Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Văn hoá truyền thống trong tác phẩm của nguyễn tuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.72 KB, 59 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN




PHẠM THỊ NHÀI




VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
TRONG TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN TUÂN



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam








HÀ NỘI - 2014



TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN



PHẠM THỊ NHÀI




VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
TRONG TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN TUÂN



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam


Người hướng dẫn khoa học
TS. THÀNH ĐỨC BẢO THẮNG






HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo
Thành Đức Bảo Thắng - người trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình giúp tôi
hoàn thành khóa luận này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy, cô giáo khoa Ngữ văn,
đặc biệt là các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam và các bạn sinh viên đã
giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận.
Hà Nội, tháng 05 năm 2014
Người thực hiện
Phạm Thị Nhài
















LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo

Thành Đức Bảo Thắng
.
Tôi xin cam đoan rằng:
- Khóa luận là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng tôi.
- Những tư liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực.
- Kết quả nghiên cứu này không hề trùng khít với bất kì công trình
nghiên cứu nào từng công bố.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 05 năm 2014
Người thực hiện
Phạm Thị Nhài













MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 10
CHƯƠNG 1: TÁC GIẢ NGUYỄN TUÂN 10
1.1 Tiểu sử 10
1.2. Sự nghiệp sáng tác 11

1.2.1. Tác phẩm tiêu biểu 11
1.2.2. Con đường đến với thể tùy bút 12
1.3. Phong cách nghệ thuật 16
1.3.1. Thâu tóm trong một chữ “ngông” 16
1.3.2. Mới lạ, không giống ai. 17
1.3.3. Tự do, linh hoạt trong ngôn ngữ, giọng điệu 18
CHƯƠNG 2: NGUYỄN TUÂN VỚI CÁI NHÌN VỀ VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG 22
2.1. Văn hóa truyền thống - vẻ đẹp Vang bóng một thời. 22
2.1.1. Văn hóa truyền thống - tâm trạng nuối tiếc 22
2.1.2. Văn hóa truyền thống - vẻ đẹp cao cả, thiên lương 24
2.1.3. Văn hóa truyền thống - nghệ sĩ tài hoa 26
2.2. Văn hóa truyền thống - vẻ đẹp độc đáo, niềm tự hào dân tộc 30
2.2.1. Phở - Linh hồn đất nước 32
2.2.2. Giò lụa - Món ăn đậm hương vị Việt 34
2.2.3. Cốm - Món quà “thổ ngơi” dịu ngọt thơm thảo 36
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT TIẾP CẬN, MIÊU TẢ 42
3.1. Tiếp cận từ góc nhìn lịch sử, nghệ thuật 42
3.1.1. Tiếp cận văn hóa từ góc độ lịch sử 42
3.1.2. Tiếp cận văn hóa từ góc độ nghệ thuật 44
3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật và sự so sánh, liên tưởng độc đáo 47
3.2.1. Ngôn ngữ tinh tế, cầu kì, sang trọng 47
3.2.2. So sánh, liên tưởng độc đáo 49
KẾT LUẬN 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là đất nước có nền văn hóa phong phú và đa dạng trên nhiều

phương diện. Đồng hành cùng người Việt và các dân tộc anh em trong cuộc
sống lao động, chiến đấu là những phong tục tốt đẹp từ ngàn đời, được thể
hiện trong những lễ hội, trong tín ngưỡng, trong giao tiếp Những nét văn
hóa truyền thống tốt đẹp ấy đã đi vào văn chương, được nhiều tác giả thể hiện
thành công, in đậm trong tâm trí bạn đọc. Cùng với Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô
Hoài… Nguyễn Tuân là nhà văn thể hiện thành công vẻ đẹp và sự độc đáo
của văn hóa truyền thống trong tác phẩm của mình. Với Nguyễn Tuân, hướng
tới văn hóa truyền thống là hướng tới cái đẹp Vang bóng một thời, cái đẹp
trong sự hội nhập giữa truyền thống và hiện đại, cái bất biến và phát triển, cái
độc đáo, cao cả với ý thức tô đậm để lưu giữ cho đời sau. Đó còn là nguồn
cảm hứng mãnh liệt để nhà văn thể hiện tình yêu quê hương tha thiết, thể hiện
cái đẹp, cái riêng trong ngòi bút của mình.
Tìm hiểu những nét truyền thống trong tác phẩm Nguyễn Tuân giúp
chúng ta biết thêm về phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc để tiếp tục lưu
giữ, bồi đắp cho đời sau… Đó cũng là cách chúng ta hướng về cội nguồn với
niềm tự hào dân tộc: tự hào về nền văn hóa phong phú, đa dạng; tự hào vẻ đẹp
tao nhã, thanh khiết và tài hoa của cha ông; về lối ứng xử hợp tình, hợp lí
thấm đẫm tình người trong quá khứ, hiện tại và tương lai; về vẻ đẹp của
những lễ hội lung linh, huyền ảo, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh,
tao nhã mang đậm chất nhân văn.
Những trang văn hướng tới vẻ đẹp của văn hóa truyền thống không chỉ
toát lên niềm tự hào, tình yêu quê hương đất nước mà còn thể hiện được tài
năng, phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân. Từ quan niệm nghệ
thuật đến cách đặt câu, dùng từ hay lối so sánh ví von, độc đáo… luôn thể
hiện cá tính sáng tạo trên cơ sở ý thức sâu sắc của nhà văn về tài năng và nhân
cách của mình. Tìm hiểu các tác phẩm hướng về văn hóa truyền thống cũng là

2
cách giúp cho người viết hiểu thấu đáo hơn về “hồn cốt” trang văn Nguyễn
Tuân.

