Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.52 KB, 11 trang )

Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao
Bá Quát
Cao Bá Quát tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, Mãn
Hiên, người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh
(nay thuộc quận Long Biên, Hà Nội). Là người nổi tiếng
học giỏi, có tài văn thơ và viết chữ Hán rất đẹp nên Cao
Bá Quát được người đời tôn vinh là thánh (Thần Siêu,
thánh Quát). Khí phách, bản lĩnh và hoài bão lớn lao của
ông vượt khỏi khuôn khổ chật hẹp của chế độ phong
kiến.
Cao Bá Quát sống ở giai đoạn nửa đầu thế kĩ XIX, khi
nhà Nguyễn đã tiêu diệt Tây Sơn, thiết lập một chính
quyền phong kiến chuyên chế hà khắc, sưu cao thuế
nặng, không coi trọng tầng lớp trí thức Bắc Hà. Đây là
thời kì có nhiều cuộc nổi dậy của nông dân;trong đó có
cuộc khởi nghĩa ở Sơn Tây mà Cao Bá Quát đã tham gia.
Thơ văn của ông thể hiện thái độ phê phán mạnh mẽ chế
độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và phản ánh nhu cầu đổi
mới của xã hội Việt Nam trước nguy cơ bị xâm lược bởi
thế lực thực dân phương Tây. Có người cho rằng hình
tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người
tử tù của Nguyễn Tuân chính là bóng dáng của Cao Bá
Quát.
Bài ca ngắn đi trên bãi cát được sáng tác sau những lần
Cao Bá Quát vào kinh đô Huế thi hội. Hình ảnh những
bãi cát trắng chạy dọc các tỉnh miền Trung khiến tác giả
liên tưởng và hình dung ra con đường danh lợi nhọc nhằn
đáng ghét mà ông buộc phải theo đuổi, cũng như sự ngột
ngạt, bế tắc của xã hội đương thời. Một giả định khác là
bài thơ ra đời khi Cao Bá Quát đã làm quan cho triều
đình nhà Nguyễn, bắt đầu cảm thấy thất vọng về lí tưởng


mà mình theo đuổi bấy lâu nay và âm thầm tìm kiếm một
lí tưởng khác đúng đắn hơn.
Nội dung bài thơ phản ánh tình cảnh tù túng, không lối
thoát của tầng lớp trí thức trong thời kì khủng hoảng của
chế độ phong kiến. Đồng thời thể hiện niềm bi phẫn
trước thực trạng xã hội, thái độ khinh bi phường danh lợi
và khát khao của những kẻ sĩ chân chính muốn sống một
cuộc sống thực sự có ý nghĩa.
Chủ đề bài thơ được tác giả thể hiện qua ba hình ảnh: bãi
cát dài, con đường đi trên bãi cát và người đi trên bãi cát.
Bài thơ vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh bãi cát dài
mênh mông không có điểm dừng, gợi ra một con đường
bất tận, mờ mịt: Bãi cát lại bãi cát dài; … Bãi cát dài, bãi
cát dài ơi. Hình ảnh bãi cát dài có ý nghĩa nghệ thuật độc
đáo vì nó mang tính sáng tạo, không vay mượn từ văn
học Trung Quốc như nhiều hình tượng thơ khác mà được
lấy từ hiện thực là những cồn cát trẳng hoang vu, rợn
ngợp mà tác giả đã từng vượt qua nhiều lần trên con
đường vào kinh ứng thí. Dải đất miền Trung, đặc biệt là
hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị bề ngang rất hẹp, phía
Tây là dãy Trường Sơn, phía Đông là biển. Trước mắt
người đi chi thấy cát, núi và sóng biển mà thôi.
Cùng với hình ảnh bãi cát dài là hình ảnh những con
đường: Đường bằng mờ mịt, Đường ghê sợ, đường cùng.
Hai câu thơ: Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng, Phía nam
núi Nam, sóng dào dạt vừa là hình ảnh thực, vừa mang ý
nghĩa tượng trưng cho đường đời đầy gian nan, thử
thách.
Tác giả cảm nhận rằng con đường vượt bãi cát dài có
những nét tương đồng với con đường công danh khoa cử

nhọc nhằn, thất bại thì nhiều, thành công thì ít, nhưng đã
lỡ bước vào nên không biết tính sao đây?
Bản thân Cao Bá Quát đã nếm trải đủ mùi cay đắng của
việc thi cử. Đi thi từ năm 13 tuổi (1822), đến lần thứ tư
(1831) mới đậu cử nhân, lại bị đánh tụt xuống tận chót
bảng. Sau đó ông còn lận đận thêm ba lần thi Hội nữa mà
vẫn không đỗ. Ngay khi bước chân lên con đường danh
lợi gắn với lí tưởng của tầng lớp Nho sĩ trong xã hội
phong kiến, nhà thơ đã nhận thấy sự bế tắc và mâu thuẫn
không giải quyết nổi. Nên đi tiếp hay dừng lại ? Dừng lại
cũng không thể được. Còn đi tiếp thì không biết sẽ dẫn
đến đâu ?
Hình ảnh con người đì trên bãi cát dài thật nhỏ bé và vất
vả;
Đi một bước như lùi một bước.
Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mất rơi.
Người đi đường có nhiều loại, mỗi loại mang một tâm
trạng khác nhau. Vô số kẻ say vì men thơm quán rượu
thoảng từ đầu gió. Phải chăng hơi men thơm tượng trưng
cho sự lôi cuốn, dẫn dụ ghê gớm của công danh?! Trước
ma lực ấy, liệu mấy người còn giữ được sự tỉnh táo, sáng
suốt?!
Không học được tiên ồng phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vồ số, tĩnh bao người ?
Câu thơ thấm đẫm cảm xúc tự oán. Nhà thơ chán nản vì

