ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRIÊ
̣
U THANH PHƢƠ
̣
NG
THùC HIÖN CHÝNH S¸CH D¢N TéC THêI Kú §æI MíI
ë VIÖT NAM - QUA THùC TIÔN T¹I TØNH L¹NG S¥N
Chuyên ngành: L lun v lịch s nh nƣc v php lut
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. PHẠM HNG THI
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác và
trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên
Triệu Thanh Phƣợng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN CHÍNH SCH
DÂN TỘC 9
1.1. Khi niệm chính sch dân tộc v thực hiện chính sch dân tộc 9
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mc - Lênin v tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc 11
1.3. Tầm quan trọng của vấn đề dân tộc v chính sch dân tộc
thời kỳ đổi mi 14
1.4. Nội dung chính sch dân tộc của Đảng v Nh nƣc thời kỳ đổi mi 19
1.5. Php lut về dân tộc - sự thể chế hóa chính sch dân tộc 22
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SCH DÂN TỘC
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN 27
2.1. Khi qut chung về tỉnh Lạng Sơn 27
2.2. Thực trạng chính sch dân tộc v php lut về dân tộc 29
2.3. Nội dung thực hiện chính sch dân tộc 34
2.3.1. Thực hiện bình đẳng về chính trị đối với đồng bào dân tộc thiểu số 34
2.3.2. Thực hiện chính sách về đầu tư phát triển kinh tế - xã hội đối với
đồng bào dân tộc thiểu số 35
2.3.3. Thực hiện chính sách về đất đai, nhà ở, tài nguyên, môi trường
sinh thái đối với đồng bào dân tộc thiểu số 40
2.3.4. Thực hiện chính sách về giáo dục đối với đồng bào dân tộc thiểu số 42
2.3.5. Thực hiện chính sách về y tế đối với đồng bào dân tộc thiểu số 47
2.3.6. Thực hiện pháp luật về văn hóa đối với đồng bào dân tộc thiểu số 49
2.3.7. Thực hiện cho vay vốn tín dụng, xóa đói giảm nghèo 51
2.3.8. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số 53
2.3.9. Thực hiện công tác đào tạo cán bộ là người dân tộc thiểu số tăng
cường cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số 55
2.3.10. Thực hiện chính sách quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội 57
2.4. Đnh gi tổng qut 58
2.4.1. Kết quả tốt đã đạt được 58
2.4.2. Những mặt hạn chế, tồn tại 61
2.4.3. Nguyên nhân của những tồn tại 62
Chƣơng 3: GIẢI PHP NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CHÍNH
SCH DÂN TỘC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN 64
3.1. Giải php về xây dựng v tổ chức thực hiện đƣờng lối, chính
sch của Đảng v Nh nƣc 64
3.2. Giải php pht huy vai trò hệ thống chính trị 66
3.3. Giải php pht triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống cho
đồng bo cc dân tộc trên địa bn tỉnh 67
3.4. Giải php về nâng cao thức của ngƣời dân trong việc tham
gia cùng Nh nƣc thực hiện có hiệu quả chính sch dân tộc 69
3.5. Giải php về công tc đo tạo cn bộ thực hiện công tc dân tộc 70
3.6. Tăng cƣờng công tc kiểm sot việc thực hiện chính sch dân tộc 71
3.7. Giải php php l 72
3.8. Cc giải php khc về tổ chức, quản l 72
KẾT LUẬN 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
DANH MỤC CC TỪ VIẾT TẮT
HĐND: Hội đồng nhân dân
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
UBND: Ủy ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề ti
Dân tộc là vấn đề mang tính chất thời sự đối với tất cả các quốc gia trên
thế giới. Vấn đề dân tộc luôn mang tính lý luận và tính thực tiễn sâu sắc. Đặc
biệt trong bối cảnh hiện nay, vấn đề dân tộc đang có những diễn biến phức tạp
đối với mỗi một quốc gia và cả toàn cầu. Dân tộc, sắc tộc, tôn giáo là vấn đề
nhạy cảm mà các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng nhằm chống phá sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta và chia rẽ
khối đại đoàn kết của dân tộc ta.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Đặc trưng nổi bật trong quan hệ
giữa các dân tộc ở nước ta là sự cố kết dân tộc, hoà hợp dân tộc trong một
cộng đồng thống nhất đã trở thành truyền thống, thành sức mạnh và đã được
thử thách trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, xây
dựng đất nước qua mấy nghìn năm lịch sử cho đến ngày nay. Các dân tộc có
ngôn ngữ, đặc trưng văn hóa và trình độ phát triển khác nhau. Tính khác biệt
tạo nên sự phong phú, đa dạng. Nhưng bản thân nó cũng sẽ tạo nên sự phân
biệt nếu quan hệ dân tộc không được giải quyết tốt. Chính vì vậy, giải quyết
tốt quan hệ dân tộc là vấn đề cấp thiết luôn được đặt ra đối với Đảng và Nhà
nước. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định: "Các dân tộc
trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng
tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" [20].