Là sinh viên năm cuối khoa Ngữ văn, nghiên cứu về Nguyễn Tuân sẽ
trang bị cho tôi kiến thức sâu sắc hơn về tác phẩm, tác giả để giảng dạy ở
trường phổ thông sau này. Đây cũng là công việc có ý nghĩa đối với một sinh
viên bước đầu làm quen với hoạt động khoa học.
Với tất cả lí do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: Văn hóa truyền
thống trong tác phẩm của Nguyễn Tuân.
2. Lịch sử vấn đề
Ngay từ trước Cách mạng tháng Tám, khi những sáng tác đầu tay của
Nguyễn Tuân được đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy, Tao đàn… đã có những bài
giới thiệu, đánh giá về ông. Đặc biệt là bài Đọc Vang bóng một thời của
Thạch Lam và bài Nguyễn Tuân của Vũ Ngọc Phan có những nhận định khá
chính xác, giúp bạn đọc có cái nhìn ban đầu về Nguyễn Tuân. Sau Cách
mạng, các bài viết của ông vẫn được các nhà nghiên cứu quan tâm.
2.1. Trước Cách mạng tháng Tám
Nhà văn Thạch Lam trong bài giới thiệu Vang bóng một thời đã nhận
định: Nguyễn Tuân “Yêu mến và than tiếc những cái đã qua và cố làm sống
lại cả một thời xưa cũ, một thời gần chúng ta quá, nhưng mà đối với chúng ta
như đã xa lạ vì không ai gợi đến vẻ đẹp và những cao quý riêng. Nguyễn
Tuân có lẽ là người đầu tiên làm việc ấy” [9, 7].
“Nguyễn Tuân đã làm hoạt động dưới mắt người đọc cả một cái dĩ vãng
thắm màu đó, và đã tìm diễn được những đặc sắc và những triết lý cũ kia”.
Giữa bao xô bồ và bon chen, đua đòi thời thượng, giữa bao kẻ vô tâm,
Nguyễn Tuân là người “yêu mến dĩ vãng, (…) tiếc thương và muốn vớt lại
những vẻ đẹp đã qua” [9, 7].
Thạch Lam cũng thực sự nhận ra một nét phong cách quan trọng của
tác giả Vang bóng một thời. Đó là “Về mặt văn chương, chúng ta muốn tác
giả Vang bóng một thời đến một sự giản dị, sáng sủa hơn nữa, cố tránh những

3
lối hành văn cầu kì - sự cầu kì trong cái tìm tòi, không phải cái tìm tòi trong

cách điệu tả, tránh những chữ nhắc lại, những sự kiểu cách, những lối về âm
điệu trong câu văn” [9, 8].
Vũ Ngọc Phan trong bài viết Nguyễn Tuân giới thiệu các sáng tác của
Nguyễn trước Cách mạng tháng Tám, đã đánh giá Nguyễn “là một nhà văn
đứng riêng hẳn một phái”. Ông cho rằng cái độc đáo, cái riêng của Nguyễn
Tuân là lối hành văn đặc biệt và “Những ý kiến cùng tư tưởng phô diễn bằng
những giọng tài hoa, sâu cay và khinh bạc, lúc thì đầy nghệ thuật, lúc thì bừa
bãi, lôi thôi, như một bức phác họa nhưng bao giờ cũng cho người ta thấy một
trạng thái của tâm hồn” [9, 8].
Vũ Ngọc Phan cho rằng sáng tác đầu tay của Nguyễn Tuân là “một bức
cổ họa” quý giá, mà “cái quý giá ấy sẽ còn tăng lên nữa với thời gian như một
thứ đồ cổ”. Vũ Ngọc Phan cũng thống nhất với Thạch Lam ở cách cảm nhận
tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Tuân: Nguyễn Tuân viết về nhiều đề tài,
nhưng đọng lại, làm say lòng người chính là những tác phẩm nói về vẻ đẹp
còn vương sót lại của thời đã qua. “Tuy tự nhận mình là kẻ giang hồ, nhưng
sự thật thì chỉ những khi viết về những cái xưa cũ, những cái thuộc về quê
hương, đất nước hay những cái có thể tưởng nhớ quê hương, đất nước, ông
mới viết tinh và sâu sắc” [9, 9].
2.2. Sau năm 1954
Song Thai trong bài Nguyễn Tuân sau 30 năm cầm bút đã đánh giá cao
giá trị gợi cảm của phê bình Nguyễn Tuân: Ta nghe lời văn của Nguyễn Tuân
như phảng phất một nỗi u hoài man mác về những nét vàng son trong quá khứ
đã bị cơn lốc của thời đại cuốn hút phôi pha, ta còn nghe trong giọng văn của
họ Nguyễn một nỗi niềm tiếc nhớ cái “vang bóng yêu kiều của một thời
phụng sự cái đẹp”.
Tạ Tỵ đặt cho Nguyễn Tuân danh hiệu “một văn tài lỗi lạc”, “Nguyễn
Tuân chỉ là một nghệ sĩ theo đúng nghĩa chữ, là cánh chim giang hồ, nơi nào
đẹp, vừa ý, vội hạ cánh hót chơi” [9, 14].

4

Trong bài viết Nguyễn Tuân và cái đẹp, Hà Văn Đức cũng nhận ra
Nguyễn Tuân: “Không tìm thấy cái đẹp hiện hữu trong cuộc đời thực, Nguyễn
Tuân quay trở về tìm kiếm nét đẹp xưa của một thời vang bóng. Ông ca ngợi
cái lý tưởng hóa cuộc sống của những ông Nghè, ông Cử… hay miêu tả
những thú vui uống trà, đánh thơ, thả thơ, chơi chữ với một cái nhìn thi vị,
đượm chất thơ” [10, 181].
Đầu năm 1957, Nguyễn Tuân viết bài tùy bút “Phở” đăng trên tuần báo
Văn. Bài viết đã gây ra nhiều phản ứng khác nhau trong giới cầm bút.
Trong Tuần báo văn và con người thời đại in trong Tạp chí học tập thứ
7 (tháng 7/1957), Thế Toàn có cái nhìn hơi khắt khe khi cho rằng: “Con người
trong thời đại chúng ta không phải là con người xa lánh cuộc sống, ngồi một
góc phố nào đó để phân tích một món ăn, (Phở của Nguyễn Tuân) phát hiện
ra nhiều vấn đề quá quan trọng như xương với xẩu, như mũ phở” [9, 18].
Để đáp lại bài viết ấy, trên tuần báo Văn số 15/1957, nhà văn Nguyên
Hồng đã bác bỏ quan điểm của Thế Toàn:… số 1 và số 2 tuần báo Văn đăng
bài Phở. Đó lại là tùy bút của Nguyễn Tuân. Một ngòi bút cách đây 15 năm
với những Chiếc lư đồng mắt cua, Nguyễn đã làm người đọc rợn hết cả tâm
trí lên vì những ê chề rã rượi, quằn quại dẫy đạp của một tâm trạng bế tắc
trong lòng một chế độ ngột ngạt… giờ tha thiết tin yêu, hết lời ca ngợi một
hương vị Tổ Quốc. Phở cũng là những sự việc, cũng là những suy nghĩ, cũng
là kiểu nói của Nguyễn nhưng cả một sự say sưa và niềm tin lấp loáng trên
trang giấy. “Hương vị phở… lành mạnh hơn vì tôi thấy Tổ Quốc tôi còn có
phở nữa”. Tùy bút Phở - những dòng chữ để ca ngợi một phong vị của đất
nước với một điệu suy nghĩ và thể hiện đặc biệt của mình, Nguyễn Tuân viết
như thế có phải là “xa lánh cuộc sống không”? Viết như thế có phải là “ngồi
một góc phố và phát hiện ra nhiều vấn đề quá quan trọng không? Chúng tôi
xin trả lời thẳng ngay tạp chí Học tập nhận định như thế là không đúng (Tuần
báo Văn số 20/1957, trang 5).

