Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.38 KB, 41 trang )

Đề tài:
Nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.
Lời tựa:
“Pháp luật và nhà nước,hai thành tố của thượng tầng chính trị-pháp lý,luôn có
mối quan hệ khăng khít,không thể tách rời nhau.Pháp luật và nhà nước đều có
chung nguồn gốc cùng phát sinh và phát triển.Nhà nước là một tổ chức đặt biệt
của quyền lực chính trị,những quyền lực đó chỉ có thể được triển khai và phát
huy có hiệu lực trên cơ sở của pháp luật.Pháp luật là hệ thống các quy tắt sử xự
do nhà nước ban hành,luôn phản ánh những quan điểm và đường lối chính trị
của lực lượng nắm quyền lực nhà nước và bảo đảm cho quyền lực đó được triển
khai nhanh,rộng trên quy mô toàn xã hội.Với ý nghĩa đó,nhà nước không thể tồn
tại và phát huy quyền lực thiếu pháp luật;và ngược lại pháp luật chỉ phát
sinh,tồn tại và có hiệu lực khi dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực nhà
nước.”(1)
Vấn đề về nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng hết sức phức tạp,còn có
nhiều vấn đề tranh luận nhưng chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau.Vì vậy
khi nghiên cứu và tìm hiểu về nhà nước thì ta không thể tách rời chúng với pháp
luật và ngược lại. Chúng ta phải nghiên cứu hai hiện tượng trên song hành nhau
để tìm hiểu những mối liên hệ mật thiết của chúng.Thì chúng ta mới có thể đưa
ra những câu trả lời chính xác và hoàn mỹ nhất.
Cho dù ở mỗi thời đại,mỗi thời kỳ lịch sử có những điểm không giống nhau
nhưng hai hiện tượng nhà nước và pháp luật luôn có mắc xích gắn kết và có mối
quan hệ gần gũi không thể tách rời nhau.Nên việc tìm hiểu và nghiên cứu về hai
hiện tượng đấy ở quá khứ,hiện tại hay trong tương lai đều phải theo một trình tự
hợp lý thì mới mang lại kết quả có tính khoa học được.Vì vậy trong thời đại mới
cần phải có một kiến thức xã hội và pháp lý nhuần nhuyễn mới có thể thu được
thành quả tốt nhất và chuẩn xác nhất trong việc nghiên cứu về nhà nước và pháp
luật.
Phần mở đầu:
Đất nước đang trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới,có nhiều biến chuyển
mới,vì vậy pháp luật của nước ta cũng có nhiều thay đổi nhằm phù hợp với luật