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kì đổi mới,
nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh đòi hỏi chúng ta phát huy cao độ khối đoàn
kết dân tộc để có thể đứng vững và phát triển. Do vậy, nhận thức đúng đắn
vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới có tầm quan trọng rất
2
lớn. Đảng và Nhà nước đã có những chính sách cụ thể nhằm nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số, củng cố tăng cường
khối đại đoàn kết dân tộc.
Việc hoạch định chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta dựa trên
những giá trị truyền thống và sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Cách mạng Việt Nam. Để phát huy hiệu quả
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay thì việc
thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới ở Việt Nam tại từng địa phương,
trong đó có tỉnh Lạng Sơn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng chung của cả nước.
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi Đông Bắc Việt Nam với quy mô dân số
731.887 người (điều tra dân số ngày 1/4/2009). Dân tộc Kinh chiếm 16.5%
dân số toàn tỉnh, còn lại là các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 83.21% dân số
toàn tỉnh (trong đó: Nùng chiếm 43%, Tày chiếm 35%, Dao chiếm 3,5%, Hoa
chiếm 0,66%, Sán Chay chiếm 0,6%, Mông chiếm 0,17% và một số dân tộc
thiểu số khác sinh sống xen cư ở vùng núi cao, vùng xa, địa hình phức tạp).
Trong bề dày lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, nhân dân
các dân tộc Lạng Sơn có truyền thống đoàn kết, chung sức, chung lòng lao
động sản xuất, xây dựng đời sống kinh tế xã hội và chống ngoại xâm. Trải
qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Lạng Sơn đã
đóng góp to lớn sức người sức của cùng với nhân dân cả nước làm nên chiến
thắng vĩ đại 30/4/1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và cùng
tiến bước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong những năm qua, việc thực hiện chính sách dân tộc tại tỉnh Lạng
Sơn đã góp phần cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
đồng bào các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, Lạng Sơn vẫn là một tỉnh nghèo
trong mặt bằng chung của cả nước; đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều
3
khó khăn, thu nhập thấp, thiếu đói, thất học Bên cạnh đó, các thế lực thù
địch luôn tìm cách lợi dụng những sai sót, yếu kém trong việc thực thi chính
sách dân tộc để tuyên truyền tư tưởng hiềm khích, chia rẽ dân tộc, truyền đạo
trái phép nhằm thực hiện "âm mưu diễn biến hòa bình" gây mất ổn định tình
hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Từ những nhận thức trên đây, em lựa chọn đề tài luận văn thạc sĩ của
mình là: "Thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới ở Việt Nam - Qua
thực tiễn tại tỉnh Lạng Sơn".
2. Tình hình nghiên cứu đề ti
Thời gian qua, vấn đề thực hiện chính sách dân tộc được quan tâm
rất nhiều bởi các học giả, các nhà khoa học, các nhà quản lý chính sách dân
tộc. Đã có các công trình nghiên cứu, các cuốn sách, bài viết, bài báo liên
quan đến vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta như:
- "Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta", Tập
bài giảng chương trình cử nhân chính trị, Phân viện Hà Nội - Khoa Dân tộc
(1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Sách bao gồm các bài giảng
đề cập tới đặc điểm của các dân tộc Việt Nam, nghiên cứu mối quan hệ tộc
người, hoạt động kinh tế truyền thống, nền văn hóa, thiết chế, quan hệ gia
đình, hôn nhân, tôn giáo của các dân tộc Việt Nam, chính sách dân tộc của
Đảng Cộng sản Việt Nam
- "Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc Việt Nam", Ủy
ban dân tộc và miền núi – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1996),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đây là đề tài nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc và hướng giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm
Hồ Chí Minh.
