kiến không? Không. Trước hết quan lại
được tuyển lựa theo con đường dân chủ: con đường thi cử phải mở rộng cho mọi
người và mọi người có thể chuẩn bị thi mà chẳng tốn kém gì. Hơn nữa, quyền lực
của quan lại được cân bằng bằng tính tự trị của xã, thôn”
(1)
. “Cho nên, nếu nông
dân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng không có vốn liếng gì lớn. Nếu nông dân
sống bằng cái tối thiểu cần thiết thì đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa
hoa. Nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì địa chủ lại không hề
biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc, người thì chẳng có công đoàn, kẻ thì
chẳng có tờ - rớt, người thì nhẫn nhục chịu số phận của mình, kẻ thì vừa phải trong
sự tham lam của mình. Sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó
không thể chối cãi được”
(2)
.
,4#)56#$&7%&89#)/"/!%>#))?;!@#)56#&A/
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, vì quyền lợi của ngai
vàng, của hoàng tộc, triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã kháng cự yếu ớt, từng
bước đầu hàng rồi đi đến đầu hàng hoàn toàn, biến nước Việt Nam độc lập thống
(
3)
H Chí Minh to n t p, t p 7, NxbCTQG, H.1996, tr.203-204ồ à ậ ậ
(
1)
H Chí Minh to n t p, t p 1, NxbCTQG, H.1995, tr 464-465ồ à ậ ậ
(
2)
H Chí Minh to n t p, t p 1, NxbCTQG, H.1995, tr 464ồ à ậ ậ
2
nhất, có chủ quyền thành một nước thuộc địa của thực dân Pháp. Từ đây nhân dân
ta, trước hết là nông dân phải sống dưới ách thống trị dã man chưa từng có. Vào
năm 1924, Hồ Chí Minh nhận xét: “Người An Nam nói chung đều phải è cổ ra mà
chịu sự bảo hộ ấy một cách thảm hại hơn: là người An Nam, họ bị áp bức; là người
nông dân, họ bị người ta ăn cắp, bóc lột, tước đoạt, là phá sản”
(4)
,
.
“Họ bị đóng đinh
câu rút bởi bốn thế lực liên hiệp là: Nhà nước, tên thực dân, Nhà thờ và tên lái
buôn”
(5)
.
Ruộng đất với người nông dân như hình với bóng. Vậy mà dưới ách thống trị
thực dân, người nông dân bị đủ các thế lực cướp giật ruộng đất. Hồ Chí Minh tố
cáo: “Khi Pháp đánh chiếm thuộc địa này, chiến tranh đã làm cho nông dân phải
rời khỏi làng mạc của họ. Sau đó, khi họ trở về thì đã thấy ruộng đất của họ bị bọn
địa chủ đồn điền, theo sau quân đội chiến thắng chiếm mất… Như vậy là nông dân
An Nam đã biến thành nông nô và buộc phải cày cấy ruộng đất của chính mình cho
bọn địa chủ nước ngoài”
(6)
.
Còn đối với “Những người nông dân bị cướp bóc, phá sản và bị đuổi đi nơi
khác lại tìm cách khai khẩn để làm ruộng. Nhưng khi đất mới vừa khai khẩn xong
thì chính quyền lại chiếm lấy và buộc nông dân phải mua theo giá chính quyền
định. Ai không đủ sức mua thì bị đuổi đi một cách tàn nhẫn”
(7)
. Buộc họ phải rời bỏ
quê hương vào làm thuê cho các đồn điền với đồng lương chết đói, gia đình ly tán
“Cha trốn ra Hòn Gai cuốc mỏ. Anh chạy vào đất đỏ làm phu. Bán thân đổi mấy
đồng xu. Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng”.
Hồ Chí Minh chỉ ra: “Bên cạnh các thế lực phần đời ấy còn có những đấng
cứu thế phần hồn nữa. Các đấng này trong khi đi truyền bá đức nghèo cho người
An Nam, cũng không quên tìm cách làm giầu bằng mồ hôi và máu của người bản
xứ
”(8)
. Lịch sử cũng cho thấy: “ở đâu có cuộc nổi dậy, có khởi nghĩa thì nơi đó cha
cố biến thành mật thám, nhà thờ Chúa bị biến thành nơi tra khảo
”(9)
. Có thể thấy,
“người nông dân An Nam bị hành hình bằng lưỡi lê của nền văn minh tư bản chủ
nghĩa, vừa bằng cây thánh giá của giáo hội sa đọa làm ô danh Chúa
”(10)
.
Như vậy, “chính sách thực dân của Pháp đã thủ tiêu quyền chiếm hữu công
cộng và thay thế bằng quyền chiếm hữu tư nhân. Nó củng cố quyền chiếm hữu nhỏ,
làm lợi cho quyền chiếm hữu đồn điền lớn
”(11)
, người nông dân bị tước mất ruộng
đất. Bởi vậy, “nông dân thì nghèo khổ đã sẵn, lại bị sưu cao thuế nặng. Địa chủ lấy
địa tô quá nặng, cho vay cắt họng, làm cho người nông dân nhiều khi phải bán vợ
đợ con. Nếu gặp hạn hán là chết đói đầy đường
”(12)
.
(
4)
H Chí Minh to n t p, t p 1, NxbCTQG, H.1995, tr.227ồ à ậ ậ
(
5)
H Chí Minh to n t p, t p 1, NxbCTQG, H.1995, tr 211ồ à ậ ậ
(
6)
H Chí Minh to n t p, t p 1, NxbCTQG, H.1995, tr 283- 284ồ à ậ ậ
(
7)
H Chí Minh to n t p, t p 1, NxbCTQG, H.1995, tr 285ồ à ậ ậ
(
8)
H Chí Minh to n t p, t p 1, NxbCTQG, H.1995, tr 229ồ à ậ ậ
(
9)
H Chí Minh to n t p, t p 1, NxbCTQG, H.1995, tr 417ồ à ậ ậ
(
10)
H Chí Minh to n t p, t p 2, NxbCTQG, H.1995, tr 84ồ à ậ ậ
(
11)
H Chí Minh to n t p, t p 1, NxbCTQG, H.1995, tr 286ồ à ậ ậ
(
12)
H Chí Minh to n t p, t p 7, Nxb CTQG, H.1996, tr. 209ồ à ậ ậ
3
Chính sách cai trị của thực dân Pháp làm cho “người ta lại thấy trong các
thuộc địa đó tất cả hệ thống phong kiến trung cổ và dã man của chủ nghĩa tư
bản”
(13).
.
Ở thuộc địa, chúng đã thực hiện chính sách cướp đoạt ruộng đất, bần cùng
hóa người nông dân - như ông Vinhê Đốctông, một nghệ sĩ nước Pháp khi đó phải
nói: “Nếu so sánh với bọn viên chức thuộc địa thì những quân cướp đường còn là
những người lương thiện”
(14)
. Như ở nước ta, đến năm 1930, bọn địa chủ thực dân
đã chiếm của nông dân tới gần 1 triệu ha ruộng đất màu mỡ, bằng 1/5 tổng số ruộng
đất ở nước ta khi đó. Bình quân mỗi người Pháp chiếm gần bằng 100 lần diện tích
ruộng đất trong tay một người Việt Nam.
Bọn địa chủ thực dân Pháp chiếm ruộng đất của nông dân Việt Nam rồi lại bóc
lột họ bằng lối phong kiến, thực dân phát canh thu tô tới 50%, có lúc, có nơi chúng
thu tới 70 - 80% sản lượng.
Địa chủ, phong kiến Việt Nam trước cách mạng tháng Tám năm 1945 chỉ
chiếm 2% dân số, nhưng lại chiếm tới 51% diện tích ruộng đất canh tác. Nông dân
chiếm 90% dân số, nhưng chỉ có 36% diện tích ruộng đất, trong đó gần 60% số hộ
hoàn toàn không có ruộng đất, ở Nam bộ có nơi con số này lên tới 74%. Họ phải
lĩnh canh ruộng đất của địa chủ và bị thu tô không dưới 50% sản lượng định trước.
Ruộng đất còn lại trong tay người nông dân là loại đất xấu, rất cằn cỗi và bọn
cá mập Pháp đánh vào những mảnh ruộng đó “Những thứ thuế vô lý gấp trăm lần
thuế đất thời phong kiến”
(15)
. Dưới ách cai trị của thực dân Pháp, nhân dân ta phải
sống trong một xã hội nô lệ tàn bạo nhất, trong đó “quần chúng nông dân bị bóc lột
nhất và cùng khổ nhất”
(16)
. Năm 1947, Hồ Chí Minh nhận xét: “thực dân Pháp cướp
nước ta đã 85 năm trường… Trong 85 năm đó, thực dân Pháp làm chết dân ta ít
nhất cũng đến 7,8 triệu người… Năm ngoái chỉ ở Bắc bộ và miền Bắc Trung bộ đã
hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói”
(17)
. Trong khi đó, từ năm 1890 đến năm 1939, thực
dân Pháp cướp của nông dân ta để xuất khẩu từ Việt Nam gần 58 triệu tấn gạo,
trung bình mỗi năm trên 1 triệu tấn.
Liệu nhân dân ta, nông dân ta có cam chịu sống mãi chế độ thực dân không?
Đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “mọi chế độ thực dân đế quốc đều
tiêu diệt hết các nòi giống bản xứ và muốn cứu những nòi giống này ta phải lật đổ
chủ nghĩa đế quốc”. Rõ ràng làm cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng nông
dân là đòi hỏi bức xúc của dân tộc ta ở đầu thế kỷ XX. Nhưng giải phóng bằng con
đường nào, ai làm, làm như thế nào còn là những câu hỏi lớn ở đầu thế kỷ trước của
dân tộc ta.
