ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
**********
NGUYỄN MAI HƢƠNG
VI PHẠM PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH
VỰC HẢI QUAN VÀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
**********
NGUYỄN MAI HƢƠNG
VI PHẠM PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH
VỰC HẢI QUAN VÀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
Chuyên ngành
: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số
: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS Phạm Hồng Thái
Hà Nội – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
LỜI CÁM ƠN
Lời đầu tiên của Luận văn tôi xin gửi lời cám ơn chân thành nhất tới
tất cả những người đã hỗ trợ ,giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện Luận văn
này.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS. TS. Phạm Hồng
Thái đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi thực hiện luận văn.
Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban Chủ nhiệm Khoa, các thầy,
cô giáo Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong
quá trình học tập tại đây.
Cũng xin gửi lời cám ơn tới các đồng nghiệp đang công tác tại Tổng cục
Hải quan đã giúp đỡ tôi hoàn thành Luận văn này.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã
luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày 16 tháng 10 năm 2014
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu của đề tài 2
3. Tình hình nghiên cứu 3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5
6. Kết cấu của luận văn 5
CHƢƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN 7
1.1. Vi phạm hành chính 7
1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính 7
1.1.2. Các dấu hiệu và yếu tố cấu thành vi phạm hành chính 9
1.2. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan 10
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan 10
1.2.2. Các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan 13
CHƢƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT, TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT, VI
PHẠM VÀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH LĨNH VỰC HẢI QUAN 27
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
Hải quan 27
2.1.1. Pháp luật xử phạt vi phạm hành chính về hải quan từ những ngày đầu thành lập đất nƣớc 1945 đến
1959 27
2.1.2. Pháp luật về xử lý vi phạm pháp hành chính về Hải quan giai đoạn 1959 đến những năm đầu thập
niên 80 thế kỷ 20. 28
2.1.3. Pháp luật về hải quan và việc xử phạt vi phạm trong thời kỳ đổi mới, mở cửa từ năm 1986 đến năm
1992. 29
2.1.4. Giai đoạn năm 1992 đến nay. 32
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan 41
2.3. Thực trạng vi phạm và xử lý vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực hải quan. 44
CHƢƠNG III: DỰ BÁO VỀ VI PHAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA, NGĂN
CHẶN VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN 51
3.1. Dự báo về tình hính, xu hƣớng vi phạm pháp luật của cá nhân, doanh nghiệp trong hoạt động
xuất khẩu, nhập khẩu. 51
3.2. Giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực Hải quan. 54
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hải quan theo hƣớng minh bạch,
thống nhất 55
3.2.2. Tăng cƣờng công tác tổ chức, thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hải
quan. 56
3.2.3. Đánh giá sự tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện pháp luật hải quan. 58
3.2.4. Các giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm cá nhân, doanh nghiệp khi tham gia hoạt động xuất khẩu,
nhập khẩu 68
3.3. Một số giải pháp khác 72
KẾT LUẬN 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
TỪ VIẾT TẮT
GHI CHÚ
1
DN
Doanh nghiệp
2
GATT
Hiệp đinh chung về thuế quan và thƣơng mại
3
HQ
Hải quan
4
HS
Công ƣớc quốc tế về hệ thống điều hòa mô tả
và ma hàng hóa
5
VCIS
Chƣơng trình quản lý hàng hóa, tờ khai sử dụng
công nghệ Nhật Bản
6
VNACC
Chƣơng trình thông quan hàng hóa xuất nhập
khẩu sử dụng công nghệ Nhật Bản
7
WCO
Tổ chức Hải quan thế giới
8
WTO
Tổ chức Thƣơng mại thế giới
DANH SÁCH CÁC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
STT
KÝ HIỆU
TÊN SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Trang
Biểu 2.1
Tình hình vi phạm pháp luật hành chính Hải quan