- "Tiếp tục thực hiện tốt chính sách ở các vùng dân tộc và miền núi cải
4
thiện đời sống nhân dân" của Đặng Vũ Liêm đăng trong Tạp chí quốc phòng
toàn dân số 02/1999. Trên cơ sở phân tích các chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước ta, tác giả đã nêu ra những giải pháp trong việc thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số
- "Vấn đề dân tộc và phát triển miền núi của Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam", Ủy ban dân tộc miền núi (1999), Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội. Đây là cuốn sách khái quát về cộng đồng các dân tộc Việt Nam, khái
quát về miền núi, vùng cao ở Việt Nam và cơ quan quản lý nhà nước về công
tác dân tộc và miền núi
- "Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng cộng sản Việt Nam –
Chương trình chuyên đề đùng cho cán bộ, đảng viên cơ sở", Ban Tư tưởng –
Văn hóa Trung ương (2000), Nxb Giáo dục, Hà Nội. Tài liệu đề cập đến vấn
đề dân tộc, quan hệ dân tộc trên thế giới, tình hình và đặc điểm chủ yếu, mối
quan hệ giữa các dân tộc ở Việt Nam, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước Việt Nam, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng và cán bộ Đảng viên trong
việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước
- "Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở nước ta", Ủy ban dân tộc và
miền núi (2001), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Sách đề cập tới những
quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của
Đảng ta về vấn đề dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc; những đặc điểm nổi
bật của dân tộc Việt Nam và công tác dân tộc cần thực hiện trong sự nghiệp
cách mạng nước ta
- "Tập bài giảng lý luận dân tộc và các chính sách dân tộc", Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2001). Đây là tập bài giảng bao gồm các
chuyên đề trình bày về quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và Đảng ta về vấn đề chính sách dân tộc; đồng thời đề cập đến những
vấn đề quan trọng đặt ra trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ta
5
- "Một số vấn đề về dân tộc và phát triển", Ủy ban Dân tộc – Viện Dân
tộc (2005), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nội dung cuốn sách đề cập đến
những vấn đề lý luận, xác định chức năng của nhà nước về công tác dân tộc,
chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước về kinh tế, ngành nghề thủ công,
nguồn nhân lực, giải quyết vấn đề di dân ở đồng bào dân tộc thiểu số, vai trò
của người già chức sắc dân tộc, vai trò nghiên cứu khoa học với công tác dân
tộc, sự phát triển bền vững, bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc dân tộc
- "Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách trong thời kỳ
công nghiệp hóa – hiện đại hóa" của Viện nghiên cứu chính sách dân tộc và
miền núi. Cuốn sách là cơ sở hoạch định chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta và những định hướng cơ bản trong việc qui hoạch dân cư, đẩy mạnh
việc phát triển kinh tế hàng hóa cho phù hợp với chính sách của từng vùng,
miền.v.v…
Mỗi công trình nghiên cứu đều có những thành tựu đáng kể. Song chưa
có công trình nào nghiên cứu trực tiếp về "Thực hiện chính sách dân tộc thời
kỳ đổi mới ở Việt Nam qua thực tiễn tỉnh Lạng Sơn". Vì thế, đây là đề tài rất
đáng để tìm hiểu, nghiên cứu. Để góp một phần nhỏ bé vào hệ thống các
nghiên cứu về thực hiện chính sách dân tộc, luận văn mong muốn tiếp tục làm
rõ thực trạng thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới ở Việt Nam qua
thực tiễn tại một tỉnh miền núi phía Bắc điển hình.
3. Mục đích v nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta về chính sách dân
tộc, thực trạng việc thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn,
đề tài có mục đích đánh giá những ưu điểm, phân tích những tác động cụ thể
của chính sách dân tộc trên mọi lĩnh vực đời sống, chính trị, kinh tế và văn
6
hóa xã hội của nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn thời kỳ đổi
mới; từ đó đưa ra một số kiến nghị trong quá trình thực thi chính sách và đề ra
các giải pháp bảo đảm việc thực hiện chính sách dân tộc, pháp luật về dân tộc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu như trên, luận văn tập trung giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở xây dựng chính sách dân tộc ở Việt Nam và các yếu tố
bảo đảm đối với chính sách dân tộc
- Làm rõ những nội dung cơ bản trong chính sách dân tộc thời kỳ đổi
mới ở Việt Nam và sự thể chế hóa chính sách đó thành pháp luật
- Phân tích thực trạng thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới tại
tỉnh Lạng Sơn
- Đề xuất các giải pháp để thực hiện tốt hơn chính sách dân tộc và pháp
luật về dân tộc tại tỉnh Lạng Sơn
4. Cơ sở phƣơng php lun v phƣơng php nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận văn dựa trên nền tảng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và
một số phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp phân tích; phương
pháp tổng hợp (phân tích, tổng hợp số liệu, biểu bảng thống kê kết quả thực
hiện các chương trình 134, 135, xóa đói giảm nghèo, phân tích nguyên nhân
của những hạn chế, tồn tại…); phương pháp so sánh (so sánh kết quả đạt được
giữa các năm hoặc giữa các giai đoạn 1, 2, 3 đối với việc thực hiện những
chính sách dài hạn, hoặc so sánh với thực trạng khi chưa triển khai thực hiện
các chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số…)
7
5. Đối tƣợng v phạm vi nghiên cứu
Luận văn chú trọng nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước tại tỉnh Lạng
Sơn từ năm 1999 (năm đầu tiên tỉnh Lạng Sơn có kết quả từ Chương trình
phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và
miền núi) đến nay.