5

Nguyễn Văn Bổng cũng không tán thành cách đánh giá của Thế Toàn.
Ông cho rằng cuộc sống mới không chỉ biết cống hiến mà con người cần phải
biết hưởng thụ, thưởng thức cái ngon, cái hay; con người còn phải làm cho
đời sống tâm hồn phong phú thêm: “Tùy bút Phở của Nguyễn Tuân không chỉ
có xương với xẩu và mũ phở… Nhưng giá chỉ có chừng đó, chúng ta cũng
không nên gạt ra khỏi con người thời đại những lúc họ nghe gió, ngắm trăng
hay những lúc họ biết ngồi ăn phở một cách ngon lành. Trong đời sống chiến
đấu lao động, chúng ta muốn mọi người đều có những giờ phút như thế”
(Tuần báo Văn số 20/1957). Theo Nguyễn Văn Bổng, hạn chế của Phở là
“chưa lồng được thực tế Phở vào trong muôn vàn thực tế phong phú của nhân
dân Việt Nam, trong cái thực tế vĩ đại của dân tộc”.
Tế Hanh với bài Cùng đặt một số vấn đề cũng đồng tình với Nguyên
Hồng và Nguyễn Văn Bổng: “Phở là một cách ca ngợi hương vị của đất
nước” (Tuần báo Văn số 26/1957).
Dù nhiều ý kiến khen chê khác nhau nhưng tựu trung lại, các nhà phê
bình vẫn đồng ý Phở là một tác phẩm phảng phất hương vị quê hương, mang
đậm đà bản sắc dân tộc. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà một nhà phê bình
nước ngoài M.I.Linxki khẳng định: Nguyễn Tuân là người “biết rõ phong tục
tập quán, những phương ngôn tục ngữ và truyền thuyết của Việt Nam”.
Ở miền Nam, đánh giá về Nguyễn Tuân ít hơn nhưng hầu hết đều thể
hiện sự tri kỉ. Vũ Bằng trong hồi kí Bốn mươi năm nói láo, đã kể lại kỉ niệm
của mình về Nguyễn Tuân những ngày trước Cách mạng tháng Tám. Qua đó,
Vũ Bằng đã giúp người đọc nhận ra cái “ngông” độc đáo kiểu Nguyễn Tuân.
2.3. Từ sau năm 1975
Sau khi đất nước thống nhất, Nguyễn Tuân vẫn được các nhà nghiên
cứu phê bình quan tâm. Phong Lê trong bài Nguyễn Tuân trong tùy bút (1977)
thấy được trước Cách mạng Nguyễn Tuân có “tinh thần dân tộc nhất định”,
sau Cách mạng tinh thần dân tộc có được phát huy. Điều này cũng được Phan
Cự Đệ đồng ý trong tiểu luận Nguyễn Tuân (in trong Nhà văn Việt Nam 1945


6
- 1975, tập 2). Còn Nguyễn Đăng Mạnh khẳng định: trước hay sau Cách
mạng, Nguyễn Tuân vẫn “có thói quen nhìn sự vật ở mặt mỹ thuật của nó”.
Dường như có ý so sánh với những tác phẩm viết về miếng ăn của Nam
Cao, Nguyễn Đăng Mạnh phát hiện ra nét độc đáo trong thú ẩm thực của
Nguyễn Tuân: “Nguyễn Tuân cũng viết rất hay về miếng ăn, nhưng lại có một
cách tiếp cận riêng không lẫn với ai. Đọc văn Nguyễn Tuân thấy con người
trước miếng ăn chẳng những không hèn đi mà còn trở nên sang trọng hơn.
Chẳng những không bị phàm tục hóa mà còn trở nên có tư cách hơn, có văn
hóa, có thẩm mỹ hơn, có tâm hồn hơn” [5, 75]. Cũng trong bài viết này,
Nguyễn Đăng Mạnh khẳng định một cách chắc chắn bản lĩnh nghệ thuật độc
đáo của Nguyễn Tuân: “Viết về phở, cốm, giò lụa… mà thấy có một linh hồn
đất nước và bút ký văn xuôi trở thành trữ tình” [ ].
Lê Quang Trang nhận xét khá chính xác “văn minh ẩm thực” trong
sáng tác của Nguyễn Tuân trong bài Cảnh sắc và hương vị đất nước trong văn
Nguyễn Tuân. Tác giả bài viết cho rằng, Nguyễn Tuân đã “nâng chuyện ăn
uống lên như một thú chơi nghệ thuật, một nét văn minh của tâm hồn dân tộc”
[10, 218]. Phải chăng nét đẹp của văn hóa ẩm thực Việt Nam đã bắt đầu từ
những điều mộc mạc giản dị như thế.
Ngoài ra, có nhiều bài viết đề cao quan niệm thẩm mĩ của nhà văn:
Nguyễn Tuân, nhà nghệ sĩ ngôn từ đưa cái đẹp thăng hoa - Hoài Anh; Nguyễn
Tuân người săn tìm cái đẹp - Nguyễn Thành, hay chuyên luận Quan niệm về
cái đẹp của Nguyễn Tuân trong sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Thị Thanh
Minh… Tất cả họ đều thống nhất cho rằng: “Nguyễn Tuân là người đầu tiên
đi tìm cái đẹp của quá khứ, cái đẹp của thời đã qua còn vương sót lại. Nguyễn
Tuân đã giữ gìn nó, làm cho nó sống lại và trường tồn” [9, 14].
Các tác giả trên, dù viết về con người hay sáng tác của Nguyễn Tuân
đều đem đến cho người đọc cảm nhận ông là một con người tài hoa, có ý thức
cao về nghề văn và về bản thân, một con người chỉ sống và viết về cái đẹp.