giai đoạn 2010-2013 và 03 tháng đầu năm 2014
Biểu 2.2
Cơ cấu nhóm vi phạm pháp luật hành chính Hải
quan
Hình 3.1
Tháp tuân thủ pháp luật
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết số 07/-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Trung ƣơng Đảng về
hội nhập kinh tế, theo đó chính sách quản lý nhà nƣớc về hải quan đƣợc định
hƣớng phát triển theo xu hƣớng hội nhập quốc tế nhƣng phải giữ vững định
hƣớng xã hội chủ nghĩa. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình từng bƣớc tiến
hành tự do hóa các hoạt động kinh tế, mở cửa thị trƣờng và tham gia vào các
tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam đã và đang từng bƣớc tháo gỡ
những rào cản đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu
hàng hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc hoạt
động, giảm thiểu và dần xóa bỏ các hàng rào thuế quan, phi thuế quan và các
rào cản khác để việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa Việt Nam với các nƣớc
trên thế giới phù hợp với những quy định, cam kết quốc tế mà Việt Nam đã
ký kết, gia nhập có liên quan trực tiếp đến hoạt động hải quan. Trong xu
hƣớng chung đó, Hải quan Việt Nam đã và đang từng bƣớc đẩy mạnh cải
cách thủ tục Hải quan, hiện đại hóa hoạt động của mình nhằm đáp ứng nhu
cầu đổi mới của nền kinh tế, phục vụ tốt cho phát triển xuất nhập khẩu hàng
hóa và thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài, với phƣơng châm hành đông: “ Chuyên
nghiệp, Minh bạch, Hiệu quả”.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, dẫn đến vấn đề tất yếu là Việt Nam
phải thực hiện các cam kết trong các Hiệp định ký kết, trong đó có việc cắt
giảm mức thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhằm tạo thuận lợi cho
hàng hóa của các nƣớc đƣa vào Việt Nam và hàng hóa Việt Nam xuất khẩu ra
nƣớc ngoài. Với việc cắt giảm thuế tạo thuận lợi cho hoạt động thƣơng mại
phát triển sẽ làm tăng số lƣợng các đối tƣợng tham gia hoạt động xuất nhập
khẩu cũng nhƣ khuyến khích phát triển đa dạng về chủng loại cũng nhƣ các
2
loại hình. Kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hàng hóa sẽ tăng lên nhanh chóng
và các chủ thể tham gia hoạt động xuất nhập khẩu cũng tăng lên góp phần vào
tăng trƣởng kinh tế đất nƣớc. Trong quá trình tham gia hoạt động kinh doanh
xuất nhập khẩu hàng hóa, bên cạnh các tổ chức, cá nhân luôn chấp hành tốt
pháp luật nhà nƣớc nói chung và pháp luật Hải quan nói riêng vẫn còn không
ít các chủ thể lợi dụng kẽ hở trong hệ thống pháp luật, trong thực thi quản lý
nhà nƣớc về hải quan để thực hiện hành vi buôn lậu, vận chuyển hàng cấm,
trốn thuế, buôn bán vận chuyển hàng giả hàng kém chất lƣợng, vi phạm sở
hữu trí tuệ… Đặc biệt tình hình vi phạm pháp luật hành chính trong quá trình
tham gia hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa, đầu tƣ nƣớc ngoài vào Việt
Nam của các tổ chức, cá nhân liên quan đến lĩnh vực hải quan ngày một
nhiều, số vụ vi phạm ngày càng tăng, thủ đoạn ngày một tinh vi.
Vì vậy, vấn đề bức xúc, cấp bách hiện nay đƣợc quan tâm đặt ra là phải
nghiên cứu đánh giá, xác định một cách khái quát, cũng nhƣ cụ thể về các loại
hình vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực hải quan hiện nay, từ đó
đƣa ra những kiến nghị để xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh,
thống nhất góp phần ngăn chặn, phòng chống những hành vi vi phạm pháp
luật hành chính trong hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa cũng nhƣ hoạt
động đầu tƣ nƣớc ngoài vào Việt Nam.
Xuất phát từ những vấn đề nhƣ vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “ Vi
phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực hải quan và biện pháp ngăn chặn”.
2. Mục tiêu của đề tài
- Hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật
hành chính nói chung và trong lĩnh vực hải quan nói riêng;
- Nghiên cứu thực trạng về các loại hình vi phạm pháp luật hành chính
trong lĩnh vực hải quan;
3
- Đề xuất, kiến nghị các giải pháp chủ yếu để hoàn thiện pháp luật góp
phần ngăn chặn, phòng ngừa những hành vi vi phạm pháp luật hành chính
trong lĩnh vực hải quan.
Kết quả nghiên cứu có thể đƣợc dùng nhƣ tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu khoa học, giảng dạy, học tập và thực tiễn áp dụng vấn đề này với
ngành Hải quan.
3. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, tại Việt Nam nói chung và trong ngành hải quan nói riêng đã có
một số công trình nghiên cứu về pháp luật hải quan và xử lý vi phạm hành
chính. Tiêu biểu là: "Tìm hiểu về xử phạt vi phạm hành chính", của tác giả Phạm
Dũng - Hoàng Sao; Luận án tiến sĩ khoa học luật mã số 5.05.01, Hà Nội - 1996,
đề tài "Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về hải quan ở nước ta hiện nay", của tác
giả Vũ Ngọc Anh – Phó Tổng cục trƣởng Tổng cục Hải quan; Đề tài khoa học
"Nghiên cứu một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành
chính về hải quan theo yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế", của thạc sĩ Phùng
Thị Bích Hƣờng-Vụ Trƣởng Vụ Pháp chế Tổng cục Hải quan; Đề tài khoa
học "Trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế đối với các hành vi vi phạm
pháp luật hải quan về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu", của tác giả Đào Thịnh
Vinh; Đề tài khoa học: “ Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
công tác cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế trong lĩnh vực xuất,
nhập khẩu hàng hóa.”, của tác giả thạc sĩ Vũ Văn Hải. Nhìn chung tất cả các
công trình trên chủ yếu đề cập đến hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm, thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, hoặc quản lý Nhà
nƣớc bằng pháp luật trong lĩnh vực hải quan.
Hay một số đề tài luân văn thạc sĩ đã bảo vệ tại Khoa Luật – Đại Học
Quốc gia Hà Nội nhƣ “Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan”,
4
của tác giả An Đắc Hùng viết về vấn đề công tác xử lý vi phạm hành chính và
các biện pháp cƣỡng chế trong thi hành xử phạt vi phạm hành chính; Đề tài:
“Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan- qua thực tiễn thành phố
Hải Phòng” của tác giả Vũ Anh Xuân viết về về công tác xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan qua thực tiễn xử lý vi phạm hành chính tại
thành phố Hải Phòng
Ngoài ra còn có một số bài nghiên cứu trên Tạp chí Luật học, Tạp chí
Nghiên cứu Hải quan, cũng nhƣ một số chuyên đề giảng dạy môn Xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực Hải quan của Trƣờng Hải quan Việt Nam, đấu
tranh chống tội phạm trong lĩnh vực hải quan của Tổng cục hải quan cũng có
đề cập đến vi phạm pháp luật về hải quan nhƣng ở mức độ sơ lƣợc, chƣa tập
trung đi sâu nghiên cứu các loại hình vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh
vực hải quan.
Chính vì vậy, luận văn này là công trình nghiên cứu tƣơng đối đầy đủ
và toàn diện về các loại hình vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực hải
quan, luận văn thực hiện các nội dung sau:
- Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về vi phạm pháp luật hành
chính nói chung và trong lĩnh vực hải quan nói riêng để đƣa ra các luận cứ
khoa học và những lý giải mang tính lý luận, mô tả các dấu hiện, các loại
nhóm hành vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực Hải quan. Làm cơ sở
để cán bộ công chức thực thi nghiên cứu xác định hành vi, lập biên bản xử
phạt và thực hiện các biện pháp xử lý;
- Nêu những thực trạng về vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực
hải quan, thực trạng của từng nhóm vi phạm cũng nhƣ những qui định mang
tính nguyên tắc, phân tích đánh giá các loại hành vi vi phạm. Từ đó đƣa ra
những dự báo về tình hình và xu hƣớng vi phạm vi phạm pháp luật của cá
5
nhân, doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu;
- Đƣa ra một số đề xuất, phƣơng hƣớng, giải pháp cụ thể nhằm hoàn
thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan, những giải
pháp giúp phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm pháp luật hành chính về hải quan.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: là những vấn đề lý luận và các loại vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hải quan, các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi một luận văn tốt nghiệp và với tất
cả khả năng cho phép, ngƣời viết luận văn cố gắng nghiên cứu một cách tổng
quát về những vấn đề cơ bản thuộc nội dung của pháp luật về vi phạm pháp
luật hành chính trong lĩnh vực Hải quan dƣới góc độ lý luận và thực tiễn ban
hành, áp dụng và thi hành các quy định của pháp luật.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu, trên cơ sở phƣơng
pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin là phép duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, tƣ tƣởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và nhà
nƣớc ta về xử lý vi phạm pháp luật làm cơ sở, Luận văn sử dụng các phƣơng
pháp cụ thể: phƣơng pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phân tích và tổng
hợp, phƣơng pháp luật học so sánh, phƣơng pháp điều tra, khảo sát thực tiễn.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật hành chính
trong lĩnh vực hải quan.