6. Tính mi của lun văn
Dưới góc nhìn luật học, luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận
và thực tiễn về chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước; thực trạng thực
hiện chính sách dân tộc tại một tỉnh miền núi phía Bắc điển hình là Lạng Sơn;
thông qua phân tích kết quả của việc thực hiện, đề xuất giải pháp hoàn thiện
chính sách dân tộc, pháp luật về dân tộc; giảm bớt sự chênh lệch về trình độ
phát triển giữa các dân tộc, phát huy tổng thể sức mạnh toàn dân trong công
cuộc đổi mới đất nước. Cụ thể:
- Tiếp cận ở phương diện pháp lý đối với chính sách dân tộc thời kì đổi
mới ở Việt Nam và việc thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn. Thông qua phân tích kết
quả của việc thực hiện, đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách dân tộc, pháp
luật về dân tộc
- Luận văn góp phần đánh giá thực trạng thực hiện chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước ở tỉnh Lạng Sơn (những số liệu điều tra, tổng hợp và
những kết quả đạt được trên các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, y tế, văn hóa xã
hội, an ninh quốc phòng…); làm rõ điểm mạnh, điểm hạn chế của các chính
sách dân tộc ảnh hưởng đến sự phát triển ở tỉnh Lạng Sơn trên mọi mặt
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh việc thực thi chính
sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đến năm 2020
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho quá trình nghiên cứu và hoạch định chính sách những vấn đề có liên
8
quan tới vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc cho các ngành, các cấp, các nhà
quản lý trong việc thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
7. Kết cấu của lun văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
gồm 3 chương:
Chương 1 - Cơ sở lý luận của thực hiện chính sách dân tộc
Chương 2 - Thực trạng thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới tại
tỉnh Lạng Sơn
Chương 3 - Giải pháp bảo đảm việc thực hiện chính sách dân tộc tại
tỉnh Lạng Sơn
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN
CHÍNH SCH DÂN TỘC
1.1. Khi niệm chính sch dân tộc v thực hiện chính sch dân tộc
Cho đến nay, thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, khái niệm "dân tộc" có
hai nội hàm. Thứ nhất nó dùng để chỉ dân tộc ở cấp độ quốc gia tức là dân
tộc Việt Nam, quốc gia Việt Nam, một thể chế chính trị - xã hội nhất định,
một lãnh thổ, có nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự
thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế,
truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình
lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Thứ hai, "dân tộc" dùng để chỉ cộng
đồng tộc người cụ thể, có chung tiếng nói, có chung các đặc điểm sinh hoạt
văn hóa, các phong tục, tập quán, ví dụ khi ta nói đến các dân tộc: Kinh,
Tày, Nùng, Bana, Êđê…
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, khái niệm "dân tộc" được hiểu
theo nội hàm thứ hai. Theo đó, "chính sách dân tộc" được hiểu là chính sách
dân tộc và miền núi. Nó thể hiện mối quan tâm của Đảng và Nhà nước đến
vùng đồng bào dân tộc miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng cao, vùng đặc biệt
khó khăn. Sự định nghĩa đó nhằm phân biệt nó với thuật ngữ "chính sách dân
tộc" nói chung.
Chính sách được hiểu là sự thể hiện cụ thể của đường lối chính trị
chung; dựa vào đường lối chính trị, cương lĩnh chính trị của đảng cầm quyền
mà định ra chính sách về một lĩnh vực nhất định cùng với các mục tiêu, biện
pháp, kế hoạch để thực hiện đường lối ấy. Nhà nước ban hành nhiều loại
chính sách như: chính sách kinh tế, chính sách quốc phòng, chính sách khoa
học và công nghệ, chính sách dân tộc.v.v…
10
Chính sách dân tộc là một trong những chính sách của Đảng và Nhà
nước ta, là sự thể hiện đường lối của Đảng về vấn đề dân tộc mà cụ thể là các
chính sách về xóa đói giảm nghèo; chính sách về đầu tư phát triển kinh tế - xã
hội khu vực đồng bào dân tộc thiểu số; chính sách hỗ trợ về đất đai, nhà ở, tài
nguyên, môi trường sinh thái; chính sách y tế - văn hóa – xã hội.v.v…
Chính sách được thể hiện qua các Văn kiện Đảng Cộng sản Việt Nam;
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; các Nghị quyết, Chỉ
thị của Đảng; các văn bản quy phạm pháp luật.
Thực hiện chính sách dân tộc được hiểu là hoạt động có mục đích
của con người biến chính sách, pháp luật chứa đựng chính sách thành hoạt
động thực tế của các chủ thể thực hiện chính sách. Như vậy, các chủ thể
thực hiện chính sách phải hành động phù hợp với mục tiêu, biện pháp, kế
hoạch đã được đề ra trong chính sách. Việc thực hiện chính sách có nhiều
hình thức: tuân thủ chính sách, chấp hành chính sách, sử dụng chính sách,
áp dụng chính sách.
Tuân thủ chính sách được hiểu là một hình thức thực hiện chính sách
trong đó các chủ thể không được tiến hành những hoạt động trái với mục tiêu,
biện pháp, kế hoạch mà chính sách đề ra. Ví dụ: không sử dụng nguồn vốn
xóa đói giảm nghèo sai mục đích, thiếu hoạch định, gây thất thoát, lãng phí.
Chấp hành chính sách được hiểu là một hình thức thực hiện chính sách
trong đó các chủ thể thực hiện các nghĩa vụ của mình với hành động tích cực.
Ví dụ: cán bộ thực hiện tốt, thực hiện tích cực, hoàn thành nhiệm vụ tăng
cường nhân lực cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số khó khăn.
Sử dụng chính sách được hiểu là một hình thức thực hiện chính sách
trong đó các chủ thể thực hiện quyền chủ thể của mình, thực hiện những hành
vi được cho phép. Ví dụ: hộ đồng bào dân tộc thiểu số được giao khoán đất
sản xuất của các nông, lâm trường phục vụ sản xuất nhằm giảm nghèo, thoát
11
nghèo đã thực hiện các hoạt động trồng trọt, khai thác, sản xuất, kinh doanh
một cách hợp pháp, đúng mục đích.
