ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ HOÀNG LIÊN
XÉT XỬ ÁN HÀNH CHÍNH -QUA THỰC TIỄN TỈNH LÀO CAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ HOÀNG LIÊN
XÉT XỬ ÁN HÀNH CHÍNH -QUA THỰC TIỄN TỈNH LÀO CAI
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật.
Mã số: 60 38 01 01.
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN HOÀNG ANH
HÀ NỘI – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ, trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất
cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học quốc gia Hà
Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
NGƢỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Hoàng Liên
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA XÉT XỬ ÁN HÀNH CHÍNH
1
11
1.1 . Vụ án hành chính và xét xử vụ án hành chính.
11
1.2 . Đặc thù của hoạt động xét xử án hành chính.
14
1.3 . Vai trò của xét xử án hành chính trong đời sống xã hội.
19
1.4 . Xét xử án hành chính ở một số nước trên thế giới và kinh nghiệm
cho Việt Nam.
24
1.4.1. Xét xử án hành chính ở một số nước trên thế giới.
24
1.4.2. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
30
Chƣơng 2: PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ HÀNH CHÍNH VÀ THỰC TRẠNG
XÉT XỬ ÁN HÀNH CHÍNH Ở TỈNH LÀO CAI.
34
2.1. Pháp luật về xét xử hành chính trước khi Luật TTHC 2010 ra
đời.
34
2.2. Luật TTHC 2010 ra đời và những đổi mới cơ bản về xét xử án
hành chính.
39
2.3. Thực trạng xét xử án hành chính ở tỉnh Lào Cai.
48
2.3.1. Đánh giá chung về công tác xét xử án hành chính ở tỉnh Lào
Cai.
49
2.3.2. Những vướng mắc nổi bật trong áp dụng pháp luật khi xét xử
án hành chính ở tỉnh Lào Cai.
51
2.3.3. Nguyên nhân của những khó khăn, hạn chế trong áp dụng pháp
luật khi xét xử án hành chính.
65
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
XÉT XỬ ÁN HÀNH CHÍNH Ở TỈNH LÀO CAI.
71
3.1. Phương hướng nâng cao chất lượng xét xử án hành chính.
71
3.2. Giải pháp cụ thể nâng cao chất lượng xét xử án hành chính.
77
3.2.1. Vấn đề hoàn thiện pháp luật tố tụng hành chính.
77
3.2.2. Đảm bảo tính độc lập và quyền giải thích pháp luật của Tòa án.
81
3.2.3.Tăng cường nguồn nhân lực và phương tiện cho hoạt động xét
xử án hành chính.
86
KẾT LUẬN.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
91
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
QSDĐ: quyền sử dụng đất.
TTHC: tố tụng hành chính
UBND: ủy ban nhân dân.
XHCN: xã hội chủ nghĩa.
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Hiến pháp 2013 khẳng định “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [27],
quy định này đã xác định rõ ràng, cụ thể vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân
trong bộ máy nhà nước. Lần đầu tiên Hiến pháp 2013 ghi nhận Tòa án nhân
dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp – nhánh quyền lực ngang bằng với
quyền lập pháp và hành pháp. Tòa án nhân dân là một trong các cơ quan có
quyền ra phán quyết về các tranh chấp theo quy định của pháp luật và các vấn
đề pháp lý liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Vì
vậy, quy định của Hiến pháp 2013 là cơ sở hiến định cho việc mở rộng thẩm
quyền của Tòa án trong xét xử các loại án, trong đó có xét xử án hành chính.
Với tính chất phức tạp của các khiếu kiện hành chính và thực tiễn giải
quyết các khiếu kiện hành chính cho thấy hoạt động xét xử các vụ án hành
chính rất cần thiết trong đời sống xã hội. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay
những vấn đề liên quan đến hoạt động quản lý hành chính nhà nước còn nhiều
vấn đề bất cập, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống xã hội. Vì vậy để bảo vệ
quyền lợi chính đáng của người dân, giữ gìn kỷ cương trong hoạt động quản
lý hành chính nhà nước rất cần một cơ chế hữu hiệu giải quyết các khiếu kiện
hành chính trong đó trọng tâm là hoạt động xét xử của Tòa án. Tòa án có
thẩm quyền phán quyết tính hợp pháp hoặc bất hợp pháp của quyết định hành
chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước,
khi những quyết định và hành vi đó xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp
của người dân. Đây cũng chính là một chủ trương lớn của Đảng ta gắn liền
với công cuộc đổi mới, cải cách nền hành chính quốc gia, cải cách hệ thống tư
pháp. Với những yêu cầu đã đặt ra đó, Đảng và Nhà nước ta đã có sự quan
tâm đúng mức thể hiện đầy đủ nhất chủ trương, đường lối, quan điểm về cải
2
cách tư pháp đã được xác định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Nghị quyết đã nêu
rõ quan điểm:
Mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các khiếu kiện hành
chính. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính
tại tòa án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo
đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước tòa án.
Từng bước thực hiện việc công khai hóa các bản án, trừ những bản án
hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc liên quan đến thuần
phong mỹ tục. Xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của tòa án có hiệu
lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị
xử lý theo phán quyết của tòa án phải nghiêm chỉnh chấp hành [7].