6
Chương 2: Thực trạng vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực hải
quan.
Chương 3: Dự báo về vi phạm pháp luật và các giải pháp phòng ngừa,
ngăn chặn vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực Hải quan.
7
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT
HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC HẢI QUAN
1.1. Vi phạm hành chính
1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến trong
đời sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội của nó thấp hơn so với tội
phạm nhƣng hành vi vi phạm hành chính là hành vi gây thiệt hai hoặc đe dọa
gây thiệt hai cho lợi ích của Nhà nƣớc, tập thể, lợi ích cá nhân cũng nhƣ lợi
ích chung của toàn thể cộng đồng. Trong bất kỳ xã hội nào cũng luôn tồn tại
và tiềm ẩn trong nó những vi phạm pháp luật nói chung, vi phạm pháp luật
hành chính nói riêng. Để xã hội có thể ổn định và phát triển đƣợc theo đúng
định hƣớng đã định, Nhà nƣớc luôn phải tác động lên các quan hệ xã hội bằng
một hệ thống các quy tắc quản lý nhà nƣớc đƣợc quy định trong các văn bản
quy phạm pháp luật. Các hành vi vi phạm diễn ra hàng ngày trong đời sống xã
hội, từ những hành vi vi phạm nhỏ nhƣ vứt rác không đúng nơi quy định đến
những hành vi vi phạm có tính chất, mức độ lớn hơn nhƣ điều khiển mô tô, xe
máy đi vi phạm luật giao thông đƣờng bộ, hoặc những hành vi vi phạm trong
hoạt động sản xuất kinh doanh, những vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi
trƣờng, đất đai, lĩnh vực quốc phòng, lĩnh vực hình sự Vậy vi phạm pháp
luật là gì?
Với những dấu hiệu cơ bản của nó, chúng ta có thể hiểu vi phạm pháp
luật là hành vi xác định của cá nhân hoặc tổ chức, trái với các quy định (yêu
cầu) của pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật xác lập và
bảo vệ, hành vi trái pháp luật đó chứa đựng lỗi của chủ thể thực hiện hành vi
đó và cuối cùng là chủ thể thực hiện hành vi đó phải là ngƣời có năng lực
trách nhiệm pháp lý.
8
Hiện nay, các vi phạm pháp luật trong xã hội rất đa dạng, nhƣng theo
những tiêu chí phân loại nhất định, có thể chia chung thành các loại vi phạm
nhƣ sau: Vi phạm pháp luật hình sự, vi phạm pháp luật hành chính, vi phạm
pháp luật dân sự Trong các loại vi phạm nói trên thì vi phạm pháp luật hình
sự là nguy hiểm cho xã hội lớn hơn so với các vi phạm pháp luật khác, vi
phạm hành chính có thể coi là loại vi phạm xảy ra khá phổ biến trong đời
sống xã hội, kinh tế hiện nay.
Những hành vi vi phạm pháp luật hành chính thƣờng đƣợc thể hiện rất
đa dạng phong phú trong hầu hết các lĩnh vực quản lý Nhà nƣớc, nhƣng tựu
trung lại chúng có một số đặc điểm sau:
- Vi phạm hành chính là hành vi xâm hại đến trật tự quản lý Nhà nƣớc,
ảnh hƣởng đến trật tự hành chính đang đƣợc duy trì và bảo vệ, làm ảnh hƣởng
đến hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nƣớc trong các lĩnh vực . Tuy nhiên tính
chất, mức độ xâm hại của hành vi mặc dù nguy hiểm cho xã hội nhƣng chƣa
đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự nên hành vi đó không phải là tội
phạm hình sự theo quy định của Bộ Luật hình sự.
- Chủ thể thực hiện hành vi này là cá nhân hoặc tổ chức. Đối với tổ
chức, thì hành vi thực hiện bởi cá nhân nhƣng dƣới danh nghĩa tổ chức (do tổ
chức phân công, giao nhiệm vụ, hoặc thực hiện hành vi nhân danh tổ chức);
- Hành vi do tổ chức, cá nhân thực hiện với lỗi cố ý hay vô ý. Chỉ
những hành vi trái pháp luật hành chính nào đó đƣợc chủ thể thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý mới có thể là hành vi vi phạm pháp luật hành chính.