Áp dụng chính sách được hiểu là một hình thức thực hiện chính sách
trong đó nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc cán bộ, công chức
có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể thực hiện những kế hoạch được đề
ra trong chính sách hoặc tự mình căn cứ vào mục tiêu của chính sách để ra
các quyết định nhằm đạt được mục tiêu đó. Ví dụ: Chủ tịch UBND tỉnh ra
Quyết định thành lập Ban chỉ đạo, tổ chuyên viên giúp việc thực hiện
Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi
và vùng sâu vùng xa.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mc - Lênin v tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc, nhân dân là
một trong những bộ phận quan trọng trong hệ thống các quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: Dân tộc là
khái niệm chỉ hầu như tất cả các hình thức của cộng đồng người trong lịch sử;
dân tộc là vấn đề rộng lớn, bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế, lãnh
thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hóa giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc, các bộ
tộc. Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng: dân tộc là sản phẩm của quá trình phát
triển lâu dài của lịch sử. Mỗi dân tộc có con đường hình thành và phát triển
riêng của mình và các dân tộc luôn có mối quan hệ qua lại với nhau. Sự tác
động qua lại đó một mặt tạo điều kiện để các dân tộc không ngừng phát triển,
nhưng ở một phương diện khác, nó cũng tạo ra những mâu thuẫn, xung đột
cần được giải quyết [25]. Lênin đã từng chỉ rõ: "những sai biệt về mặt dân
tộc và quốc gia giữa các dân tộc và các nước, những sai biệt này sẽ còn tồn
tại lâu dài ngay cả sau khi nền chuyên chính vô sản được thiết lập trong
phạm vi toàn thế giới" [48, tr.320-321]. Điều đó cho thấy chừng nào còn có
12
sự khác biệt về dân tộc thì dân tộc vẫn tồn tại và vẫn còn cơ sở xã hội, cơ sở
thực tiễn, cũng như nguy cơ tiềm ẩn mâu thuẫn dân tộc và xung đột dân tộc.
C.Mác và Ph.Ăngghen đề cập đến sự ra đời của các dân tộc khi chưa
xuất hiện chủ nghĩa tư bản. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen thể hiện
hai vấn đề cơ bản: Thứ nhất, chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là cơ sở
sinh ra nạn người bóc lột người, nạn áp bức giai cấp, áp bức dân tộc. Chủ
nghĩa tư bản càng phát triển thì nạn bóc lột và áp bức giai cấp, áp bức dân
tộc càng nặng nề. Vì vậy, muốn xóa bỏ nạn áp bức giai cấp, tình trạng dân
tộc này nô dịch, bóc lột dân tộc khác thì phải xóa bỏ tận gốc rễ chế độ sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, cơ sở kinh tế - xã hội sinh ra nạn áp bức giai
cấp, nạn nô dịch dân tộc. Thứ hai, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống
lại giai cấp tư sản xét về bản chất là một cuộc đấu tranh quốc tế - toàn bộ
giai cấp vô sản chống lại toàn bộ giai cấp tư sản, trước tiên giai cấp vô sản
phải giành lấy chính quyền ở nước mình, phải tự mình trở thành dân tộc,
phải biến lợi ích của mình thành lợi ích của dân tộc, biến lợi ích của dân tộc
thành lợi ích của mình để trở thành người lãnh đạo toàn thể dân tộc trong
cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Trong "Cương lĩnh về vấn đề dân tộc", Lênin cũng từng nhấn mạnh:
các dân tộc có quyền bình đẳng, thực chất của vấn đề dân tộc là xoá bỏ nô
dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác, trên cơ sở đó dần dần xoá bỏ sự
chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc; không phân biệt nhỏ -
lớn, phát triển - kém phát triển, màu da, tôn giáo, chế độ chính trị. Sự bình
đẳng giữa các dân tộc cần được thực hiện trên các lĩnh vực đời sống: kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội [25]. Điều đó phải được ghi nhận và bảo đảm bởi
pháp luật của Nhà nước và điều quan trọng hơn là phải được thực hiện trong
thực tế. Quyền bình đẳng được thể hiện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội. Quyền bình đẳng trên lĩnh vực chính trị tức là quyền được
13
lựa chọn chế độ chính trị của dân tộc mình, chống lại chủ nghĩa dân tộc hẹp
hòi. Quyền bình đẳng trên lĩnh vực kinh tế được hiểu: khi liên kết hợp tác
giữa các dân tộc thì mỗi dân tộc có quyền thực hiện lợi ích kinh tế của mình,
gắn liền với việc chống đặc lợi đặc quyền về kinh tế và phải tạo điều kiện cơ
hội ngang bằng nhau để các dân tộc có điều kiện thực hiện lợi ích kinh tế của
mình. Quyền bình đẳng trên lĩnh vực văn hóa được hiểu: mỗi dân tộc có
quyền giữ gìn, phát triển bản sắc văn hóa của dân tộc của mình, chống lại sự
đồng hoá văn hóa. Ở những quốc gia đa dân tộc, phải phát huy bản sắc của
từng dân tộc để tạo ra sự đa dạng trong sự thống nhất của nền văn hóa. Quyền
bình đẳng về xã hội đưa ra đòi hỏi giải quyết một cách công bằng các vấn đề
nảy sinh trong đời sống giữa các dân tộc trong xã hội. Những nội dung đó đều
quan trọng và có ý nghĩa rất lớn trong việc thể hiện lập trường khoa học và
cách mạng của Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc.