B*!+#!&C%87/9#D':#))?;!@#)56#&A/)?;!@#)#4#)
56#$&7%
Trước cuộc khủng hoảng con đường giải phóng của dân tộc ở đầu thế kỷ XX,
(
13)
H Chí Minh to n t p, t p 2, Nxb CTQG, H.1995, tr. 134ồ à ậ ậ
(
14)
H Chí Minh to n t p, t p 1, Nxb CTQG, H.1995, tr. 370ồ à ậ ậ
(
15)
H Chí Minh to n t p, t p 2, Nxb CTQG, H.1995, tr.74ồ à ậ ậ
(
16)
H Chí Minh to n t p, t p 1, Nxb CTQG, H.1995, tr. 204ồ à ậ ậ
(
17)
H Chí Minh to n t p, t p 5 Nxb CTQG, H.1995, tr. 1ồ à ậ ậ
4
Hồ Chí Minh đã tự quyết định cho mình một hướng đi, thực hiện một cuộc khảo sát
toàn thế giới với hy vọng xem nhân loại làm như thế nào để rồi sẽ về giúp đồng bào.
Ngày 5/6/1911, Người rời Tổ quốc thân yêu, với tư cách người lao động đi làm thuê
tới nhiều nước khắp bốn châu lục, gắn mình với phong trào công nhân và cách
mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã tìm thấy chủ nghĩa Mác - Lênin là: “chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất”
(18)
. Người kết luận: “Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”
(19)
. Dân tộc Việt Nam, nông dân Việt Nam muốn được độc lập, tự do, hạnh
phúc chỉ có một con đường làm cách mạng theo chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lênin.
Khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cương lĩnh đầu tiên do Hồ Chí Minh
soạn thảo xác định: “Đảng chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, cuộc cách mạng này đã thắng lợi dưới sự lãnh
đạo của Đảng và được Hồ Chí Minh tổng kết chỉ ra: “Cách mạng Việt Nam trải qua
2 giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa”
(20)
.
Rõ
ràng đây là một cuộc cách mạng chẳng những giải phóng dân tộc mà còn giải phóng
nông dân, chẳng những giải phóng về chính trị mà còn triệt để về kinh tế, văn hóa -
xã hội cho toàn dân tộc mà đông đảo nhất là giai cấp nông dân. Người phân tích:
“tính chất thuộc địa và phong kiến của xã hội cũ Việt Nam khiến cách mạng Việt
Nam phải chia làm 2 bước: Bước thứ nhất, là đánh đuổi đế quốc, đánh đổ phong
kiến, thực hiện “người cày có ruộng” xây dựng chính trị và kinh tế dân chủ mới…
Bước thứ hai là tiến lên chủ nghĩa xã hội, tức là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng
sản”
(21)
. Như vậy bước thứ nhất (giai đoạn cách mạng dân tộc, dân chủ) của con
đường cách mạng Việt Nam, xét về mặt kinh tế là đem lại ruộng đất cho nông dân
và xây dựng kinh tế dân chủ mới. Nhưng chỉ thực hiện thành công ở bước thứ hai
(giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa) thì mới tạo ra được cơ sở vật chất, kỹ thuật,
văn hóa và xã hội tiên tiến để giải phóng triệt để về mọi mặt cho người nông dân đã
bao đời gian truân vất vả.
E!F//!G&/"/!%>#))?;!@#)56#&A/H/"/!%>#))?;!@#)#4#)
56#
Khi Hồ Chí Minh xác định con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn
thì giai đoạn đầu có nhiệm vụ giải phóng dân tộc giành lại độc lập cho dân tộc và
ruộng đất cho dân cày, mà mục tiêu trước tiên, trước hết là giành độc lập dân tộc,
nhiệm vụ dân chủ, mang lại ruộng đất cho nông dân cũng thực hiện ở giai đoạn đầu
của cách mạng Việt Nam nhưng phải rải ra và phục tùng nhiệm vụ dân tộc mà thực
hiện. Trong thực hiện nhiệm vụ dân tộc đã có nội dung dân chủ. Vì vậy Hồ Chí
Minh khẳng định: “Sự thật là cuộc cách mạng ở các nước thuộc địa lúc đầu và
trước hết là cuộc cách mạng chống phong kiến”
(22)
. Người cũng phân tích: như vậy
vấn đề nông dân là nền tảng của vấn đề dân tộc. Và nền tảng của cách mạng dân chủ
(
18)
H Chí Minh to n t p, t p 2, NxbCTQG, H.1995, tr. 268ồ à ậ ậ
(
19)
H Chí Minh to n t p, t p 9, NxbCTQG, H.1996, tr. 314ồ à ậ ậ
(
20)
H Chí Minh to n t p, t p 9, NxbCTQG, H.1996, tr. 581ồ à ậ ậ
(
21)
H Chí Minh to n t p, t p 7, NxbCTQG, H.1996, tr. 209 - 210ồ à ậ ậ
(
22)
H Chí Minh to n t p, t p 12, Nxb CTQG, H.1996, tr. 475ồ à ậ ậ
5
cũng là vấn đề nông dân. Theo Người, cơ sở của luận đề này là:
1. “Vì nông dân là tối đại đa số trong các dân tộc”
(23)
; “Trong tất cả các thuộc
địa Pháp, công nghiệp và thương nghiệp phát triển rất yếu ớt và nông dân hầu hết
làm nghề nông, 95% dân số bản xứ làm nghề nông”
(24)
; “Nước ta kinh tế chưa phát
đạt, trong 100 người thì đến 90 người là dân cày”
(25)
.
2. Dưới thời thực dân phong kiến, nông dân lao động nước ta là những người
“bị bóc lột nhất và cùng khổ nhất, rất yêu nước”
(26)
. Họ bị áp bức, bóc lột hơn ai hết
trong dân tộc. Mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thực dân phong kiến là mâu thuẫn
giữa nông dân với chủ nghĩa đế quốc và phong kiến tay sai. Bởi vậy “Nội dung
cách mạng dân chủ căn bản là giải phóng nông dân, chia ruộng đất cho nông dân.
Nội dung cách mạng dân tộc cũng là giải phóng cho nông dân”
(27)
.
IJKL
Vận động nông dân là nhiệm vụ của toàn Đảng, Nhà nước và Mặt trận, nhưng
chủ yếu và trực tiếp là Hội Nông dân, là nhiệm vụ của các cán bộ, Đảng viên ở cơ
sở mà tuyệt đại đa số trong họ đều xuất thân từ giai cấp nông dân. Do vậy, địa
phương và cơ sở vận động nông dân phải xuất phát từ đặc điểm của nông dân, từ
nhiệm vụ chính trị của cách mạng. Và người đi vận động nông dân có phong cách
phù hợp với đối tượng được vận động, tuyên truyền là nông dân.
M/DN%O&P%#Q#)/R7#4#)56#$&7%
Muốn vận động nông dân làm cách mạng, trước hết phải hiểu về đặc điểm và
tiềm năng của họ.
1.1. Đặc điểm cơ bản của nông dân Việt Nam
- Lịch sử đã ghi lại những trang sử hào hùng của nông dân Việt Nam cho thấy
họ có một lòng yêu nước nồng nàn, lòng yêu nước đó được bắt nguồn từ truyền
thống yêu nước của dân tộc, được nuôi dưỡng qua hàng ngàn năm lịch sử và ngày
càng phát huy trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
- Nông dân Việt Nam có lối sống giản dị, chất phác, chân thực, trong sáng đã
củng cố, bồi đắp thêm tinh thần dân tộc, tinh thần yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
- Nông dân luôn là một bộ phận quan trọng của dân cư, lịch sử hình thành và
phát triển của giai cấp nông dân luôn gắn liền với lịch sử dân tộc Việt Nam. Vì vậy,
trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn cụ thể người nông dân luôn thể hiện được truyền
thống cần cù trong lao động, dũng cảm trong chiến đấu, tình làng nghĩa xóm sâu
nặng và lòng nhân nghĩa thủy chung . . .
1.2. Tiềm năng của nông dân Việt Nam
Khi đánh giá giai cấp nông dân Việt Nam, Hồ Chí Minh đã thấy ở họ những
(
23)
H Chí Minh to n t p, t p 7, Nxb CTQG, H.1996, tr. 15ồ à ậ ậ
(
24)
H Chí Minh to n t p, t p 1, Nxb CTQG, H.1996, tr. 283ồ à ậ ậ
(
25)
H Chí Minh to n t p, t p 2, Nxb CTQG, H.1996, tr. 308ồ à ậ ậ
(
26)
H Chí Minh to n t p, t p 1, Nxb CTQG, H.1995, tr. 204ồ à ậ ậ
(
27)
H Chí Minh to n t p, t p 7, Nxb CTQG, H.1996, tr.25ồ à ậ ậ
6
tiềm năng to lớn và quý giá.
Với số lượng chiếm đại bộ phận trong dân tộc, nên “Đồng bào nông dân sẵn
có lực lượng to lớn, sẵn có lòng nồng nàn yêu nước, sẵn có chí khí kiên quyết đấu
tranh và hy sinh”
(32)
.
Nhìn rõ tiềm năng to lớn của nông dân, Hồ Chí Minh đã kêu gọi dân tộc, trong
đó “nông dân là quân chủ lực” hãy đứng dậy “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Nhờ vậy, cách mạng tháng Tám đã thành công ở Việt Nam.
Thực hiện sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, Hồ Chí Minh lại chỉ ra: “nông
dân là một lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai
cấp công nhân. Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập thống nhất
thật sự ắt phải dựa vào lực lượng của nông dân”
(33)
.
Thời gian cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh khẳng định: “tối
đại đa số nhân dân ta là nông dân. Mấy năm nay nhờ lực lượng nông dân mà kháng
chiến được thắng lợi. Sau này cũng nhờ lực lượng nông dân mà kháng chiến được
hoàn toàn thắng lợi, kiến quốc đi đến thành công”
(34)
.
,S#DA#)#4#)56#&89#)/"/!%>#)56#&A/56#/!R
Theo Hồ Chí Minh: “Trước cách mạng tháng Tám và trong kháng chiến, thì
nhiệm vụ tuyên huấn là làm sao cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc. Một
là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản
thế thôi”.
Người chỉ dẫn: “Vận động nông dân là phải vận thế nào cho toàn thể nông
dân động, nghĩa là: làm cho nông dân hiểu quyền lợi của dân tộc và của giới mình;
làm cho nông dân vào Hội Nông dân cứu quốc cho đông, để phấn đấu cho mục đích
của mình và tích cực tham gia công cuộc kháng chiến kiến quốc”
(35)
.