7
3. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng những hiểu biết về văn hóa dân tộc vào việc nghiên cứu văn
hóa truyền thống trong tác phẩm của Nguyễn Tuân, nhằm chỉ ra những nét
độc đáo trên các phương diện: văn hóa truyền thống - vẻ đẹp Vang bóng một
thời, vẻ đẹp độc đáo, niềm tự hào dân tộc; và nghệ thuật tiếp cận, miêu tả của
nhà văn.
Từ kết quả nghiên cứu đã thu được, khóa luận sẽ làm rõ thêm cá tính
sáng tạo, phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận khảo sát những bài viết, công trình nghiên cứu về Nguyễn
Tuân. Phân tích những truyện ngắn và tùy bút của ông, nhằm phát hiện ra
những nét đặc sắc trong cái nhìn của nhà văn về truyền thống, về nét văn hóa
cổ truyền dân tộc.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu vấn đề: Văn hóa truyền thống trong tác
phẩm của Nguyễn Tuân.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Nguyễn Tuân có nhiều tác phẩm hướng về văn hóa truyền thống, nhưng
trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận, chúng tôi chủ yếu nghiên cứu các
truyện ngắn trong tập Vang bóng một thời và một vài tùy bút của ông viết
trước và sau Cách mạng.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu trên, chúng tôi sẽ
vận dụng và kết hợp một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
6.1. Phương pháp Tiếp cận hệ thống
Hệ thống là tập hợp nhiều yếu tố, đơn vị cùng loại hoặc cùng chức
năng có quan hệ hoặc liên hệ chặt chẽ, làm thành một thể thống nhất. Đối
tượng nghiên cứu là các hệ thống trong thiên nhiên, xã hội hoặc một phương


8
pháp dùng mô hình hệ thống để nghiên cứu các sự vật. Phương pháp hệ thống
được sử dụng rộng rãi trong văn chương.
6.2. Phương pháp Lịch sử - Xã hội
Theo cách gọi của M.B.Khrapchenko đây là phương pháp nghiên cứu
phát sinh lịch sử. Phương pháp này chủ trương nghiên cứu văn học, các
trường phái, nhà văn, tác phẩm… từ nguồn gốc trong đời sống xã hội. Nó giải
thích sự phát triển của văn học, sự đấu tranh của các trào lưu… Từ quan hệ
giữa văn học và đời sống, việc lý giải các hiện tượng văn học trên cơ sở lịch
sử - xã hội là quan điểm đúng đắn mang lại nhiều sự lý giải thuyết phục, khắc
phục được những hạn chế trong nghiên cứu văn học.
6.3. Phương pháp Phân tích tổng hợp
Phân tích là chia nhỏ đối tượng nghiên cứu thành những bộ phận,
những yếu tố cấu thành giản đơn nhằm phát hiện ra thuộc tính và bản chất của
từng yếu tố. Từ những kết quả nghiên cứu từng mặt, phải tổng hợp lại để có
nhận thức đầy đủ, đúng đắn, tìm ra được bản chất, quy luật vận động của đối
tượng nghiên cứu.
Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp gắn bó chặt chẽ, quy định và
bổ sung cho nhau trong nghiên cứu.
6.4. Phương pháp So sánh
Đây là phương pháp so sánh, đối chiếu nhiều yếu tố với nhau, nhằm
làm nổi bật một yếu tố nào đó. Trong nghiên cứu văn học phương pháp này
được sử dụng rộng rãi.
7. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận chỉ ra được những nét văn hóa truyền thống trong các sáng
tác của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng.
Thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân.
8. Bố cục của khóa luận
Phần 1: Mở đầu

Phần 2: Nội dung

9
Chương 1: Tác giả Nguyễn Tuân.
Chương 2: Nguyễn Tuân với cái nhìn về văn hóa truyền thống.
Chương 3: Nghệ thuật tiếp cận, miêu tả.
Phần 3: Kết luận












10
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TÁC GIẢ NGUYỄN TUÂN
1.1 Tiểu sử
Nguyễn Tuân sinh ngày 10 - 7 - 1910 tại Hà Nội, ông xuất thân trong
gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn. Điều này đã tác động đến cá tính, tư
tưởng cũng như phong cách nghệ thuật của ông. Nguyễn Tuân đã trải qua
những năm tháng khó khăn, có lúc bế tắc và tuyệt vọng.
Năm 1929, ông bị đuổi học, bị cấm làm việc ở các công sở trên toàn
cõi Đông Dương vì tham gia bãi khóa chống giáo viên Pháp nói xấu người
Việt. Sau đó ông bị tù vì “xê dịch” sang biên giới trái phép.

Năm 1938, ông tham gia vào đoàn làm phim “Cánh đồng ma”, quay tại
Hồng Kông.
Năm 1941, Nguyễn Tuân bị bắt giam vì giao du với những người hoạt
động chính trị. Từ đây ông lâm vào tình trạng khủng hoảng tinh thần sâu sắc,
lao vào con đường ăn chơi trụy lạc, thành kẻ “đại bất đắc chí”, như một người
“hư hỏng hoàn toàn”.
Từ 1942 - 1945, Nguyễn Tuân ngày càng lâm vào bế tắc, suy sụp, có ý
định tự sát.
Cách mạng tháng Tám đã làm thay đổi cuộc đời cũng như trang viết
Nguyễn Tuân. Ông hân hoan chào đón cuộc đổi đời lịch sử và tự nguyện đứng
vào hàng ngũ nhà văn Cánh mạng.
Năm 1950, ông vào Đảng cộng sản Đông Dương. Từ năm 1948 - 1958,
ông là tổng thư kí hội văn nghệ Việt Nam. Nguyễn Tuân hăng hái tham gia
vào hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Ông tiếp tục đi nhiều, có mặt ở
nhiều tuyến lửa ác liệt dùng văn chương ca ngợi đất nước và cùng nhân dân
đánh giặc.
Ngày 28 - 7 - 1987 ông qua đời tại Hà Nội.
Nguyễn Tuân là trí thức dân tộc rất mực tài hoa, uyên bác, giàu lòng
yêu nước và tinh thần dân tộc. Ông quý trọng nghề nghiệp văn chương, ý thức

11
cá nhân phát triển cao. Đọc văn ông, người đọc không chỉ có khoái cảm thẩm
mĩ từ nghệ thuật ngôn từ mà còn được bồi dưỡng thêm tri thức về nhạc, họa,
điêu khắc, kiến trúc, lịch sử, địa lý, điện ảnh…
Nguyễn Tuân là nhà văn “suốt đời đi tìm cái Đẹp, cái Thật” (Nguyễn Đình
Thi), tự nhận mình là người “sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa”.
Ông say mê cảnh sắc của quê hương, gắn bó với các giá trị văn hóa cổ
truyền, ông trân trọng thú vui tao nhã của các nhà nho. Trên trang viết
Nguyễn Tuân, những “vẻ đẹp xưa” chợt sống dậy trong niềm xót xa tiếc nuối
khôn nguôi. Ông ghé vai vào hàn gắn, sắp xếp lại với kì vọng giữ gìn những