- Hành vi vi phạm của cá nhân, tổ chức đƣợc quy định trong một văn
bản quy phạm pháp luật thì bị xử phạt vi phạm hành chính.
Từ những nội dung trên, có thể hiểu vi phạm hành chính là hành vi do
cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm các quan hệ xã
9
hội trong quản lý nhà nước do pháp luật quy định, mà chưa đến mức phải
truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt
vi phạm hành chính.[16]
1.1.2. Các dấu hiệu và yếu tố cấu thành vi phạm hành chính
Để xác định một hành vi xảy ra có phải là vi phạm hành chính hay
không, cần xác định các dấu hiệu pháp lí của các yếu tố cấu thành của vi
phạm hành chính. Những dấu hiệu này đƣợc mô tả trong các văn bản quy
phạm pháp luật quy định về vi phạm hành chính, hình thức và biện pháp xử lý
thuộc lĩnh vực này. Nó đƣợc cấu thành bởi các yếu tố sau:
- Về mặt khách quan của hành vi vi phạm hành chính bao gồm các dấu
hiệu: hành vi, tính trái pháp luật của hành vi, hậu quả thiệt hại mà hành vi gây
ra cho xã hội, quan hệ nhân quả, thời gian, địa điểm, phƣơng tiện vi phạm
Vi phạm hành chính cũng nhƣ mọi vi phạm pháp luật khác trƣớc hết
phải là hành vi, nó chỉ đƣợc thực hiện bởi hành vi. Hành vi có thể đƣợc thực
hiện dƣới hình thức hành động hoặc không hành động
Vi phạm hành chính phải là hành vi trái pháp luật nói cách khác đó là
là hành vi của tổ chức hoặc cá nhân xâm phạm đến các quy tắc quản lý nhà
nƣớc và đã bị pháp luật hành chính ngăn cấm. Việc ngăn cấm đƣợc thể hiện
bằng các quy phạm pháp luật quy định về xử phạt vi phạm hành chính. Nghĩa
là hành vi đó đƣợc thực hiện ngƣợc với yêu cầu của quy phạm pháp luật.
Nhƣ vậy khi xem xét đánh giá hành vi của cá nhân hay tổ chức có phải
là vi phạm hành chính hay không, bao giờ cũng phải có những căn cứ pháp lý
rõ ràng xác định hành vi đó đƣợc pháp luật quy định là sẽ bị xử phạt bằng các
biện pháp xử phạt hành chính.
- Về mặt chủ quan: đó chính là dấu hiệu lỗi của chủ thể vi phạm. Vi
10
phạm hành chính phải là hành vi có lỗi thể hiện dƣới hình thức lỗi cố ý hoặc
lỗi vô ý.
- Chủ thể vi phạm hành chính: ở đây chính là các tổ chức hoặc cá nhân
có năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành
chính.
- Khách thể của vi phạm hành chính: là cái mà vi phạm đó xâm hại, vi
phạm hành chính cũng nhƣ mọi vi phạm pháp luật khác đều xâm hại đến các
quan hệ xã hội đƣợc pháp luật bảo vệ. Trong vi phạm hành chính là hành vi vi
phạm đã xâm hại đến trật tự quản lí hành chính nhà nƣớc đƣợc pháp luật hành
chính quy định và bảo vệ.
1.2. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực
hải quan
1.2.1.1. Khái niệm
Hoạt động hải quan là một loại hoạt động kiểm tra, giám sát của Nhà
nƣớc nhằm đảm bảo quản lý nhà nƣớc đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu,
quá cảng, phƣơng tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh của cá nhân, tổ chức trong
nƣớc và nƣớc ngoài. Trên cơ sở các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đƣợc
pháp luật quy định, cơ quan Hải quan là cơ quan trực tiếp thực hiện hoạt động
kiểm tra giám sát đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, phƣơng tiện vận tải
và hành khách xuất nhập cảnh; điều tra chống buôn lậu, chống gian lận
thƣơng mại nhằm bảo hộ và thúc đẩy phát triển sản xuất trong nƣớc, tăng
sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu; thu thuế xuất khẩu bảo đảm nguồn
thu cho ngân sách nhà nƣớc, bảo vệ lợi ích hợp pháp của ngƣời tiêu dung; bảo
vệ môi trƣờng; góp phần bảo vệ lợi ích chủ quyền kinh tế và an ninh quốc gia;
trật tự, an toàn xã hội. Từ hoạt động nói trên các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm
11
quyền phải xây dựng, ban hành ra các văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan
Hải quan phải xây dựng quy trình, quy chế quản lý để điều chỉnh và triển khai
các hoạt động.