Bởi vậy: “Nông vận là phải:
- Tổ chức nông dân thật chặt chẽ.
- Đoàn kết nông dân thật khăng khít.
- Huấn luyện nông dân thật giác ngộ.
- Lãnh đạo nông dân hăng hái đấu tranh cho lợi ích của nông dân, của Tổ
quốc”
(36)
.
2.1. Tổ chức nông dân thật chặt chẽ
Quần chúng nông dân chỉ có sức mạnh khi được giác ngộ. Nhưng sức mạnh
của nông dân chỉ trở thành hiện thực, thành sức mạnh vật chất khi nông dân được tổ
chức. Khi nông dân có tổ chức thì sức mạnh của họ được nhân lên gấp bội. Giác ngộ
và tổ chức nông dân là những khâu, những nấc thang liên hoàn trong công tác vận
động nông dân của Hồ Chí Minh. Quan điểm này thống nhất và xuyên suốt trong
(
32)
H Chí Minh to n t p, t p 5, Nxb CTQG, H.1995, Tr. 710ồ à ậ ậ
(
33)
H Chí Minh to n t p, t p 5, Nxb CTQG, H.1995, Tr. 1710ồ à ậ ậ
(
34)
H Chí Minh to n t p, t p 7, Nxb CTQG, H.1995, Tr.179ồ à ậ ậ
(
35)
H Chí Minh to n t p, t p 1, Nxb CTQG, H.1995, Tr.711ồ à ậ ậ
(
36)
H Chí Minh to n t p, t p 5, Nxb CTQG, H.1995, Tr.710 ồ à ậ ậ
7
quá trình hoạt động của Hồ Chí Minh.
Trước và sau khi thành lập Đảng, Hồ Chí Minh mở nhiều lớp bồi dưỡng
những thanh niên yêu nước, trong đó có nhiều con em nông dân; người viết tài liệu,
báo, Chỉ thị, truyền đơn để tuyên truyền giác ngộ nông dân và hướng dẫn họ thành
lập các tổ chức tập hợp quần chúng, lúc đầu là những hội cấy, hội cày, hội nhổ mạ,
hội lợp nhà, hội chẻ lạt, hội học chữ quốc ngữ… đến thành lập các Hội Nông dân
cứu quốc trong hệ thống Mặt trận Việt Minh. Trong Mặt trận Việt Minh thì lấy việc
xây dựng liên minh công nông làm gốc, làm hạt nhân để xây dựng khối đoàn kết
toàn dân tộc.
2.2. Đoàn kết nông dân thật khăng khít
Giác ngộ, tổ chức phải đi đến đoàn kết nông dân thật khăng khít. Muốn đoàn
kết được nông dân thì tổ chức của nông dân phải xác định rõ mục tiêu, nội dung của
tổ chức. Năm 1941, về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã xây
dựng tổ chức đoàn kết toàn dân tộc là Mặt trận Việt Minh, trong đó có khối đoàn kết
của giai cấp nông dân liên minh với giai cấp công nhân làm hạt nhân, làm gốc của
khối đoàn kết dân tộc. Mặt trận Việt Minh đã đưa ra mục tiêu, nội dung hoạt động
của mình thông qua 10 chính sách của Việt Minh phổ biến rộng rãi trong dân chúng.
Tổ chức thành viên của Mặt trận Việt Minh là Hội Nông dân cứu quốc ở các cấp
căn cứ vào 10 chính sách của Việt Minh mà đề ra nội dung hoạt động cụ thể của
mình và thực hiện đoàn kết thật khăng khít, biến cương lĩnh của khối đoàn kết toàn
dân tộc thành hiện thực sinh động.
Trước cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh chỉ cho thấy, các Hội Nông dân
cứu quốc phải biết vận động đoàn kết nông dân qua các hoạt động của nông dân
chống Nhật, Pháp giữ gìn trật tự an ninh xóm, làng, bản; tổ chức bà con giúp đỡ
nhau trong sản xuất và đời sống. Khi thời cơ cách mạng chín muồi thì xiết chặt khối
đoàn kết phát động nông dân phá các kho thóc của Nhật cứu nông dân đang chết
đói. Trong kháng chiến kiến quốc, Hồ Chí Minh hướng dẫn các Hội Nông dân phải
biết đoàn kết nông dân thực hiện các phong trào thi đua:
- “Thi đua tăng gia sản xuất để diệt giặc đói.
- Thi đua học chữ quốc ngữ để diệt giặc dốt.
- Thi đua giúp đỡ bộ đội, xây dựng dân quân du kích diệt giặc ngoại xâm”
(38)
.
Như vậy, mục tiêu, nội dung hoạt động của tổ chức nông dân không những đã
đoàn kết chặt chẽ nông dân lại, mà còn đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng thiết thực của
người nông dân.
2.3. Huấn luyện nông dân thật giác ngộ
Với Hồ Chí Minh, tuyên truyền, vận động, huấn luyện nông dân là bước đầu
tiên cực kỳ quan trọng trong quá trình thực hiện công tác vận động nông dân tham
gia cách mạng. Ngay năm 1923, đang hoạt động ở Châu Âu, Hồ Chí Minh đã nói
với bạn bè quốc tế cùng hoạt động ở Pháp: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở
về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ,
(
38)
H Chí Minh to n t p, t p 5, Nxb CTQG, H.1995, Tr.711ồ à ậ ậ
8
đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”
(37)
.
Hồ Chí Minh quan niệm: làm cách mạng dân tộc dân chủ là sự nghiệp của
toàn dân. Chỉ có thể xây dựng được lực lượng cho cuộc cách mạng này trên cơ sở
nhân dân mà chủ yếu là nông dân hiểu rõ cuộc sống của họ, của con cháu họ gắn bó
với quyền độc lập thiêng liêng của dân tộc. Chỉ có dân tộc độc lập thì quyền sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của người nông dân mà trước hết là
“người cày có ruộng” mới thực hiện được. Khi đó người nông dân mới tự giác
tham gia đội quân cách mạng và họ mới có đủ nhận thức và quyết tâm vượt qua mọi
khó khăn, kể cả sự hy sinh tính mạng để đưa cách mạng tới thắng lợi.
Khi về đến Trung Quốc, cũng như lúc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Hồ Chí Minh vẫn thường căn dặn cán bộ rằng: trước khi đưa quần chúng
ra đấu tranh phải tuyên truyền, giáo dục họ một cách tỷ mỷ, chu đáo. Người lưu ý là
không sợ làm việc tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhiều lần.
2.4. Lãnh đạo nông dân hăng hái đấu tranh cho lợi ích của nông dân, của Tổ
quốc
Quá trình tuyên truyền, giáo dục, tổ chức, thực hiện đoàn kết nông dân là quá
trình đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng. Đây là điểm khác biệt căn bản trong tư tưởng,
đường lối cứu nước đem lại tự do, độc lập cho dân tộc, “ruộng đất cho dân cày” của
Hồ Chí Minh so với mọi cuộc vận động cứu nước trước khi có Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng nói chung và đối với giai
cấp nông dân nói riêng là một nguyên tắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Để bảo đảm
nguyên tắc này, Hồ Chí Minh chỉ ra yêu cầu từ cấp vĩ mô, Đảng phải đề ra được
đường lối cách mạng, đường lối với giai cấp nông dân đúng đắn; tổ chức Đảng các
cấp phải cụ thể hóa đường lối của Đảng và đảng viên, cán bộ trong các tổ chức của
nông dân phải đi đầu, tiên phong gương mẫu phấn đấu cho lợi ích của nông dân và
của Tổ quốc. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu: “cán bộ, nông dân phải tránh bệnh chủ
quan, bệnh hình thức, bệnh giấy tờ”. Người yêu cầu: “Cán bộ tỉnh phải đến tận
huyện, các xã; cán bộ huyện phải đến tận các xã, các thôn. Cán bộ phải chân đi,
mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ”. Thực hiện những yêu cầu đó là
nhằm “để thiết thực điều tra, giúp đỡ, kiểm soát, rút kinh nghiệm, trao đổi kinh
nghiệm, giúp đỡ nông dân và học hỏi dân”. Về mặt tổ chức thì “trong các cấp chính
quyền cũng như trong ban lãnh đạo Nông hội, phải có những anh em bần nông, cố
nông tham gia thực sự”
(39)
, tức phải có đại biểu chân chính của giai cấp nông dân.
BS#DA#)#4#)56#&89#)/"/!%>#)TU!A/!R#)!V7
Hồ Chí Minh chỉ rõ: con đường sống của dân tộc, của nông dân Việt Nam là
đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng đấu tranh giành độc lập và đi lên chủ nghĩa xã
hội. Khi giành được độc lập dân tộc thì tiến lên chủ nghĩa xã hội, tự do, hạnh phúc
thật sự không phải tự nhiên mà có. Đó phải là kết quả của một cuộc cách mạng xã
(
37)
H Chí Minh to n t p, t p 1, Nxb CTQG, H.1995, Tr.192ồ à ậ ậ
(
39)
H Chí Minh to n t p, t p 5, Nxb CTQG, H.1995, Tr. 711ồ à ậ ậ
9
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, ở Việt Nam “cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng
một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta”. Đó “là
một cuộc chiến đấu khổng lồ”. “Là cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt và lâu dài, giữa
cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thoái bộ và cái tiến bộ, giữa cái
đang suy tàn và cái đang phát triển”. Bởi vậy, sự nghiệp “xây dựng chủ nghĩa xã
hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn người
bóc lột người. Không còn đói rét, mọi người đều được ấm no và hạnh phúc”. Người
khẳng định: Mục đích của chủ nghĩa xã hội là nhằm “không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”
(40)
, và
“chủ nghĩa xã hội là do quần chúng nhân dân tự mình xây dựng nên”
(41)
.