Sau khi hệ thống Toà hành chính được thành lập, ngày 21/5/1996 Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính. Lần đầu tiên trong lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật
tố tụng hành chính Việt Nam, quyền khởi kiện vụ án hành chính của người
dân để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình đã được ghi
nhận tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996. Đây là
văn bản đầu tiên đã ghi nhận Toà án có thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện
hành chính và qua những lần sửa đổi, bổ sung thẩm quyền xét xử của Toà án
đối với các khiếu kiện hành chính đã liên tục được mở rộng. Quy định trong
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính là cơ chế kiểm tra, giám sát,
giải quyết khiếu nại hành chính và giải quyết các tranh chấp hành chính bằng
con đường tư pháp. Tuy nhiên qua 14 năm áp dụng Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính đã bộc lộ những hạn chế bất cập. Một số quy định
trong Pháp lệnh mâu thuẫn với quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật đất
đai, một số quy định không phù hợp, chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng dẫn đến nhiều
3
cách hiểu khác nhau. Với chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, cùng
với việc Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều điều ước quốc tế thì việc cụ thể
hóa quy định của pháp luật tố tụng để giải quyết các khiếu kiện hành chính,
cụ thể hóa các cam kết của Việt Nam là rất cần thiết. Ngày 24/11/2010, Quốc
hội khoá XII, Kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Tố tụng hành chính (TTHC),
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2011. Sau khi Luật tố tụng hành chính có
hiệu lực pháp luật, số vụ án hành chính tăng lên nhanh chóng so với trước đây
– một trong những nguyên nhân là do những đổi mới của Luật TTHC. Luật
TTHC đã có nhiều thay đổi tiến bộ so với Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính. Luật TTHC đã tạo cơ sở pháp lý thuận lợi hơn cho người dân
trong việc khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính để bảo vệ
quyền lợi chính đáng của mình. Trong thực tiễn, việc giải quyết các vụ án
hành chính đã có rất nhiều điểm tiến bộ, các quy định của Luật TTHC đã thể
hiện tính ưu việt hơn hẳn Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
trong việc khiếu nại và khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính.
Ở các Tòa án vẫn có sự lúng túng và có nhiều cách hiểu không thống nhất
trong việc áp dụng các quy định của pháp luật khi xét xử vụ án hành chính,
nhất là đối với các địa phương miền núi, biên giới đang trong quá trình phát
triển mạnh như tỉnh Lào Cai. Thực tiễn cho thấy việc giải quyết các vụ án
hành chính còn gặp không ít khó khăn như: vấn đề xác định đối tượng khởi
kiện, xác định người tham gia tố tụng trong vụ án hành chính; về thủ tục đối
thoại trong tố tụng hành chính, về căn cứ đánh giá tính hợp pháp của quyết
định hành chính, hành vi hành chính, về cơ chế đảm bảo thi hành bản án còn
nhiều bất cập Bản thân là người đang công tác trong ngành Tòa án nên tôi
lựa chọn đề tài “Xét xử án hành chính - Qua thực tiễn tỉnh Lào Cai” làm
đề tài luận văn luật học, với mong muốn tìm hiểu sâu sắc hơn về khoa học
luật hành chính, đặc biệt là những quy định của pháp luật về việc xét xử các
4
vụ án hành chính của Tòa án. Quá trình nghiên cứu tài liệu và viết luận văn sẽ
giúp tôi có thể sẽ tích lũy được những kiến thức cần thiết phục vụ công tác
chuyên môn, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động xét xử vụ án hành
chính ở địa phương nói riêng cũng như đóng góp vào công cuộc nghiên cứu
khoa học luật hành chính nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Trước khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ra đời
cũng như hiện tại đã có rất nhiều bài viết, đề tài nghiên cứu liên quan đến tài
phán hành chính và thực tế giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam như:
“Thiết lập tài phán hành chính ở nước ta” – GS.TS Nguyễn Duy Gia (chủ
biên), Nxb Giáo dục, Hà Nội, năm 1995 – tác giả phân tích những vấn đề lý
luận, các quan điểm, nguyên tắc tổ chức Toà án hành chính ở Việt Nam; “Một
số vấn đề về tài phán hành chính ở Việt Nam”- PTS. Lê Bình Vọng, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tác giả phân tích vị trí của tài phán hành
chính trong nền hành chính quốc gia và sự cần thiết phải thiết lập hệ thống toà
án hành chính ở Việt Nam; “Tài phán hành chính ở Việt Nam”- PTS. Đinh
Văn Mậu và PTS. Phạm Hồng Thái, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1995, các
tác giả phân tích những vấn đề chung về tài phán hành chính và vấn đề xác
định thẩm quyền của toà án hành chính; “Một số vấn đề về đổi mới cơ chế
giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt Nam”- TS. Nguyễn Văn Thanh và
LG. Đinh Văn Minh, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004, nghiên cứu về vị trí, vai trò
của thiết chế toà hành chính trong cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở
Việt Nam hiện nay; “Tài phán hành chính trong bối cảnh xây dựng nhà nước
pháp quyền và hội nhâp quốc tế ở Việt Nam hiên nay” –Nguyễn Cảnh Hợp,
chủ biên PGS.TS Nguyễn Như Phát, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội 2010;
Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thanh Bình về “Thẩm quyền của
Tòa án nhân dân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính”; Luận văn
5
Tiến sĩ Luật học của tác giả Hoàng Quốc Hồng “Đổi mới tổ chức và hoạt
động của Tòa hành chính đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam hiện nay”; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Mạnh
Hùng về “Thẩm quyền xét xử hành chính của Tòa án nhân dân”. Những công
trình nói trên tập trung nghiên cứu ở khía cạnh có liên quan tới những vấn đề
chung về tài phán hành chính, thẩm quyền xét xử án hành chính của Tòa án,
cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa hành chính. Kết quả các công trình
nghiên cứu trên được sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho luận
văn.