Tất cả các quan hệ nhƣ vậy trong lĩnh vực hải quan đƣợc điều chỉnh bởi
các quy phạm pháp luật quy định trong nhiều văn bản quy phạm khác nhau
nhƣng có liên quan chặt chẽ với nhau lập nên tổng thể các quy phạm luật đặc
biệt điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực quản lý nhà nƣớc về hải
quan, tức là điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện
các biện pháp quản lý nhà nƣớc đối với các hoạt động xuất khẩu và xuất –
nhập cảnh. Tổng thể các quy phạm pháp luật đó có thể coi là các quy phạm
pháp luật về hải quan. Các quy phạm pháp luật về hải quan quy định cho các
bên tham gia các quan hệ xã hội nói trên các quyền và nghĩa vụ pháp lý, trách
nhiệm của các bên nếu không thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó hoặc vi
phạm quyền của bên kia. Hiện nay các quy phạm pháp luật về hải quan quy
định quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ pháp luật về hải
quan, các chế độ quản lý về hải quan cụ thể đã đƣợc ban hành trong Luật Hải
quan và hệ thống các văn bản hƣớng dẫn dƣới Luật. Do các quy phạm pháp
luật về hải quan là các quy tắc chung bảo vệ chế độ kiểm tra, giám sát hải
quan là một trong những chế độ quản lý nhà nƣớc nên có tính chất bắt buộc
thực hiện đối với toàn xã hội.
Trong thực tế hoạt động luôn có những hành vi cố ý hay vô ý vi phạm
các quy định của Nhà nƣớc đối với các chế độ quản lý, các quy trình thủ tục
hay việc kiểm tra, giám sát của cơ quan Hải quan. Các vi phạm đó chính là
các vi phạm pháp luật hải quan, xâm phạm quá trình kiểm tra, giám sát, kiểm
soát hải quan. Các hành vi vi phạm này tùy theo tính chất, mức độ vi phạm,
đều phải bị xử phạt có hành vi bị xử lý hình sự nhƣ các hành vi buôn lậu, hay
12
vận chuyển trái phép hành hóa, hành lý qua biên giới, nhƣng đa số bị xử phạt
theo các quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính.
Xuất phát từ khái niệm vi phạm hành chính nói chung và đặc thù hoạt
động quản lý Nhà nƣớc về hải quan, khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan đƣợc hiểu nhƣ sau:
“ Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan là hành vi do cá nhân, tổ
chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, vi phạm các quy định của pháp luật
về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hải quan mà chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành
chính.”[24].
1.2.1.2. Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan
Do bản chất là vi phạm hành chính nói chung, nên vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hải quan mang đầy đủ đặc điểm chung của vi phạm hành chính
nói chung. Chúng cũng có những dấu hiệu đặc trƣng thể hiện sự xâm hại đối
với trật tự quản lý Nhà nƣớc của một loại vi phạm hành chính và cần thiết cho
việc xác định ranh giới của các loại vi phạm hành chính khác nhau. Tuy
nhiên, do đặc thù của hoạt động hải quan, các vi phạm hành chính trong lĩnh
vực hải quan có một số đặc điểm riêng có tác động nhất định đến việc xử lý
đối với các hành vi vi phạm này, đó là:
- Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan thƣờng xảy ra trong hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh. Do đó, có liên quan, chịu
nhiều tác động của yếu tố pháp luật nƣớc ngoài. Đây là đặc điểm có tác động
nhiều đến việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan do các tổ
chức, cá nhân vi phạm có thể là tổ chức hoặc công dân nƣớc ngoài, cƣ trú tại
nƣớc ngoài.