pháp quốc tế để dễ dàng hòa nhập vào sân chơi chung toàn cầu.
Với quá trình học tập nói chung và tìm hiểu Lí luận nhà nước và pháp luật nói
riêng đồng cùng xu hướng phát triển mới của thời đại,vận hội mới của đất
nước.Tôi thấy việc nghiên cứu và học tập về “nhà nước và pháp luật” là vô cùng
cần thiết,đặt biệt là việc tìm hiểu đề tài này trong tình hình đất nước đổi mới lại
càng cấp thiết hơn.Chính vì lẽ đó mà tôi chọn đề tài: Nhà nước và pháp luật
trong thời kỳ đổi mới để trình bày trong bài tiểu luận này.Với một lượng kiến
thức còn hạn chế mà phạm vi đề tài tương đối rộng nên trong bài tiểu luận này
dù với sự cố gắng hết sức nhưng tôi cũng chỉ có thể nêu ra những điểm khái
quát về đề tài này.
Nước ta là một nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nên trước khi đi vào tìm hiểu
“Nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới”tôi xin trình bày một số vấn đề về
nhà nước pháp quyền ở nước ta.Tiếp theo là tìm hiểu về nội dung chính của đề
tài:một số vai trò của nhà nước (Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Vai trò của quản lí
nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa hiện đại hóa, Vai trò của nhà nước và vấn đề trách nhiệm xã hội),vai trò của
pháp luật trong thời đại mới và vấn đề xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước
trong thời kỳ mới.
Nội dung chính:
1. Một số vấn đề về nhà nước pháp quyền ở nước ta
Qua mấy chục năm xây dựng và đổi mới phương thức tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (1994), Đảng
ta đã xác định nhiệm vụ và phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây là
nhiệm vụ lớn lao của Đảng và của toàn dân tộc, cho nên Đảng ta luôn quan tâm
chỉ đạo thực hiện và cụ thể hóa trong các văn kiện của Đảng như: Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 8, khóa VII, năm 1995; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, v.v..
Để góp phần nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong những năm qua, chúng tôi xin đề cập,
trao đổi, làm sáng tỏ thêm một số vấn đề.
1.1 - Khái niệm nhà nước pháp quyền
Trong việc nghiên cứu về nhà nước và pháp luật, vấn đề nhà nước pháp quyền
trở thành mối quan tâm đặc biệt của nhiều tác giả là những người làm công tác
thực tiễn cũng như nghiên cứu khoa học pháp lý hiện nay ở trong nước cũng
như ở ngoài nước. Do cách tiếp cận vấn đề hoặc nhận định đánh giá vấn đề ở
góc độ khác nhau, một số vấn đề rất cơ bản liên quan đến nhà nước pháp quyền
vẫn chưa có nhận thức thống nhất hoặc chưa được làm sáng tỏ. Tuy nhiên, hầu
hết các tác giả đều thống nhất cho rằng: dưới góc độ chính trị - xã hội và phân
tầng giai cấp xã hội, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước
mới, thoát ly các kiểu nhà nước mà lịch sử nhân loại đã chứng kiến là: Nhà
nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
Vậy, nhà nước pháp quyền là kiểu nhà nước gì? Chúng ta có thể khẳng định
rằng, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước độc lập với các
kiểu nhà nước nói trên và nó cũng không phải là nhà nước kiểu mới không
mang tính giai cấp trong thời đại công nghiệp hiện nay như một số học giả tư
sản đã từng tuyên bố.
Qua thực tiễn tồn tại và phát triển của lịch sử nhân loại, qua nghiên cứu các
quan điểm tư tưởng về tổ chức, xây dựng và vận hành của bộ máy nhà nước qua
các thời kỳ lịch sử, chúng tôi cho rằng, khái niệm nhà nước pháp quyền đề cập
đến phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước nói chung
thông qua hệ thống pháp luật, như hiến pháp, luật và các văn bản pháp quy
khác. Nói cách khác, nhà nước pháp quyền là nhà nước được xem xét dưới góc
độ pháp luật, trong đó tính tối cao của pháp luật được tôn trọng, các tư tưởng và
hành vi chính trị, tôn giáo... của bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào cũng được giới
hạn bởi khuôn khổ pháp luật và chịu sự điều chỉnh của pháp luật.
Với cách tiếp cận này, chúng ta có thể thấy, tư tưởng về xây dựng nhà nước
pháp quyền đã có từ rất lâu trong lịch sử nhân loại và tương ứng với mỗi kiểu

nhà nước (chủ nô, phong kiến, tư sản, xã hội chủ nghĩa) đều có một hệ thống
pháp luật tương ứng và đạt mức độ phát triển khác nhau. Tuy nhiên, chúng tôi
cũng không thống nhất với quan điểm cho rằng, "bất cứ nhà nước nào có hiến
pháp, luật và các văn bản quy phạm khác nhau đều coi là nhà nước pháp quyền"
mà cần xác định rằng, tư tưởng về nhà nước pháp quyền phát triển không
ngừng, là thành quả của nhân loại, nó hình thành và phát triển cùng với sự tiến
bộ xã hội và cho đến nay đã được thế giới thừa nhận về mặt lý luận như một học
thuyết về nhà nước pháp quyền. Tại Hội nghị quốc tế về nhà nước pháp quyền
được tổ chức tại Bê-nanh, năm 1992, các luật gia đã đưa ra nhiều khái niệm,
tiêu chí về một nhà nước pháp quyền và được đông đảo dư luận quốc tế đồng
tình, bao gồm: sự thừa nhận tính tối cao của pháp luật; việc xác định quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp trong bộ máy quyền lực nhà nước; việc tôn trọng
quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng pháp luật quốc tế v.v.. Tuy
nhiên, chúng tôi cho rằng, vấn đề nhà nước pháp quyền đề cập đến phương thức
tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước dưới góc độ pháp luật, mà
pháp luật thì bao giờ cũng mang tính giai cấp và tính đặc thù của mỗi nhà nước,
mỗi dân tộc; do đó, phương thức tổ chức xây dựng và vận hành của nhà nước
pháp quyền sẽ thể hiện cụ thể khác nhau về bản chất chế độ chính trị, hệ thống
quan điểm, mục đích nhiệm vụ của từng thời kỳ phát triển hoặc điều kiện cụ thể
của mỗi nước, chứ không có mô hình, tiêu chí về nhà nước pháp quyền đồng
nhất cho tất cả các nước khác nhau.
Qua nghiên cứu sự hình thành, phát triển và các quan điểm lý luận về nhà nước
pháp quyền hiện nay, chúng ta có thể xác định, nhà nước pháp quyền là nhà
nước trong đó phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước do
pháp luật quy định và thừa nhận tính tối cao của pháp luật; bao hàm việc xác
định rõ ràng quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với hệ thống pháp luật đầy
đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều
chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội, nhất là việc bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân (hoặc con người nói chung).
Từ đó, chúng ta có thể rút ra bốn tiêu chí chung của nhà nước pháp quyền như