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với
tình hình và điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn Cách mạng,
đồng thời kế thừa, phát triển chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của
dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
đã trở thành hệ thống tư tưởng mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc. Hồ
Chí Minh đã khái quát nên chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của dân
tộc: "Tất cả các dân tộc đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do" [36]. Trong hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh, tư tưởng về đại đoàn kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn
đối với quá trình phát triển của dân tộc ta và của toàn nhân loại. Theo đó,
"dân" chỉ mọi con dân đất Việt, không phân biệt dân tộc đa số - dân tộc thiểu
số, người tín ngưỡng - người không tín ngưỡng, không phân biệt già - trẻ, gái
- trai, giàu - nghèo.
Nói đến đại đoàn kết dân tộc, tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên – Việt
toàn quốc (10/01/1955), Người cho rằng:
14
Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân,
mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp lao
động khác Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một
thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc
lập của tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà [2].
1.3. Tầm quan trọng của vấn đề dân tộc v chính sch dân tộc thời
kỳ đổi mi
Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ "có vị
trí chiến lược" [11, tr.125], "luôn luôn có vị trí chiến lược" [13, tr.127] và "có
vị trí chiến lược lâu dài" [15, tr.121] trong sự nghiệp cách mạng nước ta.
Nhiệm vụ đó trong thời kỳ đổi mới hiện nay càng được đặt ra cấp thiết hơn
bao giờ hết. Việc xác định vị trí của vấn đề dân tộc xuất phát từ đặc điểm của
cộng đồng dân tộc ở nước ta.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc thống nhất gồm 54 dân tộc anh
em cùng sinh sống. Dân tộc Kinh chiếm 87% dân số; 53 dân tộc còn lại chiếm
13% dân số, phân bố rải rác trên địa bàn cả nước. Các dân tộc có quy mô dân
số khác nhau, từ những dân tộc dưới 1000 người (như: Cống, Si La, Pu Péo,
Rơ Măm…) đến những dân tộc khác có quy mô dân số lớn hơn như: Tày,
Nùng, Thái, Mường, Khơme, Mông, Dao, Giarai, Bana, Êđê …
Với đặc điểm dân cư, dân tộc như vậy, điểm mạnh mà ta có được là:
các dân tộc hoà hợp trong một cộng đồng thống nhất, tạo nên nguồn sức
mạnh lớn trong đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất
nước qua mấy ngàn năm lịch sử cho đến ngày nay. Thêm nữa, các dân tộc có
bản sắc văn hóa riêng góp phần tạo nên một nền văn hóa dân tộc Việt Nam
đa dạng và phong phú.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, do điều kiện tự nhiên, xã hội, hình thái cư trú
xen kẽ và hậu quả của các chế độ áp bức bóc lột trong lịch sử nên trình độ
15
phát triển kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc còn khác biệt, chênh lệch
nhau. Nhiều vùng dân tộc thiểu số canh tác còn ở trình độ thấp, chủ yếu dựa
vào khai thác tự nhiên, đời sống vật chất của bà con dân tộc thiểu số còn thiếu
thốn, tình trạng nghèo đói kéo dài, thuốc chữa bệnh khan hiếm, nạn mù chữ
và tái mù chữ còn ở nhiều nơi, đường giao thông và phương tiện đi lại nhiều
vùng rất khó khăn; điện, nước phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt nhiều vùng còn
rất thiếu; thông tin, bưu điện nhiều nơi chưa đáp ứng yêu cầu của đời sống,
nhất là ở vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh. Hiện tượng tiêu cực trong quan hệ
dân tộc vẫn thường xuyên xảy ra. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch
luôn luôn dùng mọi thủ đoạn chia rẽ dân tộc và can thiệp vào nội bộ nước ta.
Các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm 13% dân số cả nước nhưng lại cư trú trên
các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng,
an ninh và giao lưu quốc tế, đó là các vùng biên giới, vùng núi cao, hải đảo.
Nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số trước đây là căn cứ cách mạng và
kháng chiến. Một số dân tộc có quan hệ dòng tộc với các dân tộc ở các nước
láng giềng và khu vực. Như vậy, đối với nước ta, vấn đề dân tộc vừa là vấn đề
miền núi, biên cương, an ninh quốc gia, chủ quyền lãnh thổ, vừa là vấn đề
nông dân, nông thôn mà Đảng ta đã đề ra. Nếu coi nhẹ vấn đề dân tộc và
không xác định đúng vị trí vấn đề dân tộc trong chiến lược phát triển quốc gia
thì tất yếu dẫn đến xung đột dân tộc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, liên quan đến sự tồn vong quốc gia.