giá trị thiêng liêng nhất vốn hun đúc lên quốc hồn, quốc túy Việt Nam.
Từ sau 1945, Nguyễn Tuân viết đều đặn, càng tỏ ra sâu sắc trong tư
tưởng nghệ thuật. Nhà văn có dịp đi nhiều, vừa đi vừa mở lòng đón nhận
thanh sắc của cuộc sống mới đang từng giây từng phút sinh sôi, ông ngợi ca
đất nước và con người Việt Nam trong thời đại mới.
Nếu trước Cách mạng tháng Tám, quan niệm về cái Đẹp của Nguyễn
Tuân đậm màu sắc chủ quan, “ không bà con với luân lý thời đại” thì giờ đây
đã có sự hài hòa cần thiết. Bởi cái Đẹp giờ hiện hữu trong thực tại, là đời sống
muôn màu của nhân dân. Hoài cổ không còn mang ý nghĩa níu kéo dĩ vãng
mà được nâng lên thành sự góp mặt của dĩ vãng ở hiện tại.
1.2. Sự nghiệp sáng tác
1.2.1. Tác phẩm tiêu biểu
Trước 1945: Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1939), Ngọn
đèn dầu lạc (1939), Thiếu quê hương (1940), Tàn đèn dầu lạc (1941), Chiếc
lư đồng mắt cua (1941), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943), Tóc chị Hoài
(1943), Nguyễn (1945).
Sau 1945: Chùa Đàn (1946), Đường vui (1949), Tình chiến dịch
(1950), Thắng càn (1963), Tùy bút kháng chiến và hòa bình (tập I / 1955, tập

12
II / 1956), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (1972), Ký (1976), Hương
vị và cảnh sắc đất nước (1978), Tuyển tập Nguyễn Tuân (1994).
1.2.2. Con đường đến với thể tùy bút
Do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Hán học, sáng tác của ông cho đến trước
1937 hầu hết được viết theo bút pháp cổ điển. Những sáng tác buổi đầu chưa gây
được tiếng vang, tuy nhiên có thể bắt gặp ở một số trang viết tiêu biểu (Giang hồ
hành, Vườn xuân lan ta chủ) những tín hiệu của một phong cách nghệ thuật lớn.
Đó là tinh thần hoài cựu, luôn chăm chút nhặt nhạnh những vẻ đẹp xưa dù đã tàn
tạ, cuối mùa; là hệ thống nhân vật tài hoa, tài tử, nhuốm chút ngông nghênh kiêu
bạc; là lối văn cầu kì trúc trắc mà uyên bác hơn người.

Đến năm 1937, Nguyễn Tuân xuất hiện trên các báo với truyện ngắn
hiện thực trào phúng, ở đó thường vỡ ra những tràng cười châm biếm, thoải
mái, đậm đà phong vị dân gian (Đánh mất ví, Một vụ bắt rượu, Mười năm trời
mới gặp lại cố nhân). Tuy nhiên, do trào lưu hiện thực phê phán lúc bấy giờ
đã phát triển mạnh với nhiều tên tuổi lớn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công
Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao… cho nên không dễ dàng đối với Nguyễn
Tuân trong việc tìm một vị trí có hạng trên văn đàn. Vả chăng, có lẽ hơn ai
hết, Nguyễn Tuân sớm nhận ra thể loại truyện ngắn chưa phù hợp với sở
trường của mình.
Nguyễn Tuân chỉ thực sự được công nhận như một phong cách văn
chương độc đáo kể từ tác phẩm Một chuyến đi (1938). Tác phẩm là tập hợp
những trang viết từ chuyến du lịch sang Hương Cảng, để tham gia thực hiện
bộ phim Cánh đồng ma - một trong những phim đầu tiên của Việt Nam. Nét
đặc sắc nhất của Một chuyến đi chính là giọng điệu, Nguyễn Tuân tìm được
cách thể hiện giọng điệu riêng, một giọng điệu phóng túng, linh hoạt đến kì
ảo: “Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh
thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh
choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa” (Nguyễn Đăng

13
Mạnh). Nhân vật chính trong tác phẩm là cái “tôi” ngông nghênh kiêu bạc của
nhà văn. Một cái “tôi” sau quá nhiều cay đắng tủi cực đã hầu như hoài nghi
tất cả, chỉ còn tin ở cái vốn tình cảm, ý nghĩ, cảm xúc sắc sảo và tinh tế của
mình tích lũy được trên bước đường xê dịch.
Năm 1939, bằng tập truyện Vang vóng một thời, Nguyễn Tuân vươn
lên đỉnh cao của sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm đạt đến độ “toàn thiện toàn
mỹ” (Vũ Ngọc Phan), góp phần đưa nghệ thuật văn xuôi Việt Nam phát triển
trên con đường hiện đại hóa. Vang bóng một thời vẽ lại những cái “đẹp xưa”
của thời phong kiến suy tàn, thời có những ông Nghè, ông Cống, ông Tú thích
chơi lan chơi cúc, thích đánh bạc bằng thơ hoặc nhấm nháp chén trà trong

sương sớm với tất cả nghi lễ thành kính, thiêng liêng. Trước sức mạnh của
văn hóa phương Tây, những vẻ đẹp có màu sắc truyền thống đang có nguy cơ
mai một. Đau đớn nhận ra điều đó, Nguyễn Tuân ra sức níu giữ, gom góp và
phục chế lại bằng tất cả tấm lòng thành kính. Vang bóng một thời vì thế được
xem như một bảo tàng lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Từ sau Vang bóng một thời đến năm 1945, sáng tác của Nguyễn Tuân
dần đi vào ngõ cụt. Nếu như ở Thiếu quê hương (1940), Chiếc lư đồng mắt
cua (1941) tuy mải mê với những lạc thú trần tục, cái “tôi” vẫn còn đầy tự
trọng và giữ được ý thức về bản thân mình thì từ năm 1942 tình hình có khác
đi, vẫn cái “tôi” ấy nhưng mất niềm tin vào cuộc sống. Trong những năm này,
đời sống tinh thần của Nguyễn Tuân lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc.
Những trang viết thưa dần, bên cạnh những đề tài cũ (vẻ đẹp xưa, đời sống
trụy lạc), xuất hiện những đề tài mới hướng về thế giới của yêu tinh, ma quỷ.
Ngay tiêu đề các tác phẩm: Xác ngọc lan, Đới roi, Rượu bệnh, Loạn âm cũng
đủ nói lên tình trạng bế tắc của ngòi bút Nguyễn Tuân thời kì này.
Dõi theo quá trình sáng tác của Nguyễn Tuân giai đoạn trước Cách
mạng tháng Tám, dễ nhận ra sự thay đổi rõ rệt về tư tưởng nghệ thuật, nhất là
từ Vang bóng một thời trở về sau. Điều này hoàn toàn có thể lý giải được nếu
nhìn vào quy luật của chủ nghĩa lãng mạn: bao giờ cũng khởi đầu thật ấn