nhận ra rằng mình đã tự hành hạ thân xác bằng cách theo
đuổi công danh. Tại sao mình đã biết con đường công
danh là gian nan, mờ mịt, là đường cùng mà vẫn phải cố
từng bước, từng bước dấn thân, nhưng càng đi lại càng
như thụt lùi. Theo điển tích về “phép ngủ” của tiên ông
trong sách Thần tiên thập dị thì Hạ Hầu Ấn lúc leo núi
hay lội nước vẫn cứ nhắm mắt ngủ say. Người bên cạnh
nghe thấy tiếng ngáy mà ông vẫn bước đều không hề
trượt vấp. Vì thế nên thiên hạ mới gọi ông là tiên ngủ.
Cao Bá Quát ước ao có được phép ngũ như tiên ông,
sống mà không nhìn thấy, nghe thấy gì hết trong cuộc
đời.
Những câu thơ tiếp theo phần nào giải thích lí do vì sao
người ta cứ phải trèo non, lội suối. Đó chính là do cái bả
công danh cám dỗ. Những kẻ ham danh lợi xưa nay đều
tất tả chạy ngược chạy xuôi, cũng giống như người đời
thấy quán rượu ngon ở đâu là tranh nhau đổ xô đến, mấy
ai tỉnh táo để thoát khỏi sự cám dỗ của rượu. Danh lợi
cũng là một thứ rượu mê hoặc con người. Cao Bá Quát tỏ
thái độ khinh rẻ phường danh lợi chi biết say sưa với bả
vinh hoa phú quý và ông bắt đầu cảm thấy sẽ là vô nghĩa
nếu vẫn tiếp tục đi trên con đựờng ấy. Những câu thơ
chất chứa tâm trạng day dứt, băn khoăn: nên đi tiếp hay
từ bỏ ? Mà câu trả lời thì không dễ dàng gì. Nhà thơ nhận
rõ sự vô nghĩa của con đường công danh khoa cử trong
hoàn cảnh thực tại, nhưng nếu đi tiếp thì sẽ phải đi như
thế nào đây?
Người đi trên bãi cát dài bỗng nhiên dừng lại. Nỗi chán
ngán, tuyệt vọng choán đầy tâm hồn bởi vì: Đường bằng
mờ mịt, Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít? Có lẽ đã đến

bước đường cùng? Nếu không đi tiếp thì đi đâu?! Tâm
trạng bế tắc và tuyệt vọng bao phủ lên cả người đi, cả bãi
cát dài. Bức xúc đến thế thì người đi chĩ còn cách là cất
lên tiếng hát buồn thảm về con đường cùng của mình:
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,
Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt Anh đứng làm chi trên
bãi cát ?
Tâm trạng của tác giả khi đi trên bãi cát dài là nhận thức
rõ con đường danh lợi đầy nhọc nhằn chông gai, cần phải
thoát ra khỏi bãi cát cuộc đời ấy nhưng chưa thể tìm
được một con đường nào khác. Người đi trên bãi cảt dài
tự thấy sự vô nghĩa trong hành động của mình và ngao
ngán đến cực độ: Bãi cát dài bãi cát dài ơi. Tỉnh sao đây
đường bằng mờ mịt… và tự hỏi: Anh đứng làm chi trên
bãi cát đó là cái cảm giác bất lực, tuyệt vọng, đành đứng
chôn chân trôn bãi cát, chịu một khối mâu thuẫn lớn đè
nặng lên tâm hồn. Hình tượng người lữ hành ấy vừa cô
độc, vừa cả quyết lại vừa tuyệt vọng trên con đường đi
tìm chân lí gian truân, mờ mịt. Tâm trạng phức tạp của
nhân vật dự báo một hành động bứt phá, một sự phản
kháng âm thầm với trật tự hiện hành. Tư tưởng tiến bộ
của Cao Bá Quát thể hiện ở cho ông đã nhận rõ tính chất
vô nghĩa của lối học khoa cử và con đường tiến thân theo
lề lối cũ.
Trong bài thơ, tác giả đã đặt mình ở nhiều vị trí khác
nhau để bộc lộ tâm trạng và đối thoại với chính mình.
Cao Bá Quát sử dụng nhiều đại từ xưng hô khác nhau,
Có khi ông dùng từ khách (khách là một danh từ đối lập
với chủ), có khi lại dùng từ quân (anh, ông – đại từ nhân