3.1. Vận động nông dân thực hiện đoàn kết
Mặt trận dân tộc thống nhất là cái vỏ vật chất để đoàn kết các giai cấp, tầng
lớp và cá nhân yêu nước trong suốt con đường cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh
đạo. Chính vì thế, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trong cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn
là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam”. Vì vậy, “chính sách
Mặt trận là một chính sách rất quan trọng, công tác Mặt trận là một công tác rất
quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”
(44)
nhằm đoàn kết toàn dân, đoàn kết
giai cấp nông dân thực hiện thắng lợi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
Hội Nông dân vẫn là tổ chức tuyên truyền, giáo dục, vận động nông dân đoàn
kết chặt chẽ, thực hiện liên minh công nông làm hạt nhân cho khối đoàn kết toàn
dân thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền
Nam thống nhất tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để đáp ứng đòi hỏi
này phải giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận và Hội Nông dân;
phải phát huy cao độ vai trò của Mặt trận và Hội Nông dân và Hội phải gương mẫu
đi đầu thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ, Cương lĩnh của Mặt
trận và mục tiêu của Hội Nông dân đặng mang lại lợi ích cho nông dân, cho thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội.
3.2. Vận động nông dân thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa, đấu tranh
thống nhất nước nhà
Khi đất nước còn tạm thời chia cắt, Hồ Chí Minh chỉ ra: miền Bắc tiến lên chủ
nghĩa xã hội là yếu tố “gốc” cho sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất nước
nhà. Ngày nay, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vận động nông dân thực hiện
cách mạng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa thiết thực vận động nông dân trong sự
nghiệp đổi mới.
3.2.1. Vận động nông dân vào hợp tác xã, phát triển sản xuất
Công tác vận động nông dân cần phải làm cho nông dân nhận thức rõ: xây
(
40)
H Chí Minh to n t p, t p 10, Nxb CTQG, H.1996, Tr. 271ồ à ậ ậ
(
41)
H Chí Minh to n t p, t p 10, Nxb CTQG, H.1996, Tr. 133ồ à ậ ậ
(
44)
H Chí Minh to n t p, t p 10, Nxb CTQG, H.1996, Tr. 605ồ à ậ ậ
10
dựng chủ nghĩa xã hội chính là nhằm không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của
nhân dân, của nông dân. Điều đó được thể hiện trước tiên ở đường lối, chính sách
của Đảng và Chính phủ, người khẳng định “tất cả đường lối, phương pháp, chính
sách… của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân nói chung, của
nông dân nói riêng”
(45)
. Tất cả Đảng, Chính phủ phải lo, nhưng nhân dân, nông dân
phải được giáo dục về nhận thức là để đời sống của mình không ngừng được nâng
cao chỉ có một con đường tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế, văn hóa theo đường
lối của Đảng.
Nông dân muốn phát triển sản xuất, nâng cao đời sống phải đi vào xây dựng
hợp tác xã. Đó là nội dung phải tuyên truyền cho nông dân hiểu. Hồ Chí Minh giải
thích cho nông dân hiểu rằng, kinh nghiệm lịch sử đã chỉ rõ: nông dân phải kinh qua
hai cuộc cách mạng: cải cách ruộng đất là một cuộc, cuộc thứ hai là từ chỗ thực hiện
tổ đổi công, hợp tác xã, nông trường tập thể đến chỗ xã hội hóa nông nghiệp.
Hồ Chí Minh nêu: Hoàn thành cải cách ruộng đất phải đẩy mạnh phong trào
cải tiến kỹ thuật như thủy lợi, phân bón, nông cụ; phải ra sức bảo vệ sản xuất, đề
phòng thiên tai, đề phòng địch phá hoại. “Để làm tốt những việc trên chúng ta phải
động viên lòng hăng hái sản xuất của nhân dân, củng cố và mở rộng phong trào tổ
đổi công”
(46)
. Quan điểm của Hồ Chí Minh vận động nông dân xây dựng tổ đổi công
có kết quả là phải khéo tổ chức theo nguyên tắc tự nguyện, phải khéo lãnh đạo làm
cho các tổ viên ai cũng hăng hái làm việc, ai cũng được hưởng lợi công bằng, phải
có tổ trưởng hay ban quản trị, quản trị phải dân chủ. Phương châm xây dựng tổ đổi
công là lúc đầu cần phát triển cho nhiều tổ đổi công từng vụ, từng việc rồi mới tiến
lên xây dựng tổ đổi công thường xuyên; phương pháp tổ chức tổ đổi công: không
được ham làm mau, ham rầm rộ, mà phải thiết thực; phải đi từ nhỏ đến lớn; phải
thường xuyên rút kinh nghiệm; phải tổ chức thi đua; tổ đổi công phải rất đoàn kết;
và tổ đổi công phải có lãnh đạo tốt.
Xây dựng hợp tác xã, phát triển sản xuất là nhiệm vụ trọng tâm của nông dân
đi lên chủ nghĩa xã hội. Muốn hoàn thành nhiệm vụ đó, theo Hồ Chí Minh: công tác
vận động nông dân trước hết là phải tiến hành cách mạng về tư tưởng trong nông
dân; xây dựng hợp tác xã thì phải đi đúng đường lối giai cấp của Đảng ở nông thôn,
trước hết là dựa hẳn vào bần nông và trung nông lớp dưới, đoàn kết chặt chẽ với
trung nông; giữ vững khối đoàn kết chặt chẽ trong hàng ngũ nông dân lao động như
anh em một nhà; xây dựng hợp tác xã phải tuân thủ nguyên tắc: tự nguyện, tự giác,
dân chủ và cùng có lợi; tổ chức phải từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao.
Xây dựng hợp tác xã phải đi liền với phát triển sản xuất. Vì vậy, công tác vận
động nông dân phải nhằm vào những yếu tố quyết định phát triển sản xuất mà vận
động nông dân tham gia tích cực. Theo Hồ Chí Minh có 8 khâu: Một là, phải có đủ
nước trong canh tác, phải thực hiện toàn dân làm thuỷ lợi; hai là, trong canh tác
phải chú trọng đến phân bón, phải phát triển chăn nuôi; ba là, phải cày sâu, phải cải
tiến công cụ làm đất; bốn là, phải có giống tốt; năm là cấy đều; sáu là, trừ sâu, diệt
(
45)
H Chí Minh to n t p, t p 10, Nxb CTQG, H.1996, Tr. 380 ồ à ậ ậ
(
46)
H Chí Minh to n t p, t p 8, Nxb CTQG, H.1996, Tr.92ồ à ậ ậ
11
chuột; bảy là, phải cải tiến nông cụ; tám là, công tác quản lý tốt. Theo Hồ Chí
Minh, vận động nông dân thực hiện liên hoàn 8 điều trên thì “thóc bông đầy bồ”
tức là sản xuất phát triển, năng suất tăng, đời sống nông dân được nâng cao, hợp tác
xã được củng cố và phát triển, như vậy nông dân đã thiết thực góp phần xây dựng
chủ nghĩa xã hội, đấu tranh thống nhất Tổ quốc.
3.2.2. Vận động nông dân củng cố hợp tác xã, xây dựng nông thôn mới, đời
sống mới
- Vận động nông dân củng cố hợp tác, phát triển sản xuất đi liền với xây dựng
nông thôn mới, con người mới.
+ Xây dựng nông thôn mới, trước hết Hồ Chí Minh chú ý xây dựng chủ thể
của nông thôn - là xây dựng con người mới ở nông thôn. Xây dựng người nông dân
xã hội chủ nghĩa; xây dựng đạo đức xã hội chủ nghĩa đi liền với xây dựng cơ sở
kinh tế xã hội chủ nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, muốn no cơm, ấm áo thì mọi người
phải thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm; nông dân phải cần kiệm xây
dựng hợp tác xã nông nghiệp cho tốt, cho vững. Cụ thể:
Cán bộ, ban quản trị phải công bằng, dân chủ.
Xã viên phải nêu cao tinh thần làm chủ, cần kiệm xây dựng hợp tác xã, thi đua
sản xuất và thực hành tiết kiệm.
+ Vận động xây dựng gia đình mới ở nông thôn.
Gia đình nghĩa hẹp: Là từng gia đình cụ thể (gia đình nhỏ).
Gia đình nghĩa rộng: Là tập thể, là cả nước (gia đình lớn).
Xây dựng gia đình nhỏ: Phải thực hiện nam nữ bình quyền; phải nâng cao
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong đời sống gia đình.
+ Vận động xây dựng nông thôn mới:
Xây dựng sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt, đặc biệt là kinh tế và văn
hóa, xây dựng về văn hóa, về phong tục, về vệ sinh…
+ Vận động xây dựng Đảng ở nông thôn.
“Cái gốc trong việc lãnh đạo hợp tác xã vẫn là chi bộ Đảng cơ sở”
(49)
Cán bộ, đảng viên, đoàn viên phải gương mẫu.
Xây dựng Đảng mạnh ở nông thôn còn là xây dựng và phát huy vai trò của
Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ.
B,BS#DA#)#4#)56#;!"&&8N##4#)#)!$;&9#5$#O&!F/
!$#/4#)#)!$;!@7TU!A/!R#)!V7
- Cần vận động, giải thích cho nông dân hiểu rõ vì sao phải phát triển nông
nghiệp toàn diện; một là, nhằm đáp ứng đời sống của nhân dân, của nông dân ngày
càng tăng; hai là, phát triển nông nghiệp toàn diện là giải pháp quan trọng để phát
triển bản thân nền nông nghiệp Việt Nam; ba là, phát triển nông nghiệp toàn diện sẽ
góp phần thúc đẩy công nghiệp phát triển; bốn là, xuất phát từ đặc điểm tự nhiên
(
49)
H Chí Minh to n t p, t p 10, Nxb CTQG, H.1996, Tr. 415ồ à ậ ậ
12
phong phú, thuận lợi của nước ta.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về một nền nông nghiệp toàn diện là phải phát
triển cả ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp, nghề phụ gia
đình. Nhưng quan niệm phát triển nông nghiệp toàn diện của Hồ Chí Minh không
phải theo lối manh mún, tự cấp, tự túc mà trên cơ sở có quy hoạch của một nền sản
xuất hàng hóa phát triển theo quy mô lớn phù hợp với sự nghiệp công nghiệp hóa.