Nhìn từ phương diện pháp lý, vấn đề dân tộc, thực hiện chính sách dân
tộc càng có tầm ý nghĩa lớn lao.
Thứ nhất, thực hiện tốt chính sách dân tộc tạo ra sự bình đẳng, đặt nền
móng cho đại đoàn kết toàn dân.
Thực hiện bình đẳng dân tộc chính là nhân tố quyết định để củng cố và
tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Khi một dân tộc này chà đạp, ép buộc
16
các dân tộc khác thì sớm hay muộn cũng tạo nên sự chia rẽ, ly khai dân tộc.
Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy điều đó khi cho rằng để xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc thì phải thực hiện bình đẳng dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc
không những phải dựa trên nền tảng của khối liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, mà còn phải thực hiện đoàn
kết các dân tộc. Cơ sở của khối đại đoàn kết dân tộc là bình đẳng dân tộc, vì
lợi ích của tất cả các dân tộc trong một quốc gia. Khi các dân tộc được đối xử
bình đẳng, cả về nghĩa vụ và quyền lợi, sẽ tạo ra tiếng nói chung và tạo nên sự
đồng thuận giữa các dân tộc và ngược lại. Vì thế, nếu không đảm bảo và
không có những chính sách, hành động cụ thể để thực hiện bình đẳng dân tộc,
làm cho bình đẳng dân tộc ngày càng trở thành hiện thực thì khối đại đoàn kết
dân tộc sẽ bị lung lay, làm ảnh hưởng đến sự tập hợp lực lượng của cách
mạng. Để thực hiện quyền bình đẳng dân tộc, cần phải có một xã hội mà ở đó
quyền bình đẳng giữa các dân tộc có điều kiện và cơ sở để thực hiện. Xã hội
đó, không thể khác là xã hội xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm của Người:
đồng bào miền xuôi với trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật phát triển hơn
phải giúp đỡ đồng bào thiểu số để cùng tiến bộ. Nhiệm vụ của Trung ương,
Chính phủ và Cấp ủy Đảng là phải làm sao nâng cao đời sống vật chất và văn
hóa của đồng bào các dân tộc, phải giúp đỡ đồng bào thiểu số về mọi mặt.
Ngày nay, trước yêu cầu phát triển mới của đất nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, các dân tộc tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, tăng cường đoàn kết,
nỗ lực phấn đấu xây dựng nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về chính sách dân tộc là nhất quán, theo nguyên tắc: các dân tộc bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ nhau cùng phát triển. Đây vừa là nguyên tắc, vừa là
mục tiêu chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Bước vào thời kỳ đổi
17
mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng dân tộc, chính sách dân tộc của Đảng đã
được khẳng định, bổ sung, kiện toàn trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc qua các nhiệm kỳ.
Thứ hai, thực hiện tốt chính sách dân tộc góp phần xây dựng, hoàn
thiện nhà nước pháp quyền
Nhà nước ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với xã hội có giai cấp, nó
ra đời khi xã hội loài người phát triển đến một trình độ nhất định nhằm đáp
ứng những đòi hỏi của sự phát triển đó. Vì thế, nhà nước vừa mang tính chất
giai cấp vừa mang tính chất xã hội. Tức là, nhà nước vừa bảo vệ lợi ích của
giai cấp thống trị trong xã hội, vừa duy trì trật tự xã hội để đảm bảo sự ổn
định và thúc đẩy xã hội phát triển. Hiến pháp 2013 ghi nhận:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm
chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức [32, Điều 2].
Hiến pháp đã khẳng định Nhà nước ta mang tính nhân dân, tính dân
chủ rộng rãi. Thêm nữa, Nhà nước ta còn là nhà nước thống nhất của các dân
tộc. Tính nhân dân và tính giai cấp của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam luôn gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc. Trong tất cả các thời kỳ
phát triển của mình, Nhà nước ta đều xác lập và thực hiện nguyên tắc đại
đoàn kết toàn dân. Điều này thể hiện ở chính sách đại đoàn kết dân tộc của
Đảng và Nhà nước mà nội dung cơ bản là tạo điều kiện cho mỗi dân tộc có
thể tham gia vào việc thiết lập, củng cố quyền lực nhà nước, tham gia vào
việc tổ chức bộ máy nhà nước. Bên cạnh đó, nhà nước thực hiện nhiều chính
18
sách ưu tiên đối với các dân tộc ít người, vùng núi, vùng sâu, vùng xa và tạo
điều kiện cho các dân tộc tương trợ giúp đỡ lẫn nhau; đảm bảo cho các dân
tộc phát huy các giá trị văn hóa, tinh thần truyền thống tốt đẹp của mình. Tất
cả nhằm thu hẹp khoảng cách giữa người dân các dân tộc thiểu số miền núi
với người dân vùng đồng bằng.