Tuy nhiên kể từ khi Luật Tố tụng hành chính ra đời cho đến nay, vẫn
chưa có nghiên cứu thực sự cập nhật những vấn đề liên quan đến xét xử án
hành chính và đặc biệt là thông qua thực tế một địa phương. Việc nghiên cứu
chuyên sâu về xét xử án hành chính là rất cần thiết bởi từ khi Luật TTHC ra
đời đã đặt ra rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn nhất là trong bối cảnh một
địa bàn cụ thể như tỉnh Lào Cai. Đối với Tòa án các địa phương, hoạt động
xét xử án hành chính cũng đang gặp nhiều vấn đề bất cập trong quá trình áp
dụng pháp luật cũng như thiếu nguồn lực và các phương tiện vật chất khác,
đặt ra những thách thức cần được quan tâm, giải quyết kịp thời.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn:
Mục đích nghiên cứu của luận văn là:
Trên cơ sở phân tích quy định pháp luật hiện hành về xét xử án hành
chính, luận văn đi sâu vào nghiên cứu, đánh giá hoạt động xét xử án hành
chính trên địa bàn tỉnh Lào Cai, từ đó đưa ra cái nhìn tổng quát và đề xuất các
ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả xét xử án hành
chính.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn sẽ đưa ra và giải quyết các vấn đề
sau:
6
- Nghiên cứu, phân tích và đánh giá tổng hợp các quy định pháp luật
hiện hành về xét xử án hành chính, có sự so sánh giữa quy định của Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Luật tố tụng hành chính và các văn
bản pháp luật có liên quan.
- Phân tích và đánh giá thực trạng xét xử án hành chính tại tỉnh Lào Cai
– từ đó rút ra những điểm thành công, nêu lên những hạn chế trong việc áp
dụng quy định của pháp luật vào thực tiễn xét xử án hành chính, cũng như lý
giải nguyên nhân của thực trạng này.
- Từ thực tiễn đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
về xét xử án hành chính cũng như nâng cao chất lượng của xét xử vụ án hành
chính, nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức,
nâng cao vị thế, uy tín của Tòa án theo đúng tinh thần cải cách tư pháp và xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Trong khuôn khổ của luận văn Thạc sĩ luật học, luận văn tập trung
nghiên cứu quy định cụ thể của pháp luật về xét xử án hành chính, chủ yếu là
các quy định của Luật tố tụng hành chính năm 2010 và thực tiễn xét xử án
hành chính của ngành Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai trong khoảng thời gian từ
năm 2010 đến nay.
5. Điểm mới của luận văn:
Luận văn tập trung phân tích những vấn đề lý luận và pháp luật về xét
xử án hành chính một cách cập nhật nhất; Phân tích và đánh giá thực tế giải
quyết án hành chính thông qua các vụ án cụ thể đã giải quyết tại địa bàn tỉnh
Lào Cai, trên cơ sở những quy định của Luật TTHC 2010 và các văn bản
pháp luật liên quan được áp dụng trong hoạt động xét xử vụ án hành chính.
Luận văn đưa ra những phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm nâng cao
chất lượng xét xử án hành chính trong bối cảnh hiện nay.
7
6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa
Mác–Lê nin, quan điểm của Đảng, Nhà nước về tổ chức hoạt động tư pháp, về
xét xử án hành chính.
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể: tổng hợp, phân tích
khái quát những vấn đề cơ bản nhất về lý luận và thực tiễn xét xử án hành
chính, so sánh việc áp dụng Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
và Luật tố tụng hành chính. Luận văn cũng nghiên cứu thực tiễn, tổng kết số
liệu từ năm 2010 đến nay trong hoạt động xét xử án hành chính của ngành
Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai.
7. Kết cấu của luận văn:
Nội dung luận văn gồm phần mở đầu; 03 chương; kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về xét xử án hành chính.
Chương 2: Pháp luật về xét xử án hành chính và thực trạng xét xử án
hành chính ở tỉnh Lào Cai.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng xét xử án
hành chính ở tỉnh Lào Cai.
8
CHƢƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1 Vụ án hành chính và xét xử vụ án hành chính.