13
- Hoạt động hải quan mang tính tổng hợp, liên quan đến quy định của
nhiều đạo luật điều chỉnh các quan hệ xã hội khác nhau nhƣ: Bộ luật Hình sự,
Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thƣơng mại, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu, Luật Thuế giá trị gia tăng Do vậy, vi phạm hành chính về hải quan có
thể do nhiều cơ quan phát hiện, xử lý. Tuy nhiên, để tránh sự chồng chéo
trong việc xử lý vi phạm hành chính về hải quan, Luật hải quan đã quy định:
Trong phạm vi địa bàn hoạt động hải quan, cơ quan Hải quan chịu trách
nhiệm kiểm tra, giám sát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, phƣơng tiện vận tải
xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép
hàng hóa qua biên giới. Ngoài địa bàn hoạt động hải quan, nếu cơ quan hữu
quan phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật thì theo thẩm quyền, cơ quan đó
thực hiện việc kiểm tra, xử lý theo quy định của pháp luật. Nghị định quy
định việc xử lý vi phạm hành chính và thi hành các quyết định hành chính
trong lĩnh vực hải quan cũng quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính cho các cơ quan khác nhau nhƣ Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Quản
lý thị trƣờng
- Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan có liên quan đến nhiều
quy định mang tính chuyên ngành. Do vậy, trong một số trƣờng hợp, việc
phân biệt rõ ràng giữa vi phạm hành chính Hải quan và vi phạm hành chính
trong lĩnh vực khác là tƣơng đối khó khăn.
1.2.2. Các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hải quan
Trên cơ sở quy định của Luật Hải quan, các văn bản quy phạm hƣớng
dẫn thi hành Luật Hải quan và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan
đến hoạt động hải quan, Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày 15/10/2013 của
Chính phủ quy định việc xử phạt vi phạm hành chính và cƣỡng chế thi hành
quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan quy định cụ thể các hành vi vi
14
phạm trong lĩnh vực hải quan. Các hành vi đó đƣơc chia thành các nhóm nhƣ
sau:
- Vi phạm các quy định của pháp luật về thủ tục hải quan;
- Vi phạm các quy định của pháp luật về kiểm tra, giám sát, kiểm soát
hải quan;
- Vi phạm các quy định của pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu;
- Vi phạm các quy định pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh
hàng hóa, hành lý, ngoại hối, vàng, tiền Việt Nam, kim khí quý, đá quý, cổ
vật, văn hóa phẩm, bƣu phẩm, vật dụng trên phƣơng tiện vậ tải xuất cảnh,
nhập cảnh, quá cảnh và các tài sản khác;
- Vi phạm các quy định của pháp luật về chính sách quả lý hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu, phƣơng tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh.
Những nhóm hành vi vi phạm nêu trên và chế tài xử phạt cụ thể, tƣơng
ứng đối với các loại vi phạm hành chính đó đƣợc Chính phủ quy định tại Mục
2 Chƣơng I Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày 15/10/2013 của Chính phủ
quy định việc xử lý vi phạm hành chính và cƣỡng chế thi hành quyết định
hành chính trong lĩnh vực hải quan .Các hành vi vi phạm hành chính liên quan
đến lĩnh vực Hải quan nhƣng không đƣợc quy định tại Nghị định số
127/2013/NĐ-CP ngày 15/10/2013 của Chính phủ mà đƣợc quy định tại các
văn bản khác thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại các văn bản
đó.
Việc xử lý đối với từng hành vi vi phạm nêu trên đƣợc cắn cứ tính chất,
mức độ vi phạm các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhiều vấn đề liên quan
để quyết định mức phạt, các biện pháp xử lý kèm theo (nếu có) theo những
15
nguyên tắc xử lý đƣợc quy định tại Luật Xử lý vi phạm hành chính và các
Nghị định về xử phạt có liên quan.
Từ Điều 6 đến Điều 16 Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày
15/10/2013 quy định cụ thể về các hành vi vi phạm và hình thức xử phạt đối
với từng hành vi vi phạm. Các nhóm hành vi vi phạm đƣợc bố cục theo từng
khâu của quy trình thủ tục hải quan: tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra, giám sát, kiểm
soát hải quan. Ngoài ra Nghị định trên còn bổ sung thêm một số hành vi phát
sinh từ các quy định mới trong pháp luật về hải quan ( trong đó tập trung vào
nhóm hành vi quy định về khai hải quan, khai thiếu thuế, kiểm tra hải quan );
sửa đổi điều chỉnh việc định danh và chế tài xử phạt đối với một số hành vi vi
phạm để đảm bảo rõ ràng và phù hợp với bản chất hành vi vi phạm; loại bỏ,
gộp, tách một số hành vi của Nghị định hiện hành để áp dụng chung chế tài
xử phạt cho phù hợp với tính chất, mức độ vi phạm.