14
tượng bằng việc khám phá và đề cao cái “tôi” cá nhân, để rồi sau giây phút
choáng ngợp tất cả vụt trở nên nhỏ nhoi, trống vắng và buồn chán đến nao
lòng. Dẫu sao, những trang viết của Nguyễn Tuân vẫn luôn được đón nhận
bằng thái độ trân trọng và thông cảm sâu sắc, bởi độc giả nhận ra ở đây một
tấm lòng chân thành cả trong những thời điểm khắc nghiệt nhất.
Những năm đầu Cách mạng tháng Tám, ngoài một vài tùy bút ngắn ghi
lại tâm trạng vừa hoang mang vừa đầy ắp hi vọng của một trí thức tự “lột xác”
để dấn thân vào cuộc đời mới (Vô đề, Ngày đấy tuổi tôi Cách Mệnh), Nguyễn
Tuân còn có Chùa Đàn - một tác phẩm được viết khá công phu và đầy tâm

huyết. Chùa Đàn là truyện về một nhân vật mắc căn bệnh cá nhân chủ nghĩa,
ích kỉ đến tàn nhẫn. Nhưng từ sau 1945, như được uống nhiều thuốc cải lão
hoàn đồng, tự cải tạo vươn lên thành con người mới, sống chan hòa với xung
quanh. Có nhiều ý kiến đánh giá chưa thật thống nhất đối với tác phẩm này,
mới đọc qua dễ có ấn tượng về một quá trình đổi thay có vẻ giản đơn, công
thức, nhưng nếu xem xét tác phẩm trong quá trình sáng tác của nhà văn thì
không thể không công nhận Chùa Đàn là một cố gắng đáng trân trọng.
Tiếp theo là hai tập tùy bút: Đường vui (1949) và Tình chiến dịch
(1950) ghi nhận sự chuyển biến sâu sắc của ngòi bút Nguyễn Tuân. Đáp lại
lời kêu gọi của Đảng, Nguyễn Tuân hăng hái xốc ba lô lên vai dấn thân khắp
các nẻo đường chiến dịch. Cái “tôi” không còn phá phách, ngông nghênh nữa
mà rưng rưng hòa nhập, sẻ chia với đồng bào đồng chí. Giọng điệu văn
chương sôi nổi tin yêu, tràn ngập một tình yêu chân thành, hồn nhiên đối với
quê hương đất nước, với Cách mạng và kháng chiến. Ngỡ như sau phút dừng
chân bên đường để định phương hướng, Nguyễn Tuân lại tiếp tục bôn ba trên
hành trình đi tìm cái Đẹp, cái Thật. Những giá trị ấy giờ đây không phải mất
công tìm kiếm ở cõi quá vãng hoặc vô hình nào, mà hiện hữu ngay trong cuộc
đời thực đang từng giây từng phút sinh sôi cuồn cuộn trước mắt. Nguyễn
Tuân như chếnh choáng say sưa trước niềm hạnh phúc vô biên ấy, ông vốc
từng vốc lớn chất liệu hiện thực và bày biện hết sức tài hoa, tinh vi lên trang

15
viết để thiết đãi cả nhân dân mình. Hàng loạt tùy bút đặc sắc ra đời trong
mạch cảm hứng ấy: Phở, Cây Hà Nội, Con rùa thủ đô, Tìm hiểu Sê Khốp…
Sông Đà viết từ năm 1958 đến năm 1960 là cái mốc quan trọng, là đỉnh
cao mới trong sáng tác của Nguyễn Tuân từ sau Cách mạng tháng Tám. Tác
phẩm như một dòng thác lớn thanh âm ngôn ngữ, cảm xúc, tư tưởng được khơi
đúng nguồn mạch chính, hệt con sông Đà “hung bạo và trữ tình”, chảy băng
băng qua vùng Tây Bắc hùng vĩ và ngạo nghễ với thời gian. Đọc Sông Đà, thấy
trữ lượng cái đẹp - chất “vàng mười” của đất nước và con người Việt Nam trong

cuộc sống mới nhiều vô kể. Cánh cửa tâm hồn tài hoa, lãng tử của Nguyễn Tuân
như mở toang cho cái đẹp ùa vào. “Đời sống Tây Bắc ngày nay là một tấm lòng
tin tưởng không bờ bến, tin mình, tin người, mấy chục dân tộc miền cao và đồng
bằng tin cậy lẫn nhau, và nhất là tin vào cái chế độ đẹp sáng do tay mình đắp cao
mãi lên trên chỗ cao nguyên tiềm tàng sức sống này”.
Từ sau Sông Đà, Nguyễn Tuân tiếp tục đi và viết nhiều, chủ yếu vẫn ở
thể tùy bút, được tập trung in trong các tác phẩm tiêu biểu: Hà Nội ta đánh
Mỹ giỏi (1972), Ký (1976), Hương vị và cảnh sắc đất nước (1978). Nhìn
chung các sáng tác thời kì này có thể phân thành hai mảng chính: mảng thứ
nhất viết về tình cảm Bắc - Nam và đấu tranh chống Mỹ - Ngụy chia cắt đất
nước; mảng thứ hai tiếp tục khai thác vẻ đẹp của đất nước và con người Việt
Nam, của truyền thống văn hóa Việt Nam trong thời đại mới. Công cuộc
chống Mỹ đã đưa dân tộc ta lên tầm cao của thời đại mới, tinh thần quyết
thắng từ tầm cao lịch sử ấy là âm hưởng chung của văn học thời kì này. Tuy
nhiên, Nguyễn Tuân đã thể hiện tinh thần ấy theo một cách riêng. Dưới ngòi
bút của ông, người Việt Nam vừa đánh Mỹ vừa sản xuất trong tư thế ung
dung, sang trọng và đầy tài hoa. Đó là tư thế của một dân tộc không chỉ dành
được chính nghĩa trong chiến đấu giữ gìn đất nước, mà còn có bề dày truyền
thống văn hóa lâu đời. Nhiều bài kí khiến người đọc phải ngỡ ngàng trước
một sức bút kì lạ, với vốn sống ngồn ngộn tinh tế, vừa đầy ắp liên tưởng bất