Thứ ba, thực hiện tốt chính sách dân tộc góp phần bảo đảm quyền
con người
Quyền con người là một vấn đề toàn cầu, cũng là mối quan tâm lớn của
Đảng ta. Con người được đặt ở vị trí trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực trong quá trình phát triển và công cuộc đổi mới toàn diện ở Việt Nam. Các
quyền và tự do cơ bản của nhân dân được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp
luật và bảo đảm thực hiện bằng nhiều chủ trương, chính sách và cơ chế. Nhà
nước Việt Nam thực hiện đường lối nhất quán: Các dân tộc bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ. Trên tinh thần đó, hệ thống pháp luật
Việt Nam liên tục được hoàn thiện, đáp ứng cơ bản chính sách phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước, trong đó có việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp
pháp của các dân tộc thiểu số. Mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc đều bị
nghiêm cấm. Mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu
số được cải thiện không ngừng. Thực hiện có hiệu quả chính sách dân tộc
chính là đem lại sự bình đẳng trong thụ hưởng các quyền và tự do cơ bản của
con người. Đồng bào các dân tộc thiểu số cũng được hưởng các quyền về
chính trị, kinh tế, văn hóa như bất cứ thành viên nào khác trong xã hội. Vì thế,
việc Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến đồng bào các dân tộc thiểu số,
đến vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc là hướng tới bảo đảm quyền con
người, vì sự phát triển chung của con người, của công dân trong xã hội và của
các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
19
1.4. Nội dung chính sch dân tộc của Đảng v Nh nƣc thời kỳ
đổi mi
Từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đến nay, Đảng ta luôn luôn
đánh giá đúng đắn vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc, kế thừa và phát huy
truyền thống sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc.Vì vậy, Đảng đã có những
chính sách dân tộc phù hợp cho từng thời kì cách mạng ở Việt Nam. Trong
các kì Đại hội, Đảng cộng sản Việt Nam luôn đề cao, coi trọng vị trí chiến
lược của vấn đề dân tộc.
Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng Sản Việt Nam (tháng 3/1935) đã
thông qua "Nghị quyết về công tác trong các dân tộc thiểu số", khẳng định rõ:
"Đảng cộng sản thừa nhận các dân tộc được quyền tự do hoàn toàn. Đảng
chống chế độ thuộc địa, chống hết các hình thức trực tiếp và gián tiếp đem
dân tộc này áp bức và bóc lột dân tộc khác" [19, tr.523].
Đại hội Đảng lần thứ II, tháng 2 năm 1951, đã quyết nghị: "Các dân tộc
sống trên đất Việt Nam đều được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, phải
đoàn kết giúp đỡ nhau để kháng chiến và kiến quốc" [9, tr.359].
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Đảng ta đề ra những chính sách
cụ thể giải quyết vấn đề dân tộc. Tháng 8/1952, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết
"Chính sách dân tộc thiểu số của Đảng hiện nay". Sau đó, ngày 22 tháng 6
năm 1953, Chính phủ đã ban hành chính sách dân tộc của Nhà nước Việt
Nam quy định các mặt công tác chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
của vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tinh thần cơ bản của chính sách đó là:
đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ để kháng chiến,
kiến quốc, giúp nhau tiến bộ về mọi mặt. Nhờ có chính sách dân tộc đúng đắn
mà các dân tộc đoàn kết, tích cực tham gia kháng chiến chống Pháp, rồi
chống Mỹ thắng lợi.
20
Báo cáo chinh trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9/1960)
cũng nêu rõ:
Vấn đề xây dựng kinh tế miền núi là một bộ phận khăng khít
của chính sách dân tộc của Đảng ta trong giai đoạn mới của Cách
mạng. Nó đảm bảo cho miền núi dần dần tiến kịp miền xuôi, cho
các dân tộc thiểu số tiến kịp dân tộc Kinh, thực hiện đầy đủ sự bình
đẳng và tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc [3].
Từ ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước thực hiện thống nhất trên phạm vi cả
nước. Các văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới luôn nhìn nhận công tác dân tộc là
vấn đề chiến lược của Đảng và Nhà nước ta.
Nếu như trong các văn kiện Đại hội Đảng từ lần thứ II đến lần thứ V
đều nhấn mạnh: "đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc" thì từ Đại hội VI trở
đi nguyên tắc này đã được xác định là: "Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn
nhau" (Đại hội VI) [23], "Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau" (Đại hội
VII) [11], "Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ’" (Đại hội VIII) [13], "Bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển" (Đại hội IX) [15], "Bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ" (Đại hội X) [17] và
"Cộng đồng các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau
cùng phát triển" (Đại hội XI) [20].
Nghị quyết số 22 (Khoá VI) ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị về
một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi
cũng nhấn mạnh:
Phát triển kinh tế - xã hội miền núi là một bộ phận hữu cơ
của chiến lược phát triển kinh tế quốc dân, là sự nghiệp chung của
nhân dân cả nước… Phát triển miền núi toàn diện cả về kinh tế, xã
hội, văn hoá, quốc phòng, an ninh; trong đó trọng tâm là phát triển
kinh tế - xã hội gắn với thực hiện chính sách dân tộc của Đảng [4].