Ở Việt Nam, trước khi Tòa hành chính được thành lập thì vấn đề giải
quyết khiếu nại đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ
quan công quyền cũng đã được quan tâm ở mức độ nhất định. Tuy nhiên do
chịu ảnh hưởng của các nước XHCN trước đây nên trong thời kỳ này các
tranh chấp hành chính chủ yếu được giải quyết theo thủ tục giải quyết khiếu
nại hành chính mà ít được giải quyết theo thủ tục tố tụng tại Tòa án. Quy định
trong các văn bản luật cũng chỉ thừa nhận các khiếu nại hành chính mà không
thừa nhận khiếu kiện hành chính phát sinh giữa công dân, cơ quan, tổ chức
với các cơ quan công quyền.
Từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, nhu cầu của thực tiễn
đòi hỏi phải thiết lập hệ thống cơ quan tài phán hành chính độc lập để giải
quyết các tranh chấp hành chính bằng con đường tư pháp; Đáp ứng nhu cầu
đó, các chuyên gia pháp lý đã tập trung nghiên cứu và tiến hành khảo sát
thực tế các mô hình tài phán hành chính cũng như kinh nghiệm thực tiễn giải
quyết khiếu kiện hành chính trên thế giới để đưa ra mô hình phù hợp với
điều kiện thực tế ở Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá VII ngày 23/01/1995 đã quyết định về việc
thành lập Toà hành chính trong hệ thống Toà án nhân dân. Ngày 28/10/1995,
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, khoá IX, kỳ họp thứ 8
đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức Toà án
nhân dân, trong đó giao cho Toà án nhân dân chức năng xét xử các vụ án
hành chính. Khái niệm “vụ án hành chính” và “xét xử vụ án hành chính” trở
nên phổ biến trong học thuật từ đó đến nay.
9
Để phân tích và làm rõ những vấn đề liên quan đến xét xử án hành
chính, trước hết cần tìm khái niệm vụ án hành chính. Theo Từ điển Tiếng
Việt thì “vụ” là “sự việc không hay, rắc rối cần phải giải quyết”, “án” là
“tranh chấp quyền lợi cần được xét xử trước Tòa án” [43, tr1130].
Luật tố tụng hành chính 2010 và các văn bản có liên quan không có
điều luật nào quy định về khái niệm vụ án hành chính nhưng có thể hiểu một
cách chung nhất: “vụ án hành chính là vụ việc tranh chấp hành chính được
Tòa án có thẩm quyền thụ lý theo yêu cầu khởi kiện của cá nhân, tổ chức đối
với quyết định hành chính, hành vi hành chính để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ” [35, tr217].
Như vậy vụ án hành chính chỉ phát sinh khi có yêu cầu khởi kiện của
cá nhân, tổ chức đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính. Đây là
căn cứ đầu tiên để Tòa án xem xét thụ lý đơn khởi kiện nhưng không phải
trường hợp nào Tòa án thụ lý đơn khởi kiện cũng phát sinh vụ án hành
chính. Việc nhận đơn và thụ lý đơn khởi kiện phải tuân theo trình tự tố tụng
nhất định, Điều 109 Luật TTHC quy định 09 trường hợp trả lại đơn khởi
kiện. Nếu đơn khởi kiện không thuộc trường hợp quy định tại Điều 109 Luật
TTHC thì sau khi nhận đơn và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án sẽ
thông báo cho người khởi kiện biết để nộp tạm ứng án phí; nếu đơn khởi
kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết thì Tòa án chuyển đơn cho cơ quan
có thẩm quyền. Tòa án thụ lý vụ án khi nhận được biên lai thu tiền tạm ứng
án phí hoặc nếu họ thuộc trường hợp không phải nộp tạm ứng án phí. Như
vậy vụ án hành chính chỉ thực sự phát sinh ở giai đoạn này, Thẩm phán được
giao nhiệm vụ giải quyết sẽ nhận định ban đầu về tranh chấp phát sinh để có
hướng giải quyết.
Có thể nói các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội rất phong
phú, đa dạng, pháp luật quy định cụ thể về từng loại tranh chấp trong lĩnh
10
vực dân sự, kinh doanh thương mại, hành chính, do đó tùy từng loại tranh
chấp cụ thể mà xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án hay các cơ quan
hành chính Nhà nước. Để phân biệt tranh chấp hành chính với các loại tranh
chấp khác cần xác định tranh chấp hành chính là “tranh chấp phát sinh trong
các lĩnh vực khác nhau của hoạt động hành chính nhà nước” [35, tr124-125].
Tranh chấp giữa chủ thể quản lý hành chính nhà nước với đối tượng quản lý
hành chính nhà nước phát sinh khi chủ thể quản lý hành chính nhà nước sử
dụng quyền lực nhà nước xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của đối
tượng quản lý hành chính nhà nước. Việc giải quyết tranh chấp này phải
theo trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính hoặc giải quyết tại Tòa
án theo thủ tục tố tụng hành chính. Nếu các tranh chấp hành chính được giải
quyết tại Tòa án thì phát sinh vụ án hành chính, việc giải quyết vụ án hành
chính sẽ tiến hành theo trình tự thủ tục tố tụng do pháp luật quy định.
Việc trao cho Tòa án chức năng xét xử các vụ án hành chính tạo ra cơ
chế riêng, độc lập, khách quan, công khai, dân chủ, công bằng hơn để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức trước khả năng bị
xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Có quan điểm cho rằng:
Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án.