sau:
- Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước phải do pháp
luật quy định;
- Nhà nước và công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật (đảng phái, tổ
chức, tôn giáo... phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của pháp
luật);
- Quyền lực nhà nước được xác định gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp;
- Có hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện
vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã
hội; đặc biệt là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân (hoặc
con người nói chung).
1.2- Sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước
pháp quyền tư sản
Trên cơ sở các tiêu chí chung về nhà nước pháp quyền, chúng ta có thể nhận
thấy tương đối rõ ràng sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa với Nhà nước pháp quyền tư sản.
1.2.1 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản
đều phải thừa nhận phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà
nước do pháp luật quy định. Tuy nhiên, bản chất và nội dung pháp luật về tổ
chức, xây dựng và vận hành bộ máy của hai nhà nước đó có nhiều điểm khác
nhau rất cơ bản. Rõ nhất là, sự khác nhau trong các quy phạm của hiến pháp và
pháp luật về tổ chức, cơ cấu nhân sự và việc xây dựng, vận hành của bộ máy
quyền lực như: Quốc hội và Nghị viện; Tổng thống và Chủ tịch nước, Thủ
tướng Chính phủ, Tòa án, Tòa án Hiến pháp, v.v.. Pháp luật trong Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa thừa nhận tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, do nhân dân bầu ra các cơ quan quyền lực (Quốc hội, Chính phủ...) và chỉ
có nhân dân trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu của mình là chủ thể duy nhất
có quyền tuyên bố chấm dứt hoạt động của Quốc hội, Chính phủ hoặc tổ chức ra
Quốc hội và Chính phủ nhiệm kỳ mới. Trong khi đó, Hiến pháp và pháp luật tư

sản lại thừa nhận quyền lực của cá nhân Tổng thống hoặc cá nhân Thủ tướng có
quyền giải tán Nghị viện (Quốc hội) hoặc giải tán Chính phủ...
1.2.2 - Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước và công dân đều
phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, vì pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện
ý chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân. Trong Nhà nước pháp quyền tư
sản, nhà nước và công dân cũng phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật,
nhưng pháp luật tư sản không phải là pháp luật của toàn dân, không thể hiện đầy
đủ ý chí, nguyện vọng của toàn dân mà chỉ phản ánh ý chí, nguyện vọng của
một bộ phận nhân dân, đó là những người giàu, là giai cấp tư sản. Nói cách
khác, luật pháp của Nhà nước pháp quyền tư sản chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp
tư sản và gạt ra ngoài lề quyền lợi của người lao động - những người bị áp bức
bóc lột. Đây là nội dung khác biệt cơ bản nhất giữa Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản.
1.2.3 - Nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết "tam quyền phân lập" là học
thuyết cơ bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan lập pháp,
hành pháp, tư pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực hiện ba quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không
thừa nhận việc phân chia quyền lực mà coi quyền lực nhà nước là thống nhất và
thuộc về nhân dân; trong đó, có sự phân công, phối hợp, để thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm cho quyền lực nhà nước thống
nhất, được thực hiện với hiệu quả cao nhất.
1.2.4 - Về hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
Nhà nước pháp quyền tư sản cũng có nhiều điểm khác nhau. Bên cạnh sự khác
nhau về tính giai cấp, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ công nhận các
quy phạm pháp luật khi nó được xác lập và thông qua theo một trình tự và thủ
tục nhất định; trong khi đó, Nhà nước pháp quyền tư sản thường coi "án lệ"
hoặc "tập quán" như một loại quy phạm pháp luật "bất thành văn".
1.3- Đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngoài việc bảo đảm các tiêu