xưng ngôi thứ hai số ít), có chỗ lại dùng từ ngã (tôi, ta –
đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít). Tuy nhiên, tất cả
đều để chi bản thần tác giả. Khi gọi là khách, nhà thơ
nhìn mình như nhìn một người khác. Khi gọi là anh, nhà
thơ như đối thoại với mình. Khi xưng ta, tác giả muốn
trực tiếp thổ lộ tâm sự. Các cách xưng hô trên đều thể
hiện thái độ trăn trở, bức xúc của nhà thơ trên con đường
tạo lập công danh, sự nghiệp.
Vậy là hình tượng người đi trên bãi cát dài được tác giả
thể hiện không đơn nhất mà đa chiều. Khi thì được miêu
tả như một khách thể, khi lại như một người đối thoại,
khi lại như một chủ thể tự thể hiện. Thậm chí có khi tác
giả cho chủ thể ẩn đi. Mục đích là nhằm bày tỏ những
tâm trạng, thái độ khác nhau, trước những hoàn cảnh
khác nhau.
Nội dung Bài ca ngắn đi trên bãi cát phần nào lí giải
nguyên nhân tại sao Cao Bá Quát đã đứng về phía nông
dân khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến nhà
Nguyễn.
Trước hết, bài thơ cho thấy thái độ chán ghét danh lợi và
nhận thức đúng đắn của tác giả về sự bế tắc của lối học
hành khoa cử theo kiểu cũ. Diễn biến tâm trạng của tác
giả là từ băn khoăn, phân vân đến gay gắt tự hỏi: Anh
đứng làm chi trên bãi cát.
Bài thơ là tâm sự chân thành của một kẻ sĩ có tầm tư
tưởng lớn, ý thức rất rõ vể sự trì trệ, bế tắc của thời đại.
Đây cũng là cảm giác thất vọng của tác giả trước lí tưởng
mà mình tôn thờ. Sự bế tắc, tuyệt vọng trước đường cùng
đã được đẩy đến đỉnh điểm.
Cao Bá Quát đã thể hiện những mâu thuẫn sâu sắc trong

tư tưởng của bản thân và của xã hội đương thời một cách
nghệ thuật. Đó là mâu thuẫn giữa khát vọng sống cao đẹp
với hiện thực đen tối; giữa tinh thần dám xả thân của một
kẻ sĩ chân chính với thói cẩu an hưởng lạc của người đời
giữa lí tưởng phò vua giúp nước của một đấng nam nhi
với những khó khăn gian khổ khó vượt qua trên con
đường tiến thân.
Bài ca còn thể hiện cảm xúc bi phẫn và cảm quan nhạy
bén của Cao Bá Quát về một thời đại đen tối, đầy nghịch
cảnh đối với những bậc trí thức tài hoa; đồng thời đánh
dấu sự thức tĩnh của một số kẻ sĩ trước con đường công
danh truyền thống. Phải chăng điều đó đã gợi cho chúng
ta một suy nghĩ và nhận xét: xã hội phong kiến đương
thời không thể dung nạp được lí tưởng của Cao Bá Quát.
Con người ấy nhất định không chịu đứng chôn chân trên
bãi cát mà đang nung nấu thái độ phản kháng âm thầm
nhưng quyết liệt với trật tự hiện hành. Cao Bá Quát đã
nhận thấy cần phải làm một việc gì đó lớn lao hơn, có ích
cho đời hơn. Đó cũng là lí do đưa ông đến với cuộc khởi
nghĩa của nông dân, chọn con đường phản kháng chống
lại triều đình nhà Nguyễn, để rồi cuối cùng phải chịu kết
thúc bi thảm.
Bài thơ đứợc viết theo thể hành, khá tự do về kết cấu,
vần và nhịp điệu. Các câu thơ dài ngắn khác nhau (câu 5
chữ, 7 chữ, 8 chữ), nhịp ngắt của mỗi câu thơ cũng đa
dạng phù hợp với việc phản ánh tâm trạng phức tạp đầy
băn khoăn, dạy dứt của người đi trên bãi cát dài (nhịp 2/3
: Trường sa / phục trường sa; nhịp 3/5: Quàn bất học /
tiên gia mĩ thụy ông nhip 4/3: Phong tiền tửu điếm / hữu
mĩ tửu). Nhiều câu có ngữ điệu cảm thán: (Đăng sơn

thiệp thủy oán hà cùng), ngữ điệu hỏi: (Trường sa,
trường sa nại cừ hà? Quân hồ vi hồ sa thượng lập?).
Nhịp điệu của Bài ca ngắn đi trên cát là nhịp gập ghểnh,
trúc trắc của những bước đi khó nhọc trên bãi cát dài,
trên con đường công danh khoa cử gian nan, vất vả và
đáng chán. Đặc biệt, câu thơ cuối cùng là một câu hỏi
day dứt và ám ảnh. Lời ca mang âm hưởng u buồn, ngầm
chứa thái độ phản kháng của tác giả đối với trật tự xã hội
hiện hành và cảnh báo sự đổi thay tất yếu trong tương lai.

×