- Cần vận động nông dân hiểu rõ tính tất yếu của công nghiệp hóa và mối quan
hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp để giai cấp nông dân chủ động tích cực tham
gia công nghiệp hóa.
Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu: “Muốn cho chủ nghĩa cộng sản
thực hiện được cần phải có kỹ nghệ nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát
triển hết khả năng của mình”
(50)
.
Ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp thì công nghiệp hóa là tất
yếu.
Thực hiện công nghiệp hóa từ một nước nông nghiệp lạc hậu thì phải lấy nông
nghiệp làm cơ sở, làm khâu đột phá.
Và công nghiệp hóa thành công thì nước ta mới thực sự giàu có, nông dân mới
phát triển được.
Để nông nghiệp làm cơ sở cho công nghiệp hóa, người nông dân phải: “Cải
tiến kỹ thuật để phát triển nông nghiệp”
(51)
; phải thực hiện biện pháp kỹ thuật liên
hoàn, đó là “guồng máy” của nông nghiệp; quản trị phải dân chủ; chí công vô tư,
đảng viên và đoàn viên thanh niên phải gương mẫu trong mọi việc; xã viên phải
đoàn kết nhất trí, làm đúng nghĩa vụ của người chủ, làm đúng khẩu hiệu “cần kiệm
xây dựng hợp tác xã”.
WIJXYZ
2J[L
!"#$%
Phong cách công tác là lề lối, cung cách, cách thức, phong thái, phong độ và
phẩm cách đã trở thành nề nếp ổn định của một người hoặc của một lớp người, tạo
nên những giá trị, những nét riêng biệt của chủ thể đó.
Phong cách công tác có liên quan chặt chẽ với đạo đức. Cần kiệm, liêm, chính,
chí công, vô tư là những phẩm chất đạo đức cần có ở mỗi con người, nhưng được
thể hiện trong phong cách công tác ở mỗi con người lại có sự khác biệt, rất khác
nhau.
Phong cách công tác có đặc điểm là gắn với truyền thống, tập quán, thói quen
do hoàn cảnh sống của mỗi người quy định.
Nếu những truyền thống tốt đẹp có sức sống bền vững đi vào phong cách công
tác, thì những tập quán, thói quen xấu thường có sức ỳ to lớn, cản trở việc xây dựng
(
50)
H Chí Minh to n t p, t p 4, Nxb CTQG, H.1995, Tr. 272ồ à ậ ậ
(
51)
H Chí Minh to n t p, t p 11, Nxb CTQG, H.1996, Tr. 82ồ à ậ ậ
13
phong cách mới.
Việc xây dựng phong cách công tác mới, mang tính cách mạng và khoa học
phải kết hợp nhận thức lý tính với việc phát huy những truyền thống tốt đẹp và khắc
phục những tập quán, thói quen xấu, vốn thường níu kéo con người trong các hoạt
động hàng ngày để có một phong cách công tác khoa học, chính xác, khẩn trương
thì việc khắc phục thói quen lề mề, luộm thuộm, đại khái là việc hoàn toàn không
đơn giản, dễ dàng.
Phong cách công tác còn có đặc điểm là mang dấu ấn cá nhân rất rõ rệt. Mỗi
cán bộ cần nhận ra “tính trội” của mình để có ứng xử trong công tác cho đúng mực
và cần phải có phương pháp tu dưỡng, rèn luyện, phát huy những mặt ưu điểm, khắc
phục những nhược điểm trong quá trình công tác.
,!\#)]^-/_-/!R]=-OP;!9#)/"/!/4#)&"//R7#)':/"#`AA
4#)56#
- Người cán bộ Hội Nông dân có vai trò to lớn về vận động nông dân trong
tiến trình cách mạng. Để hoàn thành trọng trách đó đòi hỏi cán bộ Hội phải có
phong cách công tác tốt.
- Người cán bộ Hội phải có tác phong quần chúng, sâu sát cơ sở, liên hệ mật
thiết với nông dân.
Hồ Chí Minh dạy: “Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, của Chính
phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân
báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng. Vì vậy, cán bộ là
cái gốc của mọi công việc”. Như vậy, cán bộ Hội Nông dân là gốc trong việc vận
động nông dân. Muốn hoàn thành vị trí “cái gốc” đó đòi hỏi người cán bộ Hội phải
có phong cách công tác:
+ Sâu sát nông dân, tìm hiểu, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của hội viên, nông
dân, quan tâm đến mọi mặt đời sống của họ.
+ Phải tin yêu, tôn trọng, lắng nghe ý kiến và kịp thời tham mưu cho cấp ủy,
chính quyền và tham gia giải quyết những kiến nghị chính đáng của hội viên, nông
dân.
+ Tự mình gương mẫu để xứng đáng với sự tin cậy của quần chúng nhân dân.
Cán bộ Hội phải thực hiện lời nói đi đôi với việc làm.
+ Ra sức tuyên truyền, giáo dục, động viên hội viên, nông dân thực hiện tốt
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tham gia
đóng góp ý kiến với Đảng, Nhà nước trong việc đề ra những chủ trương, chính sách
đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
+ Cán bộ Hội Nông dân phải “từ nơi quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”
chớ lên mặt “quan cách mạng”, “quan nhân dân”…; phải phê phán thói mệnh
lệnh, cửa quyền, cưỡng bức, ức hiếp nông dân, không chịu lắng nghe ý kiến và giải
quyết những kiến nghị của nông dân.
Cán bộ Hội Nông dân các cấp phải thường xuyên đi cơ sở, tiếp xúc với nông
14
dân, nghe nông dân nói. Khi tiếp xúc với nông dân, “muốn dân chúng thành tâm
bày tỏ ý kiến, cán bộ phải thành tâm, phải chịu khó, phải khéo khơi gợi cho họ nói”.
“Muốn như thế thì cán bộ Hội Nông dân phải tránh bệnh chủ quan, bệnh hình thức,
bệnh giấy tờ… Cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc
nghĩ
”(52)
. Phải có thái độ cởi mở, vui vẻ, khiêm tốn với nông dân.
- Cán bộ Hội Nông dân phải có tác phong tập thể, dân chủ. Đặc biệt cán bộ
chủ chốt phải nghiêm túc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có
thể giải quyết mọi khó khăn”. Và “có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động
viên được tất cả mọi lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên”
(53)
; cán bộ
Hội phải thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở theo phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”; phải thực sự cầu thị, thẳng thắn lắng nghe và tôn trọng
ý kiến của mọi người, kể cả ý kiến trái với mình. Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Người
lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm, khuyết điểm của mình, muốn biết công tác của mình
tốt hay xấu, không gì bằng khuyên cán bộ mình mạnh bạo đề ra ý kiến và phê bình.
Như thế chẳng những không phạm gì đến uy tín của người lãnh đạo mà lại tỏ ra
dân chủ thật thà… Nếu cán bộ không nói năng, không đề ý kiến, không phê bình,
thậm chí lại tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu”
(54)
.
- Người cán bộ Hội Nông dân phải có tác phong khoa học.
+ Làm bất cứ việc gì, người cán bộ Hội cũng phải đi sâu, đi sát, điều tra,
nghiên cứu, nắm chắc tình hình cụ thể.
+ Làm việc phải có mục đích rõ ràng, có chương trình, kế hoạch đặt ra phải sát
hợp với thực tiễn công tác Hội và phong trào nông dân.
+ Phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện của cấp dưới, của hội
viên, nông dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “đầy túi quần thông báo, đầy túi áo Chỉ thị mà
công việc vẫn không chạy”.
+ Cán bộ Hội lãnh đạo, chỉ đạo phải cụ thể, kịp thời, thiết thực, có trọng tâm,
trọng điểm.
+ Trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ, cán bộ Hội phải thường xuyên
tiến hành sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm nhằm sớm phát hiện những điển hình,
gương người tốt, việc tốt để phổ biến nhân ra diện rộng và kịp thời khắc phục những
thiếu sót lệch lạc. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Sau mỗi một việc cần phải
rút kinh nghiệm. Kinh nghiệm riêng của từng cán bộ, từng địa phương. Kinh
nghiệm chung tất cả các cán bộ và các địa phương. Kinh nghiệm thất bại, kinh
nghiệm thành công. Rồi tổng kết và phổ biến những kinh nghiệm ấy cho khắp tất cả
cán bộ, tất cả địa phương. Mỗi một cán bộ, mỗi một địa phương sẽ học những kinh
nghiệm hay, tránh những kinh nghiệm dở, áp dụng những kinh nghiệm cũ vào
(
52)
H Chí Minh to n t p, t p 5, Nxb CTQG, H.1995, Tr. 711ồ à ậ ậ
(
53)
H Chí Minh to n t p, t p 12, Nxb CTQG, H.1996, Tr. 249ồ à ậ ậ
(
54)
H Chí Minh to n t p, t p 5, Nxb CTQG, H.1995, Tr. 280ồ à ậ ậ
(
15
những công việc mới
”(55)
.
Xây dựng phong cách công tác khoa học, hiện đại, sâu sát cơ sở, tập thể, dân
chủ… là rất cần thiết đối với cán bộ Hội, nhất là cán bộ chủ chốt, cán bộ lãnh đạo
các cấp Hội nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác Hội hiện nay./.
(
55)
H Chí Minh to n t p, t p 5, Nxb CTQG, H.1995, Tr. 520, 54ồ à ậ ậ
16
Bài 2
YaIY[LL
bcdYeIfg
(Dành cho cán bộ chi, tổ Hội)
Phần 1
YaIY[L
L
h I L Ii [L Ya
IY
!"#$%
“Tuyên truyền là truyền bá, giáo dục, giải thích nhằm chuyển biến và nâng
cao về nhận thức; bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, xây dựng thành niềm tin; thúc
đẩy mọi người hành động một cách tự giác, nhằm thực hiện thắng lợi những mục
tiêu, nhiệm vụ đã đề ra”
(1)
.
Như vậy, khái niệm tuyên truyền có ba nội dung chính sau:
Thứ nhất, truyền bá, giáo dục, giải thích nhằm chuyển biến và nâng cao nhận
thức của đối tượng tuyên truyền.