16
ngờ, thú vị, vừa nóng hổi tính thời sự. Giai đoạn này, bọn xâm lược Mỹ và bè
lũ tay sai như lọt vào đúng tầm ngắm của Nguyễn Tuân. Sự đối lập giữa
truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta với dã tâm của kẻ thù tạo lên
nguồn cảm hứng lớn cho sáng tác. Ông đã bóc trần bản chất xảo quyệt của
chúng, dù được chúng ngụy trang rất khéo léo, góp phần động viên và tăng
cường nhận thức của quần chúng nhân dân về cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu
nước.
1.3. Phong cách nghệ thuật

1.3.1. Thâu tóm trong một chữ “ngông”
Theo giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh: “Hạt nhân của phong cách nghệ
thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngông. Cái ngông vừa có
màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của những Nguyễn
Khuyến, Tú Xương, Tản Đà… và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan người thân sinh
ra nhà văn; vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi
loạn của xã hội tư sản phương Tây như triết lý siêu nhiên, thuyết hiện
sinh…”. Ngông là sự biểu hiện của sự chống trả mọi thứ nề nếp, phép tắc,
định kiến cứng nhắc, hẹp hòi của xã hội bằng cách làm ngược lại với thái độ
ngạo đời.
Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân chơi ngông một cách cực
đoan. Mọi sở thích quan niệm riêng đều được đẩy lên thành các thứ chủ
nghĩa: chủ nghĩa duy mỹ, chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa
ẩm thực… Thực ra, chủ nghĩa độc đáo trong đời sống, trong nghệ thuật, mà
biểu hiện là thú chơi ngông của Nguyễn Tuân không chỉ đơn thuần là phản
ứng tâm lý của một cá nhân trước tấn kịch xã hội. Nó còn bao hàm cái khí
khái của người trí thức yêu nước không cam tâm chấp nhận chế độ thực dân,
tự đặt những nghịch thuyết để tách mình ra và vượt lên trên cái xã hội của
những kẻ xu thời thỏa mãn với thân phận nô lệ. Như vậy, từ bản chất, cái
ngông đó bao hàm một nội dung luân lý đạo đức truyền thống. Sau 1945,
Nguyễn Tuân không còn lý do để mà gây sự, mà ném đá vào đời như trước

17
nữa. Cái ngông tự mất đi phần cực đoan, chỉ giữ lại cái cốt cách vốn tạo nên
nét độc đáo cho trang viết. Thói quen và sở thích tìm cách nói mới lạ, không
giống ai khiến ngòi bút của ông luôn tràn đầy sáng tạo và có sức hấp dẫn
mạnh mẽ. Do đó, hoàn toàn có thể khẳng định cái ngông tồn tại như hạt nhân,
chi phối toàn bộ các phương diện khác của phong cách nghệ thuật Nguyễn
Tuân, từ đề tài, hệ thống nhân vật cho đến thể loại, giọng điệu, ngôn ngữ.
1.3.2. Mới lạ, không giống ai.

Đây là đặc điểm dễ nhận thấy ở hệ thống đề tài. Mọi thứ Nguyễn Tuân
bày biện đều có hương vị đặc sản, từ những nguồn “chưa ai khơi” nên thường
tạo được cảm giác rất mạnh, ấn tượng, rất sâu. Đến với những trang viết của
ngòi bút tài hoa ấy, một mặt người đọc say sưa trước cảnh, tình và tri thức
phong phú; mặt khác, khi cảm giác nhất thời qua đi, bao giờ người ta cũng
thấy như quý yêu thêm một chút, tự hào thêm một chút về dân tộc mình, về
thời đại mình đang sống. Hóa ra những điều tưởng chừng tủn mủn, lặt vặt kia
được Nguyễn Tuân gọi về để làm sống dậy trong chúng những ý nghĩa có tính
tư tưởng cao cả, chứ không nhằm thỏa mãn cảm giác hiếu kì, hời hợt.
Hệ thống nhân vật của Nguyễn Tuân bao giờ cũng mang dáng vẻ riêng,
độc đáo và rất đẹp - vẻ đẹp của tài hoa, của nhân cách. Ở cả hai giai đoạn
sáng tác, nhà văn luôn trân trọng những “đấng tài hoa” và say mê miêu tả,
chiêm ngưỡng họ. Mỗi nhân vật thường sành hơn người ở một thú chơi hoặc
một món nghề nào đó đầy tính nghệ thuật. Đó là cụ Kép, cụ Sáu, cụ Nghè
móm, ông Phó Sứ, ông Cử Hai… những nghệ sĩ bậc thầy của nghệ thuật uống
trà, uống rượu, chơi đèn kéo quân và đánh bạc bằng thơ (trong Vang bóng một
thời). Là ông Thông Phu lắm tài nhiều tật, cuối cùng đã gục chết vì một ván
cờ đất vì uất ức (trong Chiếc lư đồng mắt cua). Là nhân vật Huấn Cao tài hoa,
khí phách, nghị lực phi thường, một tính cách tiêu biểu được Nguyễn Tuân rất
mực yêu thích.
Sự chuyển dịch của ý thức nghệ thuật theo hướng đưa văn học về với
cuộc sống, phục vụ công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, dẫn tới việc mở

18
rộng thế giới nhân vật của trang viết Nguyễn Tuân. Nhưng không vì thế mà nhà
văn đánh mất tính độc đáo, bất biến của phong cách đó. Đó là niềm say mê phát
hiện và ngợi ca những vẻ đẹp của tài hoa, khí phách, của văn hóa dân tộc.
Hình ảnh người lao động mới trong Sông Đà (1960) cũng thật đẹp đẽ
lung linh giữa vùng hào quang của tài hoa. Chính họ chứ không ai khác là
những kĩ sư, nghệ sĩ đang tự nguyện góp cái tài sản, cái trí của mình để đắp