chí của nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
nói riêng, còn có một số đặc điểm sau:
1.3.1 - Về quá trình hình thành và phát triển, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được hình thành và phát triển trên cơ sở đánh đổ chế độ phong
kiến, thực dân, không kinh qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đây là
đặc điểm lịch sử rất quan trọng cho chúng ta thấy rõ điểm xuất phát của quá
trình xây dựng nhà nước cùng với những khó khăn, yếu kém của hạ tầng cơ sở
và thượng tầng kiến trúc xã hội. Qua mấy chục năm phấn đấu, xây dựng và đổi
mới phương thức tổ chức và hoạt động, đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII (1994), lần đầu tiên trong văn bản chính thức của Đảng,
chúng ta mới xác định việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
1.3.2 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây là đặc điểm rất quan trọng mà nhà nước
pháp quyền tư sản không thể có được. Thực chất đặc điểm này của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm bảo đảm tính giai cấp, tính nhân
dân của Nhà nước ta. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và do nhân
dân định đoạt, nhân dân quyết định phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành
của bộ máy quyền lực nhà nước nhằm đáp ứng ngày càng cao lợi ích của nhân
dân và của toàn bộ dân tộc. Đây còn là sự thể hiện về tính ưu việt của chế độ xã
hội chủ nghĩa so với các chế độ khác.
1.3.3 - Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan chức năng
của nhà nước để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là
phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước rất mới mẻ, chúng ta phải
lấy hiệu quả thực tiễn để kiểm nghiệm. Về nguyên tắc, chúng ta không thừa
nhận học thuyết "tam quyền phân lập" vì nó máy móc, khô cứng theo kiểu các
quyền hoàn toàn độc lập, không có sự phối hợp, thậm chí đi đến đối lập, hạn chế
sức mạnh của cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, chúng ta
cũng không thể trở lại với nguyên tắc tập quyền, tức là tập trung toàn bộ quyền

lực cao nhất của nhà nước lập pháp, hành pháp và tư pháp cho một cá nhân,
hoặc một cơ quan tổ chức nhà nước. Bởi vì, làm như vậy là đi ngược lại lịch sử
tiến bộ của nhân loại.
Vấn đề đặt ra yêu cầu chúng ta phải nghiên cứu giải quyết đó là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có sự phân công, phân định thẩm quyền
cho rõ ràng, minh bạch để thực hiện có hiệu quả với chất lượng cao ba quyền,
tránh tình trạng chồng chéo, tùy tiện, lạm quyền...
Theo Hiến pháp và pháp luật, Quốc hội là cơ quan duy nhất được giao thực hiện
thẩm quyền lập pháp, bên cạnh đó Quốc hội còn được giao thực hiện 13 nhiệm
vụ nữa (xem Điều 2 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001); Chính phủ được phân
công thực hiện thẩm quyền hành pháp; Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án
nhân dân tối cao được phân công thực hiện thẩm quyền tư pháp. Như vậy,
Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao không phải
là cơ quan được giao nhiệm vụ lập pháp, nhưng hiện nay Luật Tổ chức Chính
phủ, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân lại
quy định các cơ quan đó trình các dự án luật, pháp lệnh trước Quốc hội và Ủy
ban Thường vụ Quốc hội. Có ý kiến cho rằng, không nên giao cho Chính phủ,
Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao chủ trì soạn thảo và trình Quốc
hội các dự án luật, pháp lệnh, vì đây là thẩm quyền của Quốc hội và Ủy ban
Thường vụ Quốc hội; hơn nữa, khái niệm lập pháp phải bao hàm toàn bộ nội
dung của quá trình soạn thảo dự án luật, thông qua và ban hành luật, có như vậy
mới bảo đảm tính khách quan toàn diện và chất lượng văn bản pháp luật.
1.3.4 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Một trong số những nội dung cơ bản nhất
của nguyên tắc tập trung dân chủ là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục
tùng cấp trên. Tập trung dân chủ được thể hiện trong quá trình tổ chức và xây
dựng bộ máy quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, khi áp dụng nguyên tắc này cần
cân nhắc, xem xét các điều kiện cần và đủ để phát huy tác dụng, hiệu quả tích
cực của nguyên tắc này; đặc biệt phải lưu ý đến quyền hạn và trách nhiệm cá
nhân trong việc thực hiện công vụ của bộ máy công quyền hiện nay.