Có thể chia làm bốn nhóm hành vi vi phạm cơ bản nhƣ sau:
Thứ nhất nhóm hành vi vi phạm quy định về thời hạn làm thủ tục hải
quan, nộp hồ sơ thuế:
* Vi phạm các quy định về thời hạn làm thủ tục hải quan, nộp hồ sơ
thuế:
Đó là các hành vi vi phạm không tuân thủ quy định của Luật hải quan
và các văn bản hƣớng dẫn thi hành Luật Hải quan nhƣ: Nghị định số
154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 về hƣớng dẫn quy trình làm thủ tục hải
quan, Thông tƣ của Bộ Tài chính và các văn bản khác có quy định về thời hạn
phải làm thủ tục hải quan, nộp hồ sơ thuế nhƣ Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu; Nghị định hƣớng dẫn Luật Thƣơng mại ). các hành vi đƣợc quy định
nhƣ sau:
16
- Khai, nộp hồ sơ hai quan không đúng thời hạn quy định.
- Không nộp đúng thời hạn chứng từ thuộc hồ sơ hải quan đƣợc chậm
nộp theo quy định của pháp luật hải quan.
- Lƣu giữ hàng hóa quá cảnh trên lãnh thổ Việt Nam quá thời hạn quy
định.
- Vi phạm quy định khác về thời hạn khai thuế theo quy định của pháp
luật.
Nghị định số 127/2013/NĐ-CP đã bổ sung thêm 02 hành vi so với các
văn bản trƣớc đó là:
- Không khai báo và làm thủ tục đúng thời hạn quy định khi thay đổi
mục đích sử dụng hàng hóa đã đƣợc xác định đối tƣợng không chịu thuế,
miễn thuế, xét miễn thuế.
- Không chấp hành đúng chế độ báo cáo, cung cấp và khai báo thông
tin hàng hóa chịu sự giám sát, quản lý hải quan tại khu phi thuế quan theo quy
định của pháp luật.
Sửa đổi định danh hành vi “Khai và nộp hồ sơ hải quan không đúng
thời hạn quy định” thành: “Khai, nộp hồ sơ hải quan không đúng thời hạn quy
định” cho đúng với thực tế hành vi vi phạm.
Sửa đổi định danh hành vi “ khai điều chỉnh mức tiêu hao nguyên liệu
gia công hàng hóa để xuất khẩu, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất
khẩu không đúng thời hạn quy định” thành “khai điều chỉnh định mức sử
dụng nguyên liệu, định mức vật tư tiêu hai và tỷ lệ hao hụt nguyên liệu hoặc
vật tư gia công hàng hóa để xuất khẩu, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất
hàng xuất khẩu không đúng thời hạn quy định” cho phù hợp với quy định tại
17
Thông tƣ hƣớng dẫn về thủ tục hải quan đối với hàng hóa gia công với thƣơng
nhân nƣớc ngoài.
* Vi phạm quy định về khai Hải quan:
Gồm các hành vi vi phạm không khai hoặc khai sai nhƣng không liên
quan đến thuế:
- Không khai hoặc khai sai so với thực tế về tên hàng, chủng loại, só
lƣợng, trọng lƣợng, xuất xứ hàng hóa là hàng viện trợ nhân đạo, viện trợ
không hoàn lại đã đƣợc cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Không khai hoặc khai sai so với thực tế về tên hàng, chủng loại, số
lƣợng, trọng lƣợng, chất lƣợng, trị giá, xuất xứ hàng hóa đối với hàng hóa từ
nƣớc ngoài vào cảng trung chuyển, khu phi thuế quan hoặc từ cảng trung
chuyển, khu phi thuế quan ra nƣớc ngoài hoặc từ khu phi thuế quan vào nội
địa để gia công, sửa chữa, bảo hành, hàng hóa quá cảnh, chuyển khẩu, hàng
hóa sử dụng, tiêu hủy trong khu phi thuế quan.
- Không khai hoặc khai sai so với thực tế về tên hàng, chủng loại, xuất
xứ, số lƣợng, trọng lƣợng, chất lƣợng, trị giá đối với hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu thuộc đối tƣợng miễn thuế theo quy định của pháp luật.
- Lập và khai không đúng các nội dung trong hồ sơ thanh khoản hàng
hóa của doanh nghiệp trong khu phi thuế quan.
- Không khai nguyên liệu gia công tự cung ứng.
- Thay đổi địa chỉ cơ sở sản xuất hàng gia công mà không thông báo
cho cơ quan hải quan theo quy định của pháp luật.
Thứ hai Nhóm hành vi vi phạm các quy định của pháp luật vể kiểm tra,
giám sát, kiểm soát hải quan