Thứ hai, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, từ đó xây dựng thành niềm tin cho
đối tượng tuyên truyền.
Thứ ba, những kết quả của hai nội dung trên sẽ thúc đẩy mọi người (đối
tượng tuyên truyền) hành động một cách tự giác, nhằm thực hiện thắng lợi mọi
mục tiêu, nhiệm vụ mà công tác tuyên truyền đặt ra.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói rất dễ hiểu về tuyên truyền: “Tuyên truyền là
đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt
được mục đích đó, là tuyên truyền thất bại”
(2)
.
Công tác tuyên truyền của Hội Nông dân Việt Nam là hoạt động có mục
đích, có kế hoạch nhằm phổ biến, giải thích những chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những nhiệm vụ của Hội, nhiệm vụ
chính trị của địa phương, làm cho cán bộ, hội viên, nông dân hiểu rõ, cổ vũ, động
viên họ tự giác làm theo, nhằm đạt được mục tiêu của công tác Hội đề ra. Đồng
thời, công tác tuyên truyền của Hội còn giáo dục, bồi dưỡng về đạo đức, lối sống,
nếp sống mới, văn minh, tiến bộ; giáo dục cán bộ, hội viên, nông dân về truyền
thống cách mạng của giai cấp nông dân; bồi dưỡng kiến thức khoa học - kỹ thuật
và các kiến thức cần thiết khác cho cán bộ, hội viên, nông dân nhằm xây dựng
thành công người nông dân văn hóa; tham gia xây dựng ấp, khóm, xã văn hóa, góp
phần tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
,j&8+O7&8k/R7/4#)&"/&-]^#&8-]P#
2.1.Vị trí
Công tác tuyên truyền có vị trí rất quan trọng, bởi vì tổ chức Hội muốn đạt
được sự nhất trí, đồng thuận cao trong nhận thức và hành động, thực hiện được các
(
1)
Ban T t ng - v n hóa Trung ng, S tay báo cáo viên 1999-2000, HN, Tr.110-111ư ưở ă ươ ổ
(
2)
H Chí Minh to n t p, T5, NXB Chính tr qu c gia, HN, 1995, Tr.162ồ à ậ ị ố
17
mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ thì phải có sự tự giác của cán bộ, hội viên.
Song, để có điều đó, việc đầu tiên là phải tuyên truyền, giải thích, phổ biến cho
cán bộ, hội viên hiểu rõ, hiểu đúng và đầy đủ về mục tiêu, phương hướng, nhiệm
vụ. Chỉ như vậy, họ mới có thể nhận thức đúng, hành động đúng và đạt hiệu quả
cao.
2.2. Vai trò
Công tác tuyên truyền của Hội Nông dân Việt Nam có vai trò rất to lớn và
quan trọng trong việc hình thành và phát triển thế giới quan khoa học, nhân sinh
quan cách mạng, nhằm xây dựng, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, tri thức, đạo đức
cách mạng, văn hóa dân tộc cho cán bộ, hội viên, nông dân, góp phần đắc lực vào
việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý
này: dân ta rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hi
sinh mấy họ cũng không sợ. Nhưng trước hết cần phải chịu khó tìm đủ cách giải
thích cho họ hiểu rằng: những việc đó là vì lợi ích của họ mà phải làm”
(3)
.
W[LYaIY
-]^#&8-]P#OP/!R&8'l#)D':#)H./R7?#)/!+#!m"/!;!";
H-S&/R7!#'n/#!$%Oo/!+#!&8j/R7Dj7;!'l#)O#!$%Oo/R7A
Công tác tuyên truyền ở cơ sở làm nhiệm vụ phổ biến, giải thích cho cán bộ,
hội viên, nông dân hiểu rõ về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, nhất là các chủ trương, chính sách, pháp luật liên quan trực tiếp
đến nông dân, nông nghiệp, nông thôn; về các chủ trương công tác của cấp uỷ
Đảng, chính quyền địa phương và nhiệm vụ của Hội để hội viên, nông dân hiểu
đúng và tự giác thực hiện có hiệu quả. Đồng thời, công tác tuyên truyền cần phổ
biến, giải thích để nông dân hiểu rõ về tổ chức Hội, để họ tự nguyện xin vào Hội,
tự giác tham gia sinh hoạt và tích cực tham gia các phong trào Hội.
,-]^#&8-]P#/pOq!AO^##4#)56#&!F/!$##!$%Oo;!"&&8N#
<#!&=rTU!A(Dj7;!'l#)
Công tác tuyên truyền ở cơ sở Hội cần tổ chức phổ biến các chương trình, kế
hoạch thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, của Hội các cấp; phát động
phong trào nông dân thi đua thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng nông thôn mới; vận động hội viên, nông dân phát triển sản xuất, ổn định
cuộc sống, tích cực tham gia phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh
giỏi, xoá đói, giảm nghèo và làm giàu chính đáng; bảo vệ môi trường, tham gia
xây dựng các tuyến đường giao thông nông thôn Cán bộ cơ sở Hội cần phải phổ
biến, giải thích cho hội viên, nông dân hiểu rõ ý nghĩa những việc họ phải làm và
tạo điều kiện cho họ tham gia bàn bạc, kiểm tra, giám sát. Đặc biệt, cán bộ Hội
phải là người gương mẫu, tự giác thực hiện và cổ vũ, động viên mọi người cùng
thực hiện.
B-]^#&8-]P#)"95o/#6#)/79&8C#!DA56#&8+<!97!s/<t&!-S&
/4#)#)!$O<=#&!u/v-?#Hw<#!&=/!9!AO^##4#)56#
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới kinh tế và hội nhập kinh tế thế
(
3)
H Chí Minh to n t p, T5, NXB Chính tr qu c gia, HN, 1995, Tr.246ồ à ậ ị ố
18
giới, việc nâng cao dân trí, tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại, trình
độ quản lý tiên tiến đã trở thành một nhu cầu tất yếu, cấp bách. Tùy điều kiện
từng địa phương cần tuyên truyền, hướng dẫn hội viên, nông dân thực hiện
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong
trồng trọt, chăn nuôi nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao.
E-]^#&8-]P#)"95o/!AO^##4#)56#;!"&!-]&8-]P#&!.#)/"/!
%>#)/R756#&A//R7?#)/R7)7/G;#4#)56#OA4#)56#$&
7%
Giáo dục, khơi dậy và phát huy truyền thống cách mạng của dân tộc, của
Đảng, của giai cấp nông dân và Hội Nông dân là một nội dung rất quan trọng
trong công tác tuyên truyền của Hội Nông dân Việt Nam. Đó là lòng yêu nước
nồng nàn, tinh thần cách mạng kiên cường, lòng tự tôn, ý chí tự cường dân tộc; là
đức tính cần cù lao động, tinh thần đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Do
vậy, cán bộ Hội cần tuyên truyền cho hội viên, nông dân hiểu rõ, đầy đủ về những
truyền thống tốt đẹp đó để họ gìn giữ, phát huy. Đồng thời, cần khơi dậy ở cán bộ,
hội viên, nông dân lòng biết ơn, quý trọng những người có công với dân, với nước,
ý thức hướng về cội nguồn. Đặc biệt, là tưởng nhớ công ơn đối với các anh hùng,
liệt sỹ, các thương, bệnh binh, các gia đình có công với cách mạng; đấu tranh
chống những biểu hiện của đạo đức, lối sống xấu xa, lạc hậu, các tệ nạn xã hội như
mại dâm, ma tuý, mê tín dị đoan góp phần tích cực vào việc xây dựng người
nông dân văn hóa phát triển toàn diện, hài hoà, có thể lực và bản lĩnh vững vàng;
tích cực tham gia xây dựng thôn mới.
x-]^#&8-]P#/!9!AO^##4#)56#!N-8y6%%'-&!RD9>#“z#
`=#!k7`C#!”/R7/"/&!=HF/&!{Dj/!
Hiện nay, các thế lực thù địch đang tìm mọi cách phá hoại công cuộc đổi mới
do Đảng ta khởi xướng, nhất là ra sức lôi kéo, kích động đồng bào dân tộc thiểu
số, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số có đạo theo chúng để chống phá cách
mạng. Một mặt, chúng xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Mặt khác, chúng tiến hành bôi nhọ, nói xấu chế độ, các
đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, làm
cho hội viên, nông dân giảm lòng tin vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì
vậy, cán bộ cơ sở Hội phải nắm chắc tình hình hoạt động của kẻ xấu, kịp thời
tuyên truyền, giải thích cho hội viên, nông dân hiểu rõ để họ không nghe, không
tin, không theo và đấu tranh chống lại chúng.
|}2~22YaIY
Hình thức, phương pháp tuyên truyền đóng vai trò quyết định kết quả, hiệu
quả công tác tuyên truyền của Hội. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện cụ thể từng nơi,
từng việc, từng đối tượng mà vận dụng các hình thức, phương pháp tuyên truyền
cho phù hợp.
C#!&!u/&-]^#&8-]P#
Công tác tuyên truyền của Hội Nông dân Việt Nam có nhiều hình thức phong
phú. Mỗi hình thức tuyên truyền đều có vai trò, tác dụng riêng.
1.1. Tuyên truyền miệng
19
“Tuyên truyền miệng là một hình thức đặc biệt của tuyên truyền mà
phương thức chủ yếu được tiến hành thông qua sự giao tiếp bằng lời nói trực
tiếp giữa người nói (nhà tuyên truyền) với người nghe (đối tượng tuyên truyền)
mà không có sự ngăn cách nào, nhằm nâng cao nhận thức, củng cố và xây
dựng niềm tin, cổ vũ mọi người suy nghĩ và hành động theo những yêu cầu cụ
thể của nhiệm vụ tuyên truyền đặt ra”
(4)
.