1.3.5 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có trách nhiệm bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, công dân phải làm tròn nghĩa vụ
của mình đối với Nhà nước và xã hội. Mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước với
công dân, giữa dân chủ với kỷ cương trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam phải do pháp luật quy định và điều chỉnh. Đây là một đặc điểm
quan trọng, xuyên suốt trong toàn bộ quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
hiện nay và phải được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.3.6 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý xã hội chủ yếu
bằng pháp luật, không ngừng tăng cường và đổi mới công tác lập pháp, hành
pháp và tư pháp; đồng thời, thường xuyên quan tâm đến việc tuyên truyền, giáo
dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân.
1.3.7 - Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đây
là đặc điểm nổi bật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
Hiến pháp ghi nhận và nhân dân Việt Nam đồng tình ủng hộ. Đảng lãnh đạo
Nhà nước thông qua cương lĩnh, đường lối, chính sách được thể chế bằng pháp
luật. Đảng không làm thay Nhà nước và phải hoạt động trong khuôn khổ của
Hiến pháp và pháp luật. Đảng không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của
mình nhằm tạo điều kiện cho bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả, đặc biệt
trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, Đảng không ngừng đổi mới công tác tổ chức và xây dựng bộ máy để
bảo đảm Đảng vẫn giữ được vai trò lãnh đạo Nhà nước, nhưng không chồng
chéo với các cơ quan chức năng tương ứng trong bộ máy của Quốc hội, Chính
phủ và các cơ quan tư pháp.
2.Nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới.
Nhà nước ta trong những năm vừa qua đã ban hành nhiều pháp luật về thể chế
hóa đường lối của Đảng, tạo khuôn khổ pháp lý cho công cuộc đổi mới.
Có thể tóm lược bằng các cụm từ sau: Dân chủ hoá xã hội, Hợp lý hoá bộ máy
Nhà nước, Xã hội hoá các hoạt động Nhà nước (dịch vụ công), Dân doanh hoá
nền kinh tế và Pháp chế hoá.
Ta xem xét những vấn đề này trong thực tế.

2.1Dân chủ hoá xã hội
Xã hội ta là xã hội dân chủ: "Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn
đều của dân", "quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Cuộc vận động xây
dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở xã, phường, ở cơ quan, ở doanh
nghiệp đã được triển khai rộng rãi, thực hiện tích cực đã mang lại những kết quả
tốt bước đầu. Nhưng còn cần phải làm nhiều hơn, mạnh hơn nữa.
Điều nhức nhối hiện nay là tệ nạn quan liêu, tham nhũng phát triển. Trên thực tế
không phải tất cả các lợi ích đều vì dân. Số không nhỏ người có chức, có quyền
đang chiếm đoạt tài sản quốc gia và tài sản nhân dân. Tham nhũng đã thành
quốc nạn.
Thực tế chưa phải tất cả quyền hạn đều của dân, một mặt, cuộc đấu tranh chống
quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, quấy nhiễu, ức hiếp nhân dân chưa kiên
quyết, triệt để, mặt khác, còn thiếu cơ chế, thiếu những quy định để đảm bảo
quyền làm chủ của nhân dân.
2.2Hợp lý hoá bộ máy Nhà nước
Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, Hội đồng nhân dân các cấp
là cơ quan quyền lực Nhà nước ở các địa phương đã có những đổi mới về tổ
chức và hoạt động có hiệu quả và thiết thực, thể hiện dân chủ đại diện ngày
càng có thực chất. Nhưng đây cũng chỉ là bước đầu, còn nhiều mặt phải đẩy
mạnh hơn nữa...
Bộ máy hành chính Nhà nước đã có những đổi mới về tổ chức và hoạt động, cải
cách hành chính bước đầu có kết quả, nhưng phải tiến hành mạnh mẽ hơn theo
hướng xác định rõ chức năng nhiệm vụ không chồng chéo nhưng không bỏ sót
nhiệm vụ, đẩy mạnh việc phân cấp giữa Trung ương và địa phương.
Bộ máy xét xử còn ít đổi mới tổ chức và hoạt động, còn nhiều vi phạm. Nạn tiêu
cực, tham nhũng trong các cơ quan xét xử cũng đáng báo động.
2.3Xã hội hóa một số lĩnh vực hoạt động của Nhà nước (dịch vụ công)
Luật khoa học và công nghệ ra đời phát huy khả năng đầu tư không chỉ của Nhà
nước mà của các thành phần kinh tế, tạo thuận lợi cho sự đóng góp của trí thức,
của nhà đầu tư vào khoa học và công nghệ.