Tòa án là cơ quan duy nhất của một nước được đảm nhiệm chức năng xét
xử. Mọi bản án do các tòa án tuyên đều phải thông qua hoạt động xét xử
…[36, tr576].
Như vậy có thể hiểu theo nghĩa hẹp xét xử vụ án hành chính là việc Tòa
án đưa vụ án hành chính thuộc thẩm quyền ra xét xử công khai tại phiên tòa
khi có đủ căn cứ do pháp luật quy định; hiểu theo nghĩa rộng thì xét xử vụ án
hành chính bao gồm các hoạt động như: thụ lý vụ án hành chính, nghiên cứu
hồ sơ, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và mở phiên tòa xét xử vụ án hành
11
chính. Hoạt động xét xử vụ án hành chính phải được tiến hành theo trình tự,
thủ tục nhất định, so với việc xét xử các vụ án khác thì xét xử các vụ án hành
chính có những đặc thù như: về chủ thể trong vụ án hành chính, về đối tượng
xét xử…
Từ khi Luật Tố tụng hành chính có hiệu lực, người dân có nhiều điều
kiện thực hiện quyền khởi kiện vụ án hành chính, quy trình khởi kiện cũng
tiến bộ hơn nhằm đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tuy nhiên cho đến nay, án hành chính vẫn còn khá mới mẻ ở Việt Nam về cả
phương diện lý luận và thực tiễn xét xử so với án hình sự, dân sự, hôn nhân
gia đình vốn đã có từ lâu đời trong lịch sử tố tụng tư pháp Việt Nam. Vì vậy
nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu về xét xử án hành chính là rất cần thiết nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, cơ quan trước những
khả năng có thể bị xâm phạm bởi các quyết định hành chính, hành vi hành
chính của cơ quan công quyền. Việc xét xử vụ án hành chính có những đặc
thù nhất định xuất phát từ chủ thể và đối tượng của tranh chấp hành chính, vì
vậy việc xét xử các vụ án hành chính có những điểm khác biệt so với xét xử
các vụ án dân sự hay kinh doanh thương mại.
1.2 Đặc thù của hoạt động xét xử án hành chính.
- Thứ nhất, về đương sự trong vụ án hành chính:
Việc xét xử vụ án hành chính là xét xử các tranh chấp giữa chủ thể
quản lý hành chính nhà nước và đối tượng quản lý hành chính nhà nước phát
sinh do việc ban hành quyết định hành chính, hành vi hành chính của chủ thể
quản lý hành chính nhà nước. Một bên trong vụ án hành chính bao giờ cũng là
chủ thể quản lý hành chính nhà nước và bên còn lại là đối tượng quản lý nhà
nước. Vì vậy để bảo đảm tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, pháp
luật cho phép đối tượng quản lý hành chính nhà nước có quyền khởi kiện chủ
thể quản lý hành chính nhà nước nếu có căn cứ cho rằng quyền lợi của mình
12
bị xâm phạm bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính. Đây là điểm đặc
trưng nhất của xét xử vụ án hành chính so với xét xử các vụ án hình sự, dân
sự hoặc kinh doanh thương mại. Trong vụ án dân sự, đương sự luôn là nguyên
đơn và bị đơn thì trong vụ án hành chính, đương sự được Luật TTHC quy
định là người khởi kiện và người bị kiện. Như vậy có thể nói, xét xử vụ án
hành chính là hoạt động nhà nước đặc biệt do Tòa án thực hiện bởi người bị
kiện trong vụ án hành chính là chủ thể đặc biệt. Tính đặc biệt thể hiện ở việc,
chủ thể quản lý hành chính nhà nước trong hoạt động của mình có quyền nhân
danh nhà nước ban hành các văn bản pháp luật để đặt ra quy phạm pháp luật
hoặc mệnh lệnh cụ thể buộc đối tượng bị quản lý có liên quan phải thực hiện.
Trường hợp đối tượng bị quản lý hành chính không thực hiện có thể bị áp
dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật. Tòa án là cơ quan
xét xử chủ thể quản lý hành chính nhà nước nhưng thực tế vẫn là đối tượng
của hoạt động quản lý hành chính nhà nước, điều này sẽ ảnh hưởng không
nhỏ đến hoạt động xét xử nói chung và xét xử án hành chính nói riêng. Đây là
điểm rất khác biệt mà trong hoạt động xét xử các vụ án khác không có. Cho
đến nay, vấn đề độc lập xét xử của Tòa án với chủ thể quản lý hành chính nhà
nước vẫn chưa tìm được cách giải quyết hiệu quả nhất, còn nhiều ý kiến được
ra với mong muốn hoàn thiện pháp luật về xét xử vụ án hành chính.
Một nội dung cần nói đến là hoạt động quản lý hành chính nhà nước là
hoạt động chấp hành – điều hành, do đó sẽ tạo ra sự bất bình đẳng nhất định
giữa chủ thể quản lý hành chính nhà nước và đối tượng quản lý. Vì vậy xét xử
vụ án hành chính sẽ góp phần quan trọng tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ
giữa hai chủ thể này.