Như vậy, thực chất của tuyên truyền miệng là hình thức tuyên truyền trực
tiếp bằng lời nói để thuyết phục người nghe, nhằm nâng cao nhận thức, củng cố
niềm tin và tổ chức họ hành động theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương công tác của Hội. Hình thức
này thường được sử dụng trong các bài giảng, báo cáo, bài thuyết trình, trong các
buổi kể chuyện, nói chuyện thời sự, qua các buổi trao đổi, tọa đàm, tranh luận,
hỏi đáp, trong sinh hoạt của chi hội, tổ hội hoặc đến nói chuyện, trao đổi với
từng gia đình, từng người, qua đó, cán bộ Hội được trực tiếp nghe hội viên, nông
dân trao đổi lại. Vì thế, hình thức tuyên truyền này có tính dân chủ nhất, dễ thực
hiện nhất và cũng là hình thức tuyên truyền rẻ nhất, hiệu quả nhất.
1.2. Hình thức tuyên truyền thông qua sinh hoạt chi hội, tổ hội, qua các câu
lạc bộ
Hình thức tuyên truyền này được tiến hành theo sinh hoạt định kỳ hoặc theo
sinh hoạt chuyên đề, đột xuất. Thông qua hình thức tuyên truyền này, kết hợp với
hình thức tuyên truyền miệng, công tác tuyên truyền của Hội đã trực tiếp đến cán
bộ, hội viên, nông dân, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội
nói chung, của công tác tuyên truyền nói riêng.
1.3. Hình thức tuyên truyền thông qua sử dụng hệ thống thông tin đại
chúng
Qua hệ thống truyền thông của Đảng, Nhà nước như: báo, đài phát thanh,
truyền hình của Trung ương và của địa phương; qua báo, tạp chí, thông tin công
tác hội của Hội, qua hệ thống loa đài truyền thanh công cộng
Hình thức tuyên truyền này là một trong những hình thức tuyên truyền có
tính định hướng rất cao, nhất là qua các bài báo, phóng sự, chuyên đề … về các
gương cá nhân, tập thể điển hình ở địa phương, cơ sở… nên hình thức tuyên
truyền này có ảnh hưởng sâu rộng, dễ tác động đến cán bộ, hội viên, nông dân,
có tác dụng khích lệ họ học tập, làm theo.
1.4. Hình thức tuyên truyền thông qua thư viện, sách báo, tranh ảnh, nhà
văn hóa, câu lạc bộ với nhiều hình thức trực quan như khẩu hiệu, panô, áp
phích, tờ rơi
Khi sử dụng hình thức tuyên truyền này, cần chú ý lựa chọn các biểu tượng,
hình tượng, hình ảnh, biểu trưng… có tính cụ thể, dễ hiểu, gần gũi với đời sống
của cán bộ, hội viên, nông dân. Khi đó công tác tuyên truyền sẽ lôi cuốn được
đông đảo quần chúng và sẽ đạt được hiệu quả cao.
1.5. Hình thức tuyên truyền thông qua các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
thao, lễ hội truyền thống…
(
4)
Giáo trình tri t h c qu c gia, NXB Chính tr qu c gia, HN, 1999, Tr.378ế ọ ố ị ố
20
Đây là một hình thức tuyên truyền có bề rộng, dễ áp dụng nên cán bộ cơ sở
Hội cần triệt để vận dụng hình thức tuyên truyền này, vì nếu được chuẩn bị kỹ,
tiến hành thận trọng, khoa học thì hình thức này rất dễ tạo không khí phấn khởi
trong quần chúng, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, qua đó công tác
tuyên truyền sẽ đạt hiệu quả cao.
1.6. Hình thức tuyên truyền thông qua tham quan thực tế, qua tuyên truyền
gương người tốt và việc tốt
Thông qua tổ chức đi tham quan, học tập những điển hình, mô hình; hướng
dẫn, khuyến khích, động viên cán bộ, hội viên, nông dân học tập, làm theo, qua đó
góp phần thúc đẩy phong trào thi đua của Hội phát triển. Do vậy, trong quá trình
công tác, các cấp Hội cần sớm phát hiện, nhân rộng mô hình, điển hình tiên tiến,
những nhân tố mới để tuyên truyền, giáo dục hội viên, nông dân.
,2!'l#);!";&-]^#&8-]P#
Công tác tuyên truyền của Hội Nông dân Việt Nam thường sử dụng ba
phương pháp cơ bản sau đây:
2.1. Phương pháp thuyết phục
Là phương pháp dùng lý lẽ, các luận cứ, luận chứng để hình thành ở mỗi cán
bộ, hội viên, nông dân một lập trường mới, có thể thay đổi quan điểm hoặc hành vi
của họ về một vấn đề nào đó.
Đây là phương pháp quan trọng nhất của hoạt động tuyên truyền. Phương
pháp này có thể thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp, có thể tiến hành tuyên truyền cá
biệt, tuyên truyền trước đám đông, tuyên truyền cho nhóm. Phương pháp này có
tác dụng rất to lớn, ảnh hưởng trực tiếp, mạnh mẽ đến hiệu quả tuyên truyền bởi
thuyết phục tốt sẽ làm cho cán bộ, hội viên, nông dân tự giác, phấn khởi tin theo
và hành động tự giác, đạt được hiệu quả cao.
2.2. Phương pháp nêu gương
Là phương pháp sử dụng những sự việc, hiện tượng điển hình trong đời sống
thực tế ở ngay địa phương, cơ sở, ở địa bàn cụ thể, đưa ra các kiểu hành vi, lối
sống để tác động đến cán bộ, hội viên, nông dân, giúp họ hình thành những hành
vi, lối sống phù hợp theo gương điển hình.
2.3. Phương pháp ám thị
Là phương pháp tác động tâm lý từ cán bộ tuyên truyền đến từng cá nhân và
nhóm cán bộ, hội viên, nông dân với mục đích là làm cho họ tự giác tiếp thu một
cách không phê phán những lời lẽ, hình ảnh mà trong đó chứa đựng các tư tưởng,
ý chí cần truyền đạt của người cán bộ tuyên truyền.
Phương pháp này thường được sử dụng trong các hình thức tuyên truyền, cổ
động có sử dụng các hình vẽ, tranh ảnh, pa nô, áp phích, quảng cáo… ám thị là
ngầm chỉ bảo cho biết, nên khi áp dụng phương pháp này, cán bộ tuyên truyền cần
chú ý sử dụng những hình ảnh, biểu tượng, biểu trưng tạo ra ấn tượng mạnh để
quần chúng dễ nhớ, dễ hiểu. Song, cần tránh các hình ảnh, biểu tượng có tính kích
động, rùng rợn thái quá, nhất là cần tránh các hình ảnh, biểu tượng thiếu văn hóa,
trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc.
122LJ0•€Ya IY
21
X6]5F#)DA#)q/"#`AH%/4#)&"/&-]^#&8-]P#(/lm(A
Cơ sở Hội cần xây dựng lực lượng làm công tác truyên truyền gồm: Các ủy
viên Ban Chấp hành Hội Nông dân cơ sở, cán bộ chi hội, tổ hội. Vì vậy, cán bộ chi
hội, tổ hội phải không ngừng học tập nâng cao trình độ hiểu biết về chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của
địa phương và nhiệm vụ công tác Hội để thực hiện tốt công tác tuyên truyền. Đồng
thời, cần làm tốt công tác tham mưu, đề xuất với cấp ủy Đảng, chính quyền, phối
hợp tốt với các đoàn thể, cán bộ khoa học - kỹ thuật, đội ngũ giáo viên, cán bộ, bộ
đội hưu trí. Đây là lực lượng có trình độ, kinh nghiệm và có khả năng làm công tác
tuyên truyền.
- Củng cố, phát huy hiệu quả hoạt động của các đội văn nghệ quần chúng,
lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên.
- Cần có chế độ động viên kịp thời về tinh thần và vật chất đối với lực lượng
làm công tác tuyên truyền của Hội; tạo điều kiện để cán bộ làm công tác tuyên
truyền được học tập, nâng cao trình độ, nghiệp vụ.
2. Xây dựng nội dung chương trình, kế hoạch cụ thể cho công tác tuyên
truyền ở cơ sở Hội
Công tác tuyên truyền ở cơ sở Hội có nhiều nội dung, nên không thể thực
hiện được tất cả các nội dung cùng một lúc. Do vậy, cán bộ cơ sở Hội cần xây
dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để tuyên truyền trong từng tháng, từng quí, 6
tháng, năm. Song, tuỳ theo mức độ cấp thiết, tuỳ điều kiện, thời gian cụ thể để lựa
chọn nội dung tuyên truyền phù hợp và thiết thực.
Khi xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể cho công tác tuyên truyền ở cơ
sở Hội cần căn cứ vào 3 nội dung:
- Hướng dẫn công tác của Hội cấp trên, cấp ủy, chính quyền địa phương.
- Tình hình, nhiệm vụ chính trị của địa phương, của Hội các cấp, nhất là của
cơ sở Hội để xác định nội dung, nhiệm vụ tuyên truyền cho phù hợp với không
gian, thời gian cụ thể. Đồng thời, qua đó sẽ lựa chọn hình thức, phương pháp
tuyên truyền thích hợp, hiệu quả.
- Tâm tư, tình cảm, nguyện vọng chính đáng, những vấn đề bức xúc của cán
bộ, hội viên, nông dân để xác định hình thức, phương pháp tiến hành tuyên truyền.
B!RDA#);!.!•;On/"/`7##)#!D9#&!N(/lm(
Hiện nay, trên địa bàn ấp, khóm, thị trấn có nhiều tổ chức, đoàn thể hoạt
động. Tuy chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động tuyên truyền của mỗi tổ
chức, đoàn thể có khác nhau, nhưng đều có chung mục đích nhằm tác động đến tư
tưởng, tình cảm của nông dân. Vì vậy, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, của Hội
cấp trên, cơ sở Hội cần chủ động phối hợp với các ban ngành, đoàn thể ở địa
phương làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục hội viên, nông dân.
E_-&'/lm(OS&/!G&<t&!-S&/!9/4#)&"/&-]^#&8-]P#(/lm(A
- Trước hết, cần sử dụng triệt để các cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện sẵn
có của địa phương, như: hệ thống loa phát thanh, sân thể thao, câu lạc bộ, Trung
tâm văn hóa, thư viện, điểm bưu điện văn hóa xã.
- Đề xuất, kiến nghị với cấp uỷ Đảng, chính quyền, Hội Nông dân cấp trên
22
dành kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho công tác tuyên truyền.