Cần mở rộng cơ hội đầu tư của dân, xã hội hóa một số lĩnh vực hoạt động từ
trước tới nay thuộc Nhà nước, nay cần tạo điều kiện và khuyến khích kinh tế
dân doanh phát triển không chỉ trong các ngành sản xuất và dịch vụ thông
thường mà cả trong một số lĩnh vực dịch vụ công cộng như y tế, giáo dục, vệ
sinh môi trường, giao thông công cộng đô thị bảo trì và phát triển các công trình
phúc lợi công cộng, tư vấn, bảo hiểm, kiểm toán, kể cả một số công việc dịch vụ
trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp của Nhà nước. Đây là một chủ 1
trương, biện pháp thúc đẩy tiến trình xã hội hoá, mở rộng và nâng cao chất
lượng dịch vụ công đi đôi với chính sách bảo đảm cho người nghèo có điều kiện
hưởng thụ các dịch vụ phúc lợi thiết yếu.
Có lẽ đã đến lúc cần phải thay đổi tư duy cũ bằng một tư duy mới là trong tất cả
mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội, các thành phần kinh tế đều có thể tham gia
theo khả năng và theo pháp luật, không có một lĩnh vực nào là "vùng cấm địa",
hoặc chỉ dành riêng cho hoạt động của cơ quan Nhà nước.
2.4Dân doanh hoá nền kinh tế
Chúng ta không chủ trương tư nhân hóa, nhưng dân doanh hóa, mở rộng và phát
triển kinh tế dân doanh, thu hẹp kinh tế Nhà nước.
Trong tổng thể các thành phần kinh tế hợp thành nền kinh tế quốc dân thống
nhất quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhân tố hàng đầu đảm bảo định hướng xã hội
chủ nghĩa là vai trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước, là hệ thống doanh nghiệp
Nhà nước. Như vậy doanh nghiệp Nhà nước phải bình đẳng với các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, nhưng phải hoạt động có hiệu quả để
làm đúng vai trò chủ đạo của mình.
Theo chủ trương trên, phải đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, thực
hiện tốt việc giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước có quy mô vừa
và nhỏ. Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới, phát triển nhằm nâng cao hiệu quả của
doanh nghiệp Nhà nước. Nâng cao quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm về tổ chức
sản xuất, kinh doanh, thực hiện chủ trương chuyển doanh nghiệp kinh doanh
100% vốn Nhà nước thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên theo
Luật Doanh nghiệp.

Đẩy mạnh việc thi hành Luật Doanh nghiệp, đơn giản tối đa mọi thủ tục hành
chính. Các cơ quan công an, kiểm soát, thanh tra Nhà nước không vào kiểm tra
tài chính, kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp, trừ trường hợp phát hiện doanh
nghiệp có dấu hiệu vi phạm pháp luật, nếu kết quả kiểm tra doanh nghiệp không
có vi phạm pháp luật thì cơ quan kiểm tra phải gánh chịu chi phí phát sinh và
phải bồi thường thiệt hại nếu có. Cấm hình sự hoá khi giải quyết các quan hệ
kinh tế, dân sự.
2.5 Pháp chế hoá đường lối, chính sách của Đảng.
Một xã hội văn minh là sống và làm việc theo pháp luật. Nói cách khác là tất cả
mọi mặt của xã hội ta phải theo pháp luật. Không có pháp luật thì mọi quan hệ
xã hội không được điều chỉnh bằng một ý chí thống nhất, xã hội không có một
trật tự kỷ cương.
Trong những năm qua, Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng về mặt này, nhưng vẫn
chưa đủ. Đặc biệt cần chú ý là việc quyết định đối với các khâu nói trên. Không
có pháp luật thì mọi quan hệ xã hội không tự thân nó đi vào cuộc sống xã hội
được.
Trong thế kỷ XXI, khoa học và có thực thi pháp luật còn rất yếu đối với những
cơ quan, cá nhân có thẩm quyền và có trách nhiệm.
Pháp chế hóa là khâu có tính chất công nghệ sẽ có những bước nhảy vọt chưa
từng thấy. Kinh tế tri thức sẽ chiếm vị trí ngày càng lớn trong quá trình phát
triển. Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan ngày càng có nhiều nước tham
gia. Thế giới chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu
cực vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh.
Đất nước ta đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn. Thành tựu của mười lăm
năm đổi mới, tình hình chính trị - xã hội ổn định, quan hệ hợp tác quốc tế thuận
lợi. Đó là cơ hội lớn để phát triển đi lên. Song cũng có những thách thức lớn.
Đó là bốn nguy cơ: tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa,
quan liêu, tham nhũng, diễn biến hoà bình. "Bốn nguy cơ mà Đảng ta từng cảnh
báo vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp Chúng đan xen và tác động lẫn nhau,
không thể xem nhẹ nguy cơ nào" (Dự thảo báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần

thứ IX).
Đẩy lùi bốn nguy cơ, thách thức lớn, nắm lấy cơ hội là phải tiếp tục đổi mới, đổi
mới nhanh hơn và mạnh mẽ hơn. Đổi mới không chỉ là sửa chữa sai lầm, điều
chỉnh một số chính sách, pháp luật cho phù hợp, mà là một sự thay đổi về chất,
có tính bước ngoặt trong tư duy và trong phương pháp lãnh đạo, quản lý. Đổi
mới Toàn diện, trước hết là trong lĩnh vực kinh tế, phải tạo ra sự chuyển đổi căn
bản từ nền kinh tế dựa trên công hữu tư liệu sản xuất với hai hình thức sở hữu
toàn dân và sở hữu tập thể sang nền kinh tế nhiều thành phần, Nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, mở cửa với thị trường thế giới. Trước mắt cần đẩy mạnh việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế.
Điều rất quan trọng là phải ban hành kịp thời, đồng bộ các văn bản hướng dẫn
thi hành luật để luật thực sự đi vào cuộc sống.
Bởi rào cản chủ yếu hiện nay làm cho pháp luật chưa đi vào cuộc sống là thiếu
cơ chế thực hiện pháp luật.
Cùng với việc đổi mới kinh tế, tất yếu phải đổi mới thể chế, tổ chức bộ máy Nhà
nước cho phù hợp. Phát huy dân chủ, chống quan liêu, tham nhũng, xây dựng
Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Sức mạnh của Nhà nước ta là ở dân, dân như nước có thể nâng thuyền và có thể
lặt thuyền. Cần ban hành Luật giám sát của nhân dán. Nhà nước ta có nhiều cơ
quan, tổ chức kiểm tra, giám sát, nhưng giám sát của nhân dân là rộng rãi nhất,
sát sao và thiết thực nhất và có hiệu quả (đây là hình thức giám sát trực tiếp của
dân).
Trên đây là những lĩnh vực, vấn đề chính yếu, có tính then chốt trong đổi mới
cần tập trung nghiên cứu, giải quyết để tạo điều kiện và thúc đẩy trong tổng thể
của công cuộc đổi mới về Nhà nước và Pháp luật làm hành trang vào thế kỷ
XXI.
3.Vai trò của nhà nước trong thời kỳ mới
Vai trò của nhà nước nằm hầu khắp trên các lĩnh vực về văn hóa,chính trị,kinh
tế,giáo dục,đời sống-xã hội…Nhưng trong phần vai trò của nhà nước trong thời
kỳ đổi mới tôi chỉ nêu ra ba vai trò mà tôi cho rằng:những vai trò này là cơ bản