- Thứ hai, về đối tượng xét xử trong vụ án hành chính:
Đối tượng xét xử trong vụ án hành chính là các tranh chấp trong lĩnh
vực hành chính. Tranh chấp này nảy sinh từ việc chủ thể quản lý hành chính
13
nhà nước ban hành quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc
hoặc thực hiện hành vi hành chính nhằm giải quyết các vấn đề thuộc thẩm
quyền của mình. Trường hợp quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính
xâm phạm quyền và lợi ích của đối tượng quản lý hành chính thì họ có quyền
khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết. Quyết định hành chính chỉ có thể
được ban hành bởi chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Do đó quyết định
hành chính mang tính quyền lực nhà nước, điều này thể hiện ở nội dung quyết
định và các biện pháp bảo đảm thi hành quyết định. Quyết định hành chính có
thể đặt ra các quy tắc xử sự chung mang tính bắt buộc đối với các đối tượng
có liên quan trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Việc ban hành
quyết định hành chính trong một số trường hợp được tham khảo và tiếp thu ý
kiến của người dân nhưng về cơ bản quyết định hành chính luôn thể hiện ý
chí quyền lực đơn phương của chủ thể quản lý nhà nước nên dễ dẫn tới tình
trạng vi phạm. Một số trường hợp chủ thể quản lý nhà nước lợi dụng thẩm
quyền của mình ban hành các quyết định hành chính xâm phạm nghiêm trọng
đến quyền và lợi ích của chủ thể bị quản lý. Do tính chất “bất bình đẳng”
trong quan hệ giữa chủ thể quản lý nhà nước và người dân nên quyết định
hành chính, hành vi hành chính là đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính
mà không phải là các quan hệ nhân thân, tài sản như trong các vụ án dân sự.
Trong quan hệ nhân thân, tài sản, có thể được hình thành từ hai phía đương sự
hoặc trên cơ sở thỏa thuận của các bên theo nguyên tắc bình đẳng nên bất kỳ
bên nào cũng có quyền khởi kiện nếu thấy có dấu hiệu vi phạm. Tuy nhiên
trong vụ án hành chính chỉ có quyết định hành chính, hành vi hành chính do
chủ thể quản lý hành chính nhà nước thực hiện mới là đối tượng khởi kiện vụ
án hành chính.
Xét xử hành chính khác hoạt động giải quyết khiếu nại hành chính: Xét
xử thể hiện ở việc Tòa án phải mở phiên tòa, tuân theo trình tự thủ tục tố tụng
14
nhất định. Hội đồng xét xử tham gia tiến hành tố tụng trên cơ sở tiến hành các
hoạt động từ thủ tục bắt đầu phiên tòa, hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên
tòa, từ đó làm cơ sở đưa ra bản án, quyết định để giải quyết vụ án. Phiên tòa
diễn ra công khai, trên cơ sở hồ sơ vụ án và diễn biến thực tế tại phiên tòa để
Thẩm phán có căn cứ xem xét toàn diện, đầy đủ hơn việc giải quyết vụ án.
Việc giải quyết khiếu nại hành chính tuân theo quy định của Luật giải quyết
khiếu nại trong thời hạn nhất định, người giải quyết khiếu nại là chủ thể quản
lý hành chính nhà nước, trên cơ sở các quy định của pháp luật, chủ thể quản
lý hành chính nhà nước ban hành quyết định giải quyết khiếu nại hành chính.
Ngoài ra Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, hoạt động xét xử các vụ
án hành chính còn có những đặc thù riêng:
- Thứ nhất, tài phán hành chính nói chung và ngành Luật TTHC của
Việt Nam nói riêng còn rất mới so với các ngành luật khác nên pháp luật hành
chính còn nhiều bất cập hạn chế và đang trong quá trình hoàn thiện. Việt Nam
chính thức thành lập Tòa hành chính vào năm 1996, hoạt động xét xử án hành
chính của toàn ngành Tòa án nhân dân còn rất non trẻ, thiếu nguồn lực, kinh
nghiệm, đây cũng là yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng xét xử các vụ án hành
chính. Theo báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao, trong 14 năm áp
dụng Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì cả nước không xét
xử vụ án nào liên quan đến khởi kiện hành vi hành chính. Do đó các Thẩm
phán không có kinh nghiệm trong việc giải quyết loại án liên đến hành vi
hành chính. Lý giải vấn đề này qua công tác thực tế tại ngành Tòa án, thấy
rằng: không phải chỉ quyết định hành chính mới có sai sót và xâm hại quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân mà hành vi hành chính của người có thẩm
quyền cũng xâm hại đến quyền và lợi ích chính đáng của người dân. Tuy
nhiên, rất khó để thực hiện việc khởi kiện hành vi hành chính vì thiếu căn cứ
chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm bởi
15
hành vi hành chính. Vì vậy rất dễ dẫn đến tình trạng Tòa án né tránh khi có
đơn khởi kiện hành vi hành chính hoặc nếu có thì Tòa án cũng phải yêu cầu
người khởi kiện cung cấp được các chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện
của mình là có căn cứ. Đối với những hành vi hành chính là hành vi “không
hành động” thì việc chứng minh rất khó khăn. Cần có giải pháp để giải quyết
vấn đề này, nâng cao nhận thức của người dân để họ có thể thực hiện tốt nhất
quyền khởi kiện hành vi hành chính khi nó xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của bản thân.
- Thứ hai, do đặc thù về chủ thể và đối tượng xét xử trong vụ án hành
chính đã ảnh hưởng đến tính độc lập của Tòa án khi xét xử. Việc tổ chức mô
hình cơ quan xét xử theo đơn vị hành chính lãnh thổ và những mối quan hệ
phụ thuộc về tổ chức, nhân sự giữa Tòa án với chính quyền địa phương đã
gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng xét xử án hành chính. Việt Nam là nhà
nước pháp quyền XHCN, quyền lực nhà nước là thống nhất, Đảng cộng sản
Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội. Đây là
một biểu hiện tốt đẹp của sự đồng thuận với Đảng song cũng là yếu tố chi
phối đến hoạt động trọng tâm của hệ thống tư pháp đó là công tác xét xử các
vụ án trong đó có xét xử án hành chính. Biểu hiện cụ thể là quy trình bổ
nhiệm Thẩm phán – người trực tiếp tiến hành xét xử án hành chính – cũng
như việc bổ nhiệm các chức danh quản lý trong ngành Tòa án phải được sự
đồng ý bằng văn bản của cấp ủy địa phương. Điều đó dẫn đến sự phụ thuộc
nhất định vào cấp ủy đảng trong công tác bổ nhiệm, quy hoạch cán bộ Tòa án;
khi đã có sự phụ thuộc thì việc xét xử có khách quan, công tâm hay không
phụ thuộc ý chí chủ quan của Thẩm phán.
Trong vụ án hành chính, người bị kiện luôn là chủ thể quản lý hành
chính nhà nước nên rất dễ dẫn đến tình trạng Thẩm phán e dè, nể nang, ngại
xét xử án hành chính. Tư duy của các cơ quan hành chính nhà nước luôn cho
16
rằng Tòa án cũng là đối tượng quản lý hành chính nhà nước về tổ chức, hoạt
động cũng như công tác chuyên môn. Trước khi Hiến pháp 2013 được ban
hành thì chưa có một văn bản pháp luật nào quy định cụ thể cơ quan nào là cơ
quan thực hiện quyền tư pháp, mặc dù quyền tư pháp là nhánh quyền lực
tương đương với quyền lập pháp và hành pháp trong nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam. Tại Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp 2013 đã quy định “Tòa
án là cơ quan xét xử của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp”. Như vậy không thể coi Tòa án là cơ quan chịu sự quản lý của
cơ quan hành chính nhà nước (cơ quan thuộc nhánh quyền hành pháp). Do đó
rất cần có mô hình Tòa án khu vực không phụ thuộc cơ quan hành chính nhà
nước để đảm bảo tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi xét
xử vụ án hành chính, đây là một trong những yếu tố quan trọng quyết định
chất lượng xét xử.
Hoạt động xét xử các vụ án hành chính có những đặc thù riêng biệt nên
hoạt động quản lý hành chính tốt thì việc xét xử các vụ án hành chính sẽ đơn
giản và thuận lợi. Hoạt động quản lý hành chính không hiệu quả thì việc xét
xử các vụ án hành chính sẽ gặp khó khăn, vướng mắc, chất lượng xét xử các
vụ án hành chính không cao. Mặt khác do ngành luật hành chính còn non trẻ,
đang trong quá trình hoàn thiện các quy định có liên quan, cùng với những
đặc thù về chủ thể trong quan hệ tranh chấp nên rất cần xây dựng cơ chế đảm
bảo tính độc lập của Tòa án nhằm mục đích nâng cao chất lượng xét xử án
hành chính.
1.3 Vai trò của xét xử án hành chính trong đời sống xã hội.
- Vai trò của xét xử án hành chính trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân:
Tòa án với chức năng xét xử đã khẳng định được vị thế, vai trò, tầm
quan trọng của mình trong đời sống xã hội. Vai trò của Tòa án đã được khẳng
17
định trong nhiều bản Hiến pháp của Việt Nam qua các thời kỳ và tiếp tục
được ghi nhận tại Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp 2013: “Tòa án có nhiệm vụ
bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân” [27]. Quy định này hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với chức năng xét
xử của Tòa án, trong đó hoạt động xét xử án hành chính với những đặc thù
riêng biệt đã đóng góp vai trò quan trọng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân. Đây là nhiệm vụ
hàng đầu của Tòa án và rất phù hợp với tinh thần Hiến pháp 2013, coi con
người là trọng tâm và mục đích của quyền lực Nhà nước.