xây cuộc sống mới, nền văn hóa nghệ thuật mới.
1.3.3. Tự do, linh hoạt trong ngôn ngữ, giọng điệu
Dường như ông chỉ có thể gắn bó với lối văn nào thật sự tự do và chấp
nhận những cảm xúc đậm màu sắc chủ quan. Trong tay ông, thể tùy bút đã đạt
tới đỉnh cao của khả năng ghi nhận và thể hiện đời sống. Xét đến cùng, cái
duyên riêng không lẫn lộn, không ai bắt chước được của tùy bút Nguyễn Tuân
chính ở sự linh hoạt, phong phú đến thần tình của giọng điệu văn chương. Có
nhiều chi tiết tưởng rất bình thường nhưng bằng giọng điệu độc đáo, khả năng
quan sát sắc sảo, cùng với sự thông minh hóm hỉnh, hệ thống lý lẽ khúc chiết,
những triết lý có chiều sâu nhà văn đã khiến nó trở nên lung linh kỳ ảo, gợi
mở nhiều liên tưởng mới lạ. Giọng điệu của tùy bút Nguyễn Tuân thường là
giọng kể, người dẫn chuyện luôn đóng vai trò quan trọng trực tiếp tham gia
vào câu chuyện và có quan hệ thân mật, tin cậy với các nhân vật khác. Người
ấy thường có giọng lịch lãm, đôi khi tỏ ra hoài nghi, đùa bỡn nhưng vẫn đảm
bảo độ mãnh liệt của cảm xúc và tầm cao tư tưởng bằng rất nhiều từng trải.
Ðặc điểm nổi bật của giọng điệu tùy bút Nguyễn Tuân chính là sự
phong phú, đa thanh, thỏa mãn đến hoàn hảo những sắc thái tình cảm tinh tế
nhất. Trong mọi tình huống nhà văn luôn có cách nói phù hợp, không chung
chung, tạo được không khí cần thiết cho ý đồ nghệ thuật của mình. Dường
như một khi đã bắt đúng giọng thì không còn giản đơn là viết nữa, nhà văn trở
thành nghệ sĩ, mặc sức vẫy vùng múa lượn trên đỉnh cao sáng tạo nghệ thuật.
Như dòng sông Ðà "vừa hung bạo vừa trữ tình", mạch văn có lúc cuồn cuộn,

19
gân guốc, có lúc đằm thắm, sâu lắng, thiết tha: "Còn xa lắm mới đến cái thác
dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên. Tiếng nước
thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích,
giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tung rừng
lửa, rừng lửa càng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi.

Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá". "Con
sông Ðà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây
trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi
Mèo đốt nương xuân".
Nguyễn Tuân có lối ví von, so sánh chính xác, mới lạ, sự vật được miêu
tả trong trường liên tưởng, cảm giác chuyển đổi tinh tế, bất ngờ: "Nước bể Cô
Tô sao chiều nay nó xanh quá quắt đến như vậy? ( ) Cái màu xanh luôn luôn
biến đổi của nước bể chiều nay trên biển Cô Tô như là thử thách cái vốn từ vị
của mỗi đứa tôi đang nổi gió trong lòng. Biển xanh như gì nhỉ? Xanh như lá
chuối non? Xanh như lá chuối già? Xanh như mùa thu ngả cốm làng Vòng?
Nước biển Cô Tô đang đổi từ vẻ xanh này sang vẻ xanh khác. Nó xanh như
cái màu áo Kim Trọng trong tiết Thanh Minh? Ðúng một phần thôi. Bởi vì
con sóng vừa dội lên kia đã gia giảm thêm một chút gì, đã pha biến sang màu
khác. Thế thì nước biển xanh như cái vạt áo nước mắt của ông quan Tư Mã
nghe đàn tì bà trên con sóng Giang Châu thì có đúng không? ( ) Sóng cứ kế
tiếp cái xanh muôn vẻ mới, và nắng chiều luôn luôn thay mầu cho sóng. Mà
chữ thì không tài nào tuôn ra kịp với nhịp sóng".
Nhà văn như mê mẩn trong ma lực của ngôn từ và truyền được trọn vẹn
đến người đọc chất men say nhiều khi kỳ quái ấy. Nguyễn Tuân có một kho
từ vựng phong phú, do cần cù tích lũy cả đời với tình yêu say mê tiếng mẹ đẻ.
Không chỉ góp nhặt những từ sẵn có, ông còn luôn có ý thức sáng tạo từ và
cách dùng từ mới, lạ. Rất nhiều từ ngữ tưởng như đơn nghĩa hoặc cũ mòn,
nhưng khi vào tay ông chợt trở nên dồi dào sức biểu hiện. Hãy xem cách ông

20
dùng hai từ "góa bụa" và "lõa lồ": "Hiu quạnh sống trong người mình và
chung quanh mình, cái gì cũng gợi đến những ý vắng, lạnh và cũ và mỏi và
ngừng hết. Ngồi ăn một mình cả một mâm cơm chiều nay, tự nhiên tôi có cái
cảm tưởng gở dại là mình đã trở nên một người góa bụa, hoàn toàn góa bụa.
Góa vợ con, thân thích, anh em bạn, góa nhân loại, góa tất cả. Bát cơm và vào

miệng, chỉ là những miếng thê lương". "Mãi đến bây giờ về gần đến Phố, tôi
mới nhớ ra trong xe còn có thêm một hành khách nữa. Ấy là một người đàn
bà, một thứ đàn bà tồi. Tồi ở chỗ lõa lồ trong câu nói tiếng cười. Tồi ở cái
cách phục sức rẻ tiền mà cứ gắng làm ra lộng lẫy cho kỳ được". Vốn từ vựng
ấy, có lúc Nguyễn Tuân dùng để chơi ngông với đời, hoặc để trêu ghẹo thiên
hạ và xót xa cho thân mình. Ông tự nhận xét: "Ngôn ngữ của Nguyễn lủng cà
lủng củng, dấm dẳng cứ như đấm vào họng. Ðọc lên nghĩa tối quá lời sấm ông
trạng. Nguyễn cứ lập ngôn một cách bướng bỉnh vì đời nó ngu thế thì không
bướng bỉnh sao được". Từ sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân dùng
ngôn từ như công cụ đắc lực để cất cao lời ngợi ca Tổ Quốc, ngợi ca nhân dân
và giáng những đòn thật cay độc vào bản chất tàn bạo của kẻ thù.
Có thể khẳng định rằng, trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn
Tuân thật xứng đáng ở tầm cỡ nhà văn lớn. Nói đến ông, người ta nghĩ ngay
đến một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, rất mực tài hoa và độc đáo.
Ðặc biệt, Nguyễn Tuân "lớn" ở cả hai thời kỳ, từ cuộc đời cũ đến cuộc
đời mới, vừa là cây bút nổi bật của xu hướng văn học lãng mạn trước năm
1945 với đủ thứ "tật bệnh điển hình", vừa ở trong hàng ngũ những nhà văn
thành tâm chào đón và chân thành đi theo Cách mạng đến cùng. Trong hành
trình gian khổ hơn nửa thế kỷ ấy, có lúc va vấp, có lúc chênh vênh, cũng có
lúc phải tự "lột xác" đớn đau, nhưng nhà văn vẫn luôn giữ vẹn được nhân
cách, bản ngã của mình. Cái ngông, suy đến cùng lại như một giá trị được
đảm bảo bởi sức bền vững của tài hoa và tầm cao tư tưởng nghệ thuật. Trên
đỉnh cao sáng tạo vừa chói lòa vinh quang vừa cực kỳ cheo leo hiểm trở, nhà

×