và hết sức quan trọng trong thời đại mới của đất nước.
3.1 Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Phát huy vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay chính là cách thiết thực góp phần bảo đảm công
bằng xã hội, vì sự phát triển dân chủ, văn minh của đất nước, song vẫn giữ được
bản sắc chính trị - xã hội của dân tộc trong thời kỳ hội nhập toàn cầu.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong
những vấn đề căn bản của triết lý phát triển ở Việt Nam hiện nay. Không phải
đến khi khủng hoảng tiền tệ xuất phát từ Mỹ năm 2008 gây ảnh hưởng lan tỏa ra
hầu khắp thế giới như hiện nay, cùng những giải pháp cơ bản mà các nước đang
sử dụng với hy vọng ngăn ngừa những kết cục bi thảm về mặt kinh tế - xã hội
do khủng hoảng đó gây ra, chúng ta mới thấy tính phi lý của cái gọi là “thị
trường tự do”, “bàn tay vô hình”. Từ rất sớm, chúng ta đã khẳng định, nền kinh
tế mà chúng ta đang xây dựng phải có sự quản lý của Nhà nước. Kiên trì tư
tưởng đó, tại Đại hội X, Đảng ta nhấn mạnh sự cần thiết phải “bảo đảm vai trò
quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”(2).
Ở Việt Nam hiện nay, vai trò của Nhà nước đối với kinh tế không chỉ xuất phát
từ yêu cầu phổ biến của quá trình phát triển kinh tế thị trường, mà còn xuất phát
từ tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bài viết
này chỉ tập trung vào khía cạnh thứ hai vừa nêu.
Thị trường, kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ giữa người với người trong
sản xuất, trao đổi và tiêu dùng, nên mang đậm dấu ấn của quan hệ xã hội, của
thể chế chính trị mà nền kinh tế đó tồn tại. Với mức độ đáng kể, sự phát triển
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay bị chi phối và nhằm phục vụ cho định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên, nhân tố sâu xa bảo đảm định hướng
chính trị đối với kinh tế là đường lối, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng
Cộng sản cầm quyền. Song, để đường lối, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của
Đảng biến thành hiện thực vận động của nền kinh tế, chúng phải được thể chế
hóa thành hệ thống pháp luật, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

và được triển khai bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước, dưới sự quản lý của
Nhà nước do Đảng lãnh đạo. Xét từ giác độ đó, Nhà nước có tác động trực tiếp
nhất tới việc định hướng sự vận động của kinh tế thị trường. Pháp luật, chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước chỉ đúng, khi chúng
phản ánh chính xác yêu cầu phát triển khách quan của thị trường, lấy quy luật
thị trường làm cơ sở. Xét ở mặt này, chúng mang tính khách quan. Nhưng
chúng lại là sự thể chế hóa, cụ thể hóa mục tiêu chính trị của Đảng, nên cũng có
mặt chủ quan. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, định hướng chủ quan (ý chí của Đảng, của Nhà nước và nhân dân
ta) là ở chỗ, cùng với việc bảo đảm lợi ích hợp lý của doanh nhân, thì việc ưu
tiên bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động là một vấn đề có
tính nguyên tắc. Nhà nước có cơ chế, chính sách để bảo đảm sự ưu tiên đó, thể
hiện ở cả ba lĩnh vực kinh tế cơ bản sau:
3.1.1Trên lĩnh vực sở hữu: Sự tồn tại của ba chế độ sở hữu (sở hữu toàn dân, sở
hữu tập thể, sở hữu tư nhân), ba hình thức sở hữu (hình thức sở hữu nhà nước,
hình thức sở hữu tập thể, hình thức sở hữu tư nhân) là một đòi hỏi khách quan
của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Nhà nước thông qua hệ thống
chính sách, pháp luật, đòn bẩy kinh tế để định hướng, làm cho kinh tế nhà nước
từng bước vươn lên nắm vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể
tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
3.1.2 Trên lĩnh vực quản lý: Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách... tạo điều
kiện thuận lợi cho người lao động trực tiếp hay thông qua các khâu trung gian
nhất định tham gia quá trình hoạch định, tổ chức, giám sát, kiểm tra việc thực
hiện các kế hoạch phát triển của doanh nghiệp.
3.1.3 Trên lĩnh vực phân phối: Nhà nước vừa thông qua hệ thống chính sách
kinh tế do mình hoạch định, vừa sử dụng các nguồn lực - trực tiếp là bộ phận
kinh tế nhà nước - để định hướng, can thiệp vào lĩnh vực phân phối và phân
phối lại theo hướng ưu tiên phân phối theo lao động và qua phúc lợi xã hội; kết
hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội; hoạch định các chính
sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa...

Đặc biệt, trong sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, Nhà nước có vai trò to
lớn trong việc bảo đảm sự ổn định vĩ mô cho phát triển và tăng trưởng kinh tế.
“ổn định” ở đây thể hiện sự cân đối, hài hòa các quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa

×