Hệ thống Toà hành chính đã được thành lập bên cạnh các Toà chuyên
trách khác có thể coi là một thiết chế tài phán mới - thiết chế bảo vệ hữu
hiệu đối tượng của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Tòa hành chính
ra đời là dấu mốc đánh dấu sự ra đời của ngành luật hành chính ở Việt Nam,
đây cũng là mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Hoạt
động xét xử án hành chính thể hiện chế độ trách nhiệm giữa nhà nước với
công dân; bảo đảm thực hiện quyền công dân và pháp chế trong hoạt động
quản lý hành chính nhà nước thông qua thủ tục tố tụng với những nguyên tắc
dân chủ, công khai, bình đẳng. Xã hội càng phát triển thì những yêu cầu về
xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân cần được đảm bảo
một cách hiệu quả nhất. Trong điều kiện hiện nay, mối quan hệ giữa cơ quan
nhà nước và công dân cũng phát triển ở tầm cao mới, phù hợp với xu thế tiến
bộ của thời đại. Trước đây và cho đến hiện nay mối quan hệ giữa cơ quan nhà
nước và người dân luôn là mối quan hệ “không bình đẳng” giữa một bên là
chủ thể quản lý và một bên là đối tượng quản lý. Vì vậy những mâu thuẫn, bất
đồng giữa cơ quan nhà nước và người dân luôn xảy ra ở nhiều lĩnh vực, cần
có một cơ quan trung gian để giải quyết. Để nâng cao trách nhiệm của Nhà
18
nước đối với công dân cần có một thiết chế tài phán độc lập với hoạt động xét
xử các vụ án hành chính sẽ góp phần hiệu quả đảm bảo sự bình đẳng giữa
Nhà nước và công dân. Hoạt động xét xử án hành chính sẽ góp phần bảo vệ
quyền lợi của công dân khi có hành vi xâm phạm từ quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ
quan Nhà nước. Đây là yêu cầu quan trọng của quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Nhiệm vụ này có sự
đóng góp của cả hệ thống chính trị, trong đó có cơ quan thực hiện quyền tư
pháp với hoạt động xét xử án hành chính của Tòa án các cấp. Pháp luật quy
định công dân có quyền khởi kiện vụ án hành chính nhằm đảm bảo mục tiêu
của nhà nước pháp quyền XHCN đó là thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, bảo vệ nhân dân, bảo đảm kỷ cương xã hội. Hoạt động xét xử án hành
chính phù hợp đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của nhà nước,
luôn đề cao các nguyên tắc về tôn trọng và bảo vệ quyền con người, nguyên
tắc bình đẳng, công bằng, công khai, minh bạch trong xây dựng và thực hiện
pháp luật. Thực tế hiện nay ở các địa phương, các vụ việc khiếu kiện hành
chính trong nhiều lĩnh vực gia tăng về số lượng với tính chất ngày càng gay
gắt và phức tạp; trong đó phải nói đến là lĩnh vực đất đai, nhiều vụ việc khiếu
kiện đông người, vượt cấp diễn ra ở nhiều nơi, thậm chí ở các cơ quan Trung
ương. Ở một số nơi người dân mất lòng tin vào cơ quan nhà nước ở địa
phương nên họ khởi kiện đến Tòa án, với mong muốn một cơ quan xét xử độc
lập sẽ xét xử nghiêm minh vụ án hành chính để phán quyết tính hợp pháp
hoặc bất hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính.
- Vai trò của xét xử hành chính với việc kiểm soát quyền lực nhà nước:
Sự ra đời của Tòa hành chính với chức năng xét xử án hành chính mà
một bên trong quan hệ tố tụng là chủ thể đặc biệt, chủ thể được sử dụng
quyền lực nhà nước là sự chuyển biến căn bản về tư tưởng lập pháp; trong
19
đó vấn đề quan trọng là thể chế quan điểm của Đảng về kiểm soát quyền lực
nhà nước.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
(bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định cụ thể vấn đề quyền lực nhà
nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Sự bổ sung này
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện một bước phát triển mới về nhận thức
lý luận xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Hiến pháp năm
2013 đã thể chế quan điểm về kiểm soát quyền lực nhà nước, khẳng định Tòa
án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp. Sự phân công rõ ràng, đúng đắn giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp tạo cơ sở pháp lý quan trọng để kiểm soát quyền lực nhà nước. Như vậy
hoạt động xét xử án hành chính sẽ tạo ra cơ chế kiểm soát có hiệu quả hoạt
động của chủ thể quản lý hành chính nhà nước trong quá trình quản lý, điều
hành xã hội, khắc phục những biểu hiện lạm quyền, lộng quyền hoặc trốn
tránh trách nhiệm. Thông qua hoạt động xét xử án hành chính, Tòa án có
quyền huỷ bỏ các quyết định hành chính trái pháp luật, buộc chủ thể quản lý
hành chính nhà nước phải chấm dứt hành vi trái pháp luật. Từ đó có thể phát
hiện những khiếm khuyết của pháp luật hành chính, của hoạt động quản lý
hành chính nhà nước để đưa ra giải pháp bổ sung, sửa đổi, chấn chỉnh cho phù
hợp. Nội dung này chính là cơ chế kiểm tra, giám sát, giải quyết khiếu nại
hành chính và giải quyết các tranh chấp hành chính bằng con đường tư pháp -
một kênh giám sát cơ quan quản lý nhà nước từ bên ngoài. Đây cũng chính là
một chủ trương lớn của Đảng ta gắn liền với công cuộc đổi mới, cải cách nền
hành chính quốc gia, cải cách hệ thống tư pháp. Việc kiểm soát hoạt động của
cơ quan hành pháp không chỉ phụ thuộc vào cơ quan tư pháp mà bản thân các