Phần 2
bcdYeIfg
‚ƒdYeIfg
!"#$%
Diễn thuyết trước công chúng là cách thức (nghệ thuật) trình bày một vấn đề
trước một nhóm người, hay đám đông nhằm truyền tải thông tin, hoặc thông điệp
làm cho người nghe hiểu, tin tưởng, bị thuyết phục và có thể thay đổi hành vi theo
định hướng của diễn giả.
,M/DN%
Diễn thuyết trước công chúng là nghệ thuật nói chuyện với một nhóm người
theo một phương cách được chuẩn bị kỹ nhằm cung cấp thông tin để hô hào, lôi
kéo công chúng đi đến hành động.
Diễn thuyết cũng giống bất kì hình thức truyền thông nào khác, có các yếu tố
cơ bản thường được biểu thị như: ai đang nói điều gì với ai; đang sử dụng phương
tiện nào và kết quả mong muốn đạt được là gì?
Diễn thuyết trước công chúng khác bài diễn văn hay buổi nói chuyện đơn
thuần vì tính hùng biện, thuyết phục của nó cao hơn.
Ya „ … 1 1J d Ye
Ifg
•%/!95z!N-
Khi diễn thuyết, muốn cho công chúng lắng nghe và tin tưởng thì điều quan
trọng hàng đầu là họ phải hiểu những gì mà người diễn thuyết nói. Do vậy, cần
đảm bảo những điều dưới đây:
- Sử dụng ngôn ngữ đơn giản, mạch lạc
- Kết cấu bài diễn thuyết lôgíc, chặt chẽ
- Trình bày ngắn gọn, rõ ràng, cô đọng, không giải thích dài dòng; không
nhắc đi nhắc lại nhiều lần; không độc thoại lan man nhưng phải tránh cộc lốc.
,†H_#5z#&!-]=&<!4#)v-",‡;!ˆ&
Khả năng tập trung nghe của con người có giới hạn. Nghiên cứu khoa học
cho thấy khả năng tập trung nghe của con người giảm dần sau khoảng 20 phút.
Nếu diễn thuyết dài quá và liên tục thì người nghe sẽ không tập trung.
B>9<!4#)<!+O-O‰&+/!/F/&!9?%"
Để tạo được bầu không khí tích cực, vui vẻ, cần kết hợp các phương pháp,
nhất là những phương pháp làm việc nhóm, trao đổi, cùng tranh luận Đồng thời,
có thể xen vào những câu chuyện hài, dí dỏm song phải hướng vào chủ đề. (Tuyệt
đối tránh kể chuyện tiếu lâm chỉ nhằm mục đích gây cười).
EA&m.v-7##$%m7H_%<!5z#&!-]=&
- Mọi người luôn lắng nghe khi bạn nói.
- Nói càng to thì người nghe càng dễ nắm thông tin, càng hiểu bài.
- Sẽ là đúng khi người nghe nói rằng: “Tôi đang chăm chú lắng nghe”.
- Sẽ là đúng khi người nghe nói rằng: “Tôi đã hiểu”.
bc dYeIfg
23
!-Š#`j&8'n/<!5z#&!-]=&
1.1. Xác định đối tượng công chúng
Người diễn thuyết cần phải nắm vững đối tượng công chúng (người nghe) về
các mặt như: số lượng tham dự; độ tuổi; trình độ học vấn, chuyên môn; địa vị xã
hội; kinh nghiệm sống; thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo; cơ cấu giới tính
Việc nắm vững đối tượng còn đòi hỏi nhà diễn thuyết phải biết rõ công
chúng kỳ vọng gì ở mình để tìm cách đáp ứng những kỳ vọng đó.
Việc xác định đúng và nắm vững đối tượng giúp cho nhà diễn thuyết xác
định được tâm thế, chủ động trong việc xác định mục tiêu và nội dung của bài diễn
thuyết; đồng thời chủ động trong việc lựa chọn phương pháp và phương tiện để
trực quan hoá cho phù hợp với đối tượng.
1.2. Xác định thời gian diễn thuyết
Trước khi tiến hành diễn thuyết cần nắm được tổng lượng thời gian diễn
thuyết để phân bố thời gian thích hợp cho từng nội dung trình bày một cách chi tiết
nhằm tránh tình trạng “cháy giáo án”.
1.3. Xác định mục tiêu và nội dung bài diễn thuyết
Mục tiêu bài diễn thuyết là kết quả mà người nghe cần thu nhận được sau
buổi diễn thuyết.
Mỗi đối tượng có khả năng nhận thức khác nhau. Vì vậy, khi xác định mục
tiêu bài diễn thuyết, cần phải nắm vững đối tượng người nghe để xác định mục
tiêu và nội dung cho phù hợp. Điều này giúp cho diễn giả chủ động trong việc xác
định phương hướng và những nội dung trọng tâm của bài diễn thuyết để chủ động
phân bố thời gian cho từng nội dung để buổi diễn thuyết đạt hiệu quả.
Sau khi kết thúc bài diễn thuyết, người nghe phải nắm được ba yêu cầu sau:
+ Lượng tri thức cơ bản liên quan đến chủ đề trình bày.
+ Kỹ năng ứng dụng tri thức đó vào thực tiễn cuộc sống.
+ Tạo niềm tin và sự ham muốn ứng dụng những tri thức thu được vào thực
tế cuộc sống.
1.4. Lựa chọn phương pháp diễn thuyết phù hợp
Nếu chỉ sử dụng phương pháp thuyết trình, độc thoại một chiều mang tính áp
đặt thì người nghe sẽ rất mệt mỏi, thiếu tập trung vì phải luôn ở thế bị động trong
một thời gian dài. Như vậy, những nỗ lực của nhà diễn thuyết trở nên vô ích.
Mặt khác, nếu chỉ thuyết trình một chiều và trong suốt cả buổi, bản thân
người diễn thuyết cũng rất mệt mỏi do phải hao tổn năng lượng và sức lực lớn, qua
đó cũng không đánh giá được mức độ tiếp thu thông tin, trình độ nhận thức và cảm
xúc của người nghe do không nhận được sự phản hồi từ phía người nghe. Thậm
chí, nhiều trường hợp, người diễn thuyết lại trình bày những gì mà người nghe đã
biết.
Do vậy, để diễn thuyết thành công, ngoài phương pháp thuyết trình, người
diễn thuyết phải biết kết hợp các phương pháp như‹đặt câu hỏi, cùng trao đổi, xử
lý tình huống . . . để buổi diễn thuyết mang lại hiệu quả cao.
1.5. Trực quan hoá phù hợp
Ưu điểm của trực quan hóa là làm cho người nghe dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tiếp
24
thu, từ đó gây được ấn tượng tốt và thu hút được sự chú ý tập trung của công
chúng; đồng thời, góp phần quan trọng trong việc định hướng công chúng vào nội
dung cần trình bày.
Có rất nhiều hình thức và phương tiện khác nhau để hỗ trợ cho việc trực
quan hoá, ví dụ thông qua các hình vẽ, sơ đồ, biểu bảng, video ; bằng các loại
bảng, giấy, thẻ, bút màu, các phương tiện hiện đại như máy chiếu hắt, projector
v.v
Tuy nhiên, nếu thiếu kỹ năng trực quan hoá và lạm dụng phương tiện, hay sử
dụng phương tiện không phù hợp với nội dung bài diễn thuyết và đối tượng người
nghe sẽ dẫn đến phản tác dụng.
1.6. Xây dựng cấu trúc bài diễn thuyết
Thông thường, một bài diễn thuyết có kết cấu gồm 3 phần chính: mở đầu, nội
dung và kết thúc.
- Phần mở đầu để tạo được ấn tượng tốt ngay từ đầu đối với công chúng cần
mở đầu bằng một câu chuyện, đặt câu hỏi xoay quanh đề tài; tự giới thiệu sơ nét
về bản thân tạo không khí thoải mái, gần gủi.
- Phần nội dung phải được trình bày một cách chi tiết giữa những phần quan
trọng, chủ yếu, với những phần thứ yếu. Sau mỗi phần đều cần chốt lại ý chính để
người nghe dễ nhớ.
- Phần kết thúc: Chốt lại những nội dung cơ bản cần ghi nhớ và đưa ra lời
kêu gọi với người nghe.
1.7. Lập kế hoạch bài diễn thuyết
Sau khi đã xác định được đối tượng, thời gian, mục tiêu, nội dung diễn
thuyết, cần lập kế hoạch bài diễn thuyết một cách khoa học để giúp cho người diễn
thuyết có thể chủ động, linh hoạt và tự tin trong việc cân đối sắp xếp hợp lý và
đảm bảo tính lôgíc của bài diễn thuyết.
Một kế hoạch bài diễn thuyết khoa học là phải đảm bảo sự kết hợp hài hoà
giữa nội dung, phương pháp, phương tiện, thời gian phân bố cho từng phần và nó
được chia ra làm 4 cột theo mẫu dưới đây:
A5-#) 2!'l#);!"; 2!'l#)&$# !:)7#
rNội dung 1 Hỏi đáp Mic 15’
- Nội dung 2 Thuyết trình Mic + projector 20’
,!F/!$#`-p5z#&!-]=&
2.1. Mở đầu bài diễn thuyết
Một sự mở đầu tốt đẹp, hấp dẫn sẽ phá tan được sự lo lắng, e ngại, thăm
dò của công chúng đối với người diễn thuyết; đồng thời tạo ra được bầu không
khí tích cực, tin cậy, hợp tác giữa người nói và người nghe. Đây là điều kiện rất
quan trọng tạo nên sự thành công của buổi diễn thuyết.
Mở đầu nên giới thiệu một cách khái quát những nội dung chính sẽ đề cập.
Sau đó trình bày theo đúng trình tự nội dung. Vậy phải làm gì khi mở đầu? Có
rất nhiều cách để mở đầu, ví dụ có thể có các cách sau:
+ Tự giới thiệu về bản thân và năng lực của người diễn thuyết. Song với
cách này phải làm rất khéo léo và lựa chọn ngôn từ thể hiện sự khiêm